|
Kẻ Xa Lạ phải
chết
Cuốn tiểu
thuyết không kết luận dứt khoát, hay hàm ngụ, explicity, implicity,
rằng, sự vật
thì như chúng là, things are the way they
are, chúng ta đành chấp nhận một thế giới được tổ chức, organized,
bởi những
kẻ cuồng tín, như ông tòa hay những luật sư đạo đức giả, cà chớn, hạng
bét. Chúng
ta tởm cả hai. Chúng ta cũng chẳng ưa gì ông thầy tu, do tính cứng
nhắc, và không
biết xử trí, lack of tact. Với hành xử gây phiền, disturbing behavior,
Meursault cho thấy thứ đạo đức bấp bênh và đáng nghi ngờ của những qui
ước, và
nghi lễ, tập tục của xã hội. Cái thái độ nghỉ chơi của anh ta,
discordant
attitude, làm lộ ra thói đạo đức giả, những lời dối trá, những sai sót,
lầm lẫn
và bất công mà cuộc sống xã hội gây ra. Và nó còn cho thấy, cùng lúc,
những đòi
hỏi sống, the demands of living, trong 1 cộng đồng đưa đến sự cắt xẻo,
tổn thương,
mutilation, hay - muợn lời Freud, kẻ khám phá, khai triển lớn lao nhất
của quan
niệm này– đưa đến sự tùng xẻo, đàn áp, bách hại tính tự chủ của cá
nhân, một số
bản năng và ham muốn của nó, the repression of individual sovereignty
and
certain instincts and desires.
Mặc dù ảnh
hưởng của Kafka thì thật là rõ, mặc dù thứ tiểu thuyết triết lý hay
tiểu thuyết
tư tưởng vốn thời thượng cùng với trào lưu hiện sinh, nay trở nên quá
lỗi thời,
nhưng Kẻ Xa Lạ vẫn được đọc, và bàn
luận về nó, bây giờ, một thời khác hẳn thời Camus viết nó. Điều này còn
cho thấy,
có gì đó vượt lên chuyện viết đẹp, câu chuyện được kết cấu
đẹp.
Như
cuộc đời, tiểu thuyết lớn lên, thường là già đi, và chết. Những cuốn
sống sót
thì thay da đổi thịt, change skin and being, như rắn, hay như nhộng,
biến thành bướm. Những cuốn này nói những điều khác cho những thế hệ
mới, và rất
thường xẩy ra, là những điều khác này, ngay chính tác giả cũng không hề
nghĩ tới,
hay có ý định mô tả.
Cái bi quan
của Camus không phải là cái thất bại, Camus’s pessimism is not
defeatist; ngược
lại, nó là lời gọi, a call, hành động, hay đúng hơn khởi loạn, làm
giặc,
rebellion. Người đọc rời những trang sách, có những ý nghĩ, feelings,
cho
Meursault, nhưng hẳn
nhiên, họ tin rằng, thế giới này thì tệ, badly made, và cần phải thay
đổi.
Vargas Llosa
London, 5 June, 1988
Nhân giới
thiệu bài viết của Vargas Llosa, GCC thấy 1 bài viết của ông trên số
báo Granta
mới, The Dream of the Celt,
trích từ tác phẩm mới ra lò của ông, một cuốn tiểu
thuyết dựa trên cuộc đời của Roger Casement.
Bèn giới thiệu tiếp bài này:
Mario Vargas Llosa: a life in writing
'The Nobel
prize is a fairytale for a week and a nightmare for a year. The first
year was
very difficult. I could barely write'
Giải
Nobel thì là 1 câu chuyện thần tiên cho 1 tuần lễ, và
là 1 ác mộng, cho 1 năm. Năm đầu mới khó khăn làm sao. Tôi gần như đếch
viết được
nữa
Roger Casement là nhân vật, có thực, mà nhờ ông, Conrad
viết Trái Tim của Bóng Đen.
TV bèn giới thiệu tiếp bài của Vargas Llosa, về cuốn của Conrad:
Heart of
Darkness
The Roots of
Humankind
how
one half of the world consumes resources at the expense of the other
half: (1)
Câu trên chôm và áp dụng vào xứ
Mít, được: Bằng cách nào anh
Yankee mũi tẹt, tức nửa nước Mít phía Bắc, 'tiêu thụ', thằng em Nam Bộ,
tức nửa
nước Mít phía Nam.
Đọc bài điểm sách trên, thì ngộ
ra 1 điều, lịch sử nhân loại, và cùng với nó,
là lịch sử văn học thế giới, hoá ra chỉ qui về… hai cuốn truyện: Trái Tim của
Bóng Đen, một nửa thế giới tiêu thụ tài nguyên của 1 nửa thế
giới còn lại; Bóng
Đêm giữa Ban Ngày, 1 nửa nhân loại và sau đó, toàn thể nhân
loại, thoát họa Quỉ
Đỏ.
Khi viết Bếp Lửa, TTT không hề nghĩ rằng,
cuốn sách của ông là cũng nằm trong
truyền thống trên.
Bởi vì nó cũng thuật câu chuyện
một nửa nước Mít làm thịt một nửa
nước Mít.
“The conquest of the earth,
which mostly means the taking it away from those who have a different
complexion or slightly flatter noses than ourselves, is not a pretty
thing when
you look into it too much.”
Published in 1902, “Heart of Darkness” had an immediate political
impact…
Cuộc chinh phục Miền Nam, nghĩa
là cuộc làm thịt đám Ngụy, thì
không bị được đẹp cho lắm, nếu nhìn thật gần, và nhìn thật ‘nâu’
[‘lâu’, đọc giọng
Bắc ], và thật nhiều…
Xb vào năm 1954, BL lập tức
trở thành một cú chính trị ‘đéo phải đạo’ [dám gọi
cái chuyện đi lên chiến khu, vô rừng, theo Chiến Kháng, "cũng là 1 thứ
đánh đĩ"!]….
*
Những nhận xét
của Vargas Llosa, về Meursault, ở cuối bài viết,
như 1 kẻ ham hưởng thụ khoái lạc… theo GCC, không đúng.
Nhưng cái ý
của ông, những cuốn tiểu thuyết, thay da đổi thịt, như rắn lột da,
hay như nhộng hoá thành bướm, chúng nói những điều khác cho những thế
hệ mới, những
điều mà tác giả của chúng cũng không ngờ tới [chẳng hề nghĩ đến chuyện
diễn tả,
never thought of expressing], tuyệt!
Như hiện tượng
cánh bướm, hay đòn “phục bút”, Kẻ Xa Lạ
tiên đoán cú 911.
Cách đọc Frédéric Beigbeder, ngắn, nhưng có
vẻ
thú hơn của Vargas Llosa:
Bởi là vì
theo Albert Camus, đời thì phi lý. Tại sao tất cả cái đó? Để làm gì?
Tại sao
cái ký sự vô ích đó? Bạn không có chuyện gì hết hay sao mà lại ngồi đọc
nó? Mọi
chuyện thì đều hư ảo ở dưới đó (Camus là Ecclésiaste ở đám chân đen).
Cái sự
sáng suốt lầm lì không ngăn Camus nhận Nobel vào năm 1957, (khi ông 44
tuổi, trẻ
nhất sau Kipling). Tại sao? Bởi là vì ông tóm tắt chủ nghĩa hiện sinh
của ông,
trong 1 câu thật đơn giản:
“Đời thật đáng sống nhờ nó đếch có nghĩa gì hết!”
Tuyệt cú mèo, hà hà! Đếch cái gì dính với đếch cái gì! Rồi sao? Thì
đúng là thế,
cái gọi là “hạnh phúc đếch tránh được”.
Ngược hẳn với cái trò rởm đời của
Sartre, từ chối Nobel, 7 năm sau đó, Camus nhận Nobel là vì ông cũng
đếch thèm
để ý đến. Người ta có thể đếch thèm để ý đến cả vũ trụ, và cũng có thể
chấp nhận
nó, quá nữa, “êu”nó.
Hay là tự tử liền tù tì, bởi vì đó là “vấn đế triết học rất
ư là nghiêm trọng”
Ngay cả cái
chết của Camus, thì cũng phi lý!
Chỉ có 1 cái
đếch phi lý, là văn phong của ông, do ông phịa ra [inventer]: Những câu
ngắn
(“Chủ từ, động từ, túc từ, chấm”, như ghi chú của Malraux trong sổ đọc,
gửi cho
nhà biên tập], một cách viết khô, trung tính, thì quá khứ kép, nó đã
ảnh hưởng
nặng lên tất cả những tác giả của cả 1 nửa thế kỷ, kể cả đám Tiểu
Thuyết Mới…
Chủ nghĩa
nhân bản lịch sự, tử tế của Albert Camus có thể làm người ta đôi khi
chán,
nhưng văn phong sắc bén của ông, không bao giờ!
Luôn luôn
có kẻ bắt chước, nhưng không bao giờ ngang hàng!
[Có đấy! Đề
nghị bạn đọc “Những Con Dã Tràng” của GCC!
Đừng nghĩ Gấu hoang
tưởng,
nhưng ý trên, là của 1 độc giả, cũng là nhà văn, bạn của GCC. Anh
ta nói,
hơn cả Camus, vì Meursault đâu có ho lao?
Cái anh chàng trong "Những Con
Dã
Tràng" ho lao, buổi chiều, ‘vừa húng hắng ho, vừa nhìn cái đu trên có
cô
gái, lao
tới rồi lại lao lui… ngay độc
giả cũng "chịu không thấu, giật bắn mình, bấn xúc xích, và.... ướt
vãi.."!
GCC nhớ là, bà
cụ C. đọc, lắc đầu, nhìn Gấu, phán, thằng này bịnh!]
[C'est que,
pour Albert Camus (1913-1960), la vie est absurde. Pourquoi tout ça? A
quoi
bon? Pourquoi cette chronique inutile? N'avez-vous rien de mieux à
faire que de
lire ce livre? Tout est vanité en ce bas monde (Camus, c'est
l'Ecclésiaste chez
les pieds-noirs). Cette lucidité taciturne n'a pas empêché Camus
d'accepter le
Prix Nobel de Littérature en 1957 (à 44 ans, ce qui faisait de lui le
plus
jeune lauréat après Kipling). Pourquoi? Parce qu'il a résumé son
existentialisme en une devise simple : «La vie est d'autant mieux vécue
qu'elle
n'a pas de sens. » Rien ne rime à rien - et alors? Et si c'était
justement
cela, «le bonheur inévitable»? Contrairement au refus snob de Sartre, 7
ans
plus tard, qui confère de l'importance à la récompense, Albert Camus
accepte le
Nobel précisément parce qu'il s'en moque. On peut se foutre de
l'univers, et
l'accepter tout de même, voire l'aimer. Ou bien il faut se suicider
tout de
suite, puisque tel est le seul « problème philosophique vraiment
sérieux ».
Même la mort
de Camus sera absurd.
Bien que
tuberculeux, ce play-boy, sosie d'Humphrey Bogart, fut assassiné à 47
ans par
un platane en bordure de la Nationale 6 entre Villleblevin et
Villeneuve-la-Guyard, avec la complicité de Michel Gallimard et d'une
Facel
Vega décapotable.
La seule
chose qui n'est pas absurde, c'est le style que Camus a inventé : des
phrases
courtes (« sujet, verbe, commplément,
point », écrivit Malraux dans sa note de lecture à l’éditeur), une
écriture
sèche, neutre, au passé composé, qui a fortement influencé tous les
auteurs de
la seconde moitié du siècle, Nouveau roman inclus. Ce qui n'interdit
pas les
Images fortes - par exemple, pour décrire les larmes et la sueur sur le
visage
de Perez : «Elles s'étalaient, se rejoignaient et formaient un vernis
d'eau sur
ce visage détruit. » Même si on l'a un peu trop étuudié à l'école, il
faut
relire L'Étranger, dont le désespoir
ensoleillé, reste, comme dit la publicité pour la Suze, «souvent imité,
jamais
égalé ». L'humanisme gentille d'Albert Camus peut parfois lasser, mais
pas son
écriture tranchante.]
Vargas Llosa
nhận xét:
Conrad không
thể nào viết được Trái Tim của Bóng
Đen nếu không có 6 tháng ông trải qua ở
Congo, và bị tan nát cả cõi lòng [devastated] bởi Công ty của Leopold
II. Tuy
kinh nghiệm này là chất liệu đầu tiên, primary material, cho cuốn tiểu
thuyết,
và nó có thể đọc, trong số rất nhiều cách đọc khả hữu của nó, như là 1
thứ thuốc
trục quỉ, exorcism, thực dân thuộc địa, và phân biệt chủng tộc [đâu có
khác chi bạn
đọc TV và cảm thấy được trục quỉ Bắc Kít, hà, hà!]. Nhưng theo Vargas
Llosa, Trái
Tim của Bóng Đen vượt [transcend] những hoàn cảnh lịch sử và xã
hội này, và trở
thành 1 thứ thám hiểm cội rễ của nhân loại [cũng đúng luôn cách đọc
trang Tin Văn, khi
GCC phán "cà chớn", dân Mít được ông giời cho ra đời, là để thực hiện
cuộc ăn cướp
Miền Nam, giấc mộng đẹp nhất và cũng là bửn nhất của giống dân này!]
Thú thực GCC
mới được đọc cái kiểu cắt nghĩa Trái
Tim của Vargas Llosa, không ngờ trùng hợp
với của… GCC, khi cắt nghĩa cuộc chiến vừa rồi.
Thế mới tếu!
GCC chẳng
đã
từng phán, đám VC thổi cuộc chiến, nào là đỉnh cao chói lọi, bước ngoặt
lịch sử, gì
gì... cũng đếch có xứng với nó!
Thê thảm nhất,
là đúng ngày 30 Tháng Tư 1975, cái đẹp
biến mất, chỉ còn cái ác, cái độc Bắc Kít!
GCC đọc D.M
Thomas, khi ông viết tiểu sử của Solzhenitsyn, và nhận ra hiện tượng
Savior biến thành
Devil, và bèn thuổng, áp dụng vào xứ Mít
Một trong những
cái bảnh [merit] của Kẻ Xa Lạ
là tính kinh tế [the economy] của văn xuôi. Khi
cuốn sách xuất hiện, người ta nói, nó thuổng sự tinh ròng và ngắn gọn
của Hemingway [it was said
that it emulated Hemingway’s purity and brevity]. Nhưng ngôn ngữ của
anh Tẩy
[the Frenchman’s language] thì nhiều dụng tâm, và trí thức hơn của anh
Mẽo,
much more premeditated and intellectual than the American’s.Nó sáng sủa
và chính xác, clear and precise, đến
nỗi hình như không phải viết, mà là nói, hay bảnh hơn nữa, nghe, heard.
Cái cách
thức tuyệt đối - qua đó, văn phong được vặt sạch mọi hoa hoè hoa sói,
và cấm không
được buông thả, xả láng, self-indulgence - là cái điều góp phần làm nên
“y như
thiệt”, rất ư là thiệt, verisimilitude, của câu chuyện thật khó mà
thiệt được, rất
ư là đáng ngờ, implausible story.
Và tới
đây thì những tính cách của “viết” và
của “nhân vật” trộn vào nhau: Meursault, chính anh ta, thì cũng như
“ông vua cởi
chuồng”, nhìn thấy hết, transparent, trực tiếp, direct, và nguyên tố,
cơ bản, elemental.
Điều
khủng
khiếp nhất về anh ta, là, anh ta đếch thèm để ý đến những người khác
[cái ý nghĩa
“người dưng”, dửng dưng, là do vậy, thành thử Dương Tường mới khư khư
giữ lấy cách
dịch của ông]. Những từ lớn, kêu như chuông, tư tưởng lớn, tôn giáo,
công lý, cái
chết, tự do – anh ta làm mặt lạnh với tất cả, và anh ta làm mặt
lạnh luôn cả với những đau khổ của người khác. Khi anh hàng
xóm Raymond Sintes đánh cô bồ người Ả Rập, “Kẻ Tà Đạo” Meursault bèn
biếu anh
ta 1 cái “alibi”, [ngoại phạm, đếch có mặt tại hiện trường], để trình
với cảnh
sát, điều này không có nghĩa anh có cảm tình với người hàng xóm, mà chỉ
là do…
bất cẩn, bất cần, negligence. Ngược lại, có những chi tiết nhỏ nhặt,
hay một vài
khúc phim nhảm nhí, chuyện thường ngày ở huyện, certain daily episodes,
lại làm
anh quan tâm, thí dụ, mối liên hệ giữa anh già Salmadano với con chó.
Có vẻ như
anh ta rất có cảm tình với những trò lẩm cẩm này. Nhưng những gì làm
anh cảm động
thì không liên quan đến đàn ông hay là đàn bà, mà là với cảnh quan con
người,
human landscapes, nhưng, anh ta tước đi hết mọi tính người, chỉ giữ lại
những
thực tại cảm giác, sensorial realities, nóng thì bảo là nóng, lạnh thì
bảo là lạnh:
sự xô đẩy, chen lấn, tiếng ồn ào nơi lối xóm, những mùi của mùa hè,
những bãi
biển cát nóng bỏng.
Anh ta là
1
kẻ xa lạ theo đúng nghĩa cơ bản, radical sense, bởi vì anh ta giao tiếp
tốt với những sự vật hơn là với con người. Và để giữ mối liên lạc với
con
người, anh ta bèn biến con người thành con vật, hoặc thành đối tượng,
tức là những
đồ vật. [Câu này khủng thật: in order to maintain a relationship with
humans,
he must animalize them or objectify them.]
Anh ta
ứng xử
thật tới, he gets on so well, với cô bồ Marie, là theo kiểu đó: quần áo
cô mặc,
đôi dép cô đi, cái cơ thể cô “nhịp nhàng, réo rắt” ở nơi anh [strike a
chord in
him]. Cô gái không đánh thức tình cảm ở nơi anh, mà 1 cái gì dài,
durable, hơn:
cô đánh thức cả một chuỗi ham muốn, Meursault chỉ quan tâm tới cái bản
năng, thú
vật ở nơi cô. Thế giới của Meursault không phải là thế giới tà đạo,
pagan, nó là
1 thế giới mất tính người, dehumanized.
Kỳ cục
là, mặc
dù bài xã hội, antisocial, M. không phải là 1 kẻ nổi loạn, a rebel, bởi
vì anh
ta không có ý niệm gì về “nonconformity” [không phù hợp, không thuận
theo]. Điều
anh ta làm không mắc mớ [tied] với nguyên lý, hay niềm tin, khiến anh
thách đố
trật tự xã hội: cách sống của anh là như thế. Anh ta từ chối khế ước xã
hội,
the social pact, vượt nghi lễ, tập tục mang dấu ấn cuộc sống tập thể,
theo kiểu
tự nhiên như người Hà Lội, và cũng chẳng thèm để ý tới điều anh ta làm
nữa (ít
ra là như vậy, cho đến khi anh ta bị kết án). Với những người kết án
anh, những
điều trên mới tệ hại hơn nhiều so với tội ác của anh. Nếu anh ta có
những ý nghĩ,
những giá trị để biện minh cho hành động của mình, có thể họ sẽ khoan
dung hơn.
Họ sẽ đưa anh đi học tập cải tạo, phục hồi nhân phẩm. Nhưng anh ta là
như vậy,
bất trị, incorrigible, hết xài về mặt xã hội (cannot be reclaimed for
society)
Khi công tố viện phán, M hết thuốc chữa, anh ta chẳng có gì nói về mặt
luật pháp
mà anh ta đếch thèm để ý đến, Meursault has nothing to do with “a
society whose
laws he is unaware of”, ông ta hoàn toàn có lý, từ phía quan tòa.
Meursault là
1 thứ quỉ, a kind of monster. Nhưng trường hợp của anh ta cũng làm bật
ra những
khía cạnh quỉ ma, giới hạn của xã hội, theo nghĩa, mọi xã hội, dù cởi
mở tới cỡ
nào, thì cũng luôn đặt ra những chướng ngại vật, và trừng phạt, trên
con đường
mà 1 cá nhân, mỗi cá nhân, trong thâm sâu của nó, luôn đòi hỏi, 1 tự do
tuyệt đối.
Ở bên
trong
cái chủ nghĩa bi quan của Kẻ Xa Lạ,
tuy nhiên, vẫn âm ỉ cháy một ngọn
lửa hy vọng.
Nhất là đoạn cuối khép lại cuốn truyện, ở đó, không phải cam phận,
resignation,
nhưng mà là sự sáng suốt ngự trị. M. đá cho anh thầy tu 1 phát, ra khỏi
sự giận
dữ của anh, [đi chỗ khác chơi, ta đếch có thì giờ với mi, thì giờ của
ta quí lắm,
đâu có còn bao nhiêu, hà, hà! [Nhà thơ TTT, một lần
ngồi Quán
Chùa, chê đoạn này thua xa đoạn tương tự trong Đỏ và Đen].
Anh thầy tu cố ôm lấy M, cố thuần phục anh ta, bằng cách
dụ khị, ta sẽ cầu nguyện cho con, sẽ ôm lấy số mệnh của con, như là 1
thằng đàn
ông mở lòng ra trước sự “dửng dưng dịu dàng của cõi đời” [the chaplain
who had
tried to domesticate him, by offering to pray for him, and embraces,
with
serene confidence, his destiny as a man open to ‘the tender
indifference of the
world’].
Can Dostoevsky
Still Kick You in the Gut?
Liệu Dos
vưỡn “thoi cho bạn 1 cú ná thở”?
Vưõn!
Đặc biệt
là, “Hồi Ký Viết Dưới Hầm":
Many people
would say that Dostoevsky’s short novel “Notes from Underground” marks
the
beginning of the modernist movement in literature. (Other candidates:
Diderot’s
“Rameau’s Nephew,” written in the seventeen-sixties but not widely read
until
the eighteen-twenties, and, of course, Flaubert’s “Madame Bovary,” from
1856.)
Certainly, Nietzsche’s writings, Freud’s theory of neurosis, Kafka’s
“Metamorphosis,” Bellow’s “Herzog,” Philip Roth’s “Portnoy’s
Complaint,”
perhaps Scorsese’s “Taxi Driver,” and half of Woody Allen’s work
wouldn’t have
been the same without the existence of this ornery, unstable,
unmanageable
text—the fictional confession of a spiteful modern Hamlet, an
inhabitant of St.
Petersburg, “that most abstract and pre-meditated city,” and a man
unable to
act and also unable to stop humiliating himself and embarrassing
others. A
self-regarding, truculent, miserable, paralyzed man. As I began reading
“Notes”
again recently (in Andrew R. MacAndrew’s translation for Signet
Classics), I
wondered if it had been overwhelmed by the books and movies that it has
influenced. I wondered if “Notes” would seem like a dim echo, whether
it still
had the shock value that I remember from long ago.
Sa Đọa của Camus, là từ Notes.
Bởi vậy cái anh Tẩy Mũi
Tẹt, bỏ chạy cuộc chiến qua Paris, sáng sáng ngồi Hai
Con Khỉ,
Les Deux Magots, kế bên bàn Sartre, vừa uống cà phê vừa dịch lia
lịa Sa Đọa gửi
về cho Xìn Phóng báo Văn, GCC,
lúc đó phục sát đất!
Phục cái tài
tiếng Tây,
mà còn phục cả cái sự “thú tội” của anh ta, cái sự nhập thân của anh
ta vào nhân
vật của Dos, Camus - the
fictional confession of a spiteful modern Hamlet, an inhabitant of St.
Petersburg, “that most abstract and pre-meditated city,” and a man
unable to
act and also unable to stop humiliating himself and embarrassing
others. A
self-regarding, truculent, miserable, paralyzed man.
Ui chao, hóa
ra đếch phải!
Hồi
Ký Viết Dưới Hầm
Gấu Cái @ Les
Deux Magots
Bữa đó, bà KT chở đi. Bả
biểu, anh chị tới đó, đứng bên ngoài, chụp cái hình
rồi…. thôi
nhe. Ngồi đó, mắc lắm!
Vợ chồng Gấu đâu có dám nói ngược lại. Định bụng, bữa sau đi métro,
nhưng lu bu
rồi cũng thôi.
Vô biết đâu
ngồi đúng cái bàn anh Tẩy mũi tẹt từng ngồi…
*
Nhưng cùng
lúc thì cũng phải nhìn nhận, xã hội đã không lầm khi kết án "Kẻ Tà Đạo"
Meursault,
khi coi anh ta như 1 kẻ thù, 1 kẻ muốn bẻ gẫy cộng đồng, nếu hành vi
của anh ta
được nhân lên. Câu chuyện của anh ta là 1 chứng minh đau thương, nhưng
cực kỳ rõ
rệt, unequivocal, của cái sự cần, need, “kịch”, cần “giả tưởng”,
"fiction", hay nói
1 cách thô bạo, cần những lời dối trá, "lies", trong những liên hệ giữa
con người. Những tình cảm dởm, phịa, "fake feeings", bảo đảm sự chung
sống trong
xã hội [thằng đó xài tiền kỹ quá, thay cho, thằng cha bần tiện, thí
dụ!], bởi vì
mặc dù nhìn từ viễn ảnh cá nhân, thì nó thật là trống rỗng, tuy bắt
buộc, nhưng, chúng tỏ ra cần thiết, và, bản chất phải như vậy, nếu nhìn
từ quan điểm
cộng đồng. Những tình cảm giả đò, giả tưởng, phịa ra đó, chúng là những
qui ước
gắn chặt cái hợp đồng tập thể. Chẳng khác gì những từ, "những qui ước
kêu như chuông",
those sonorous conventions, nếu thiếu chúng, sự thông cảm, giao tiếp
giữa
con người trở thành bất khả. Nếu con người, như Meursault, bản năng
thuần tuý,
thì không phải chỉ định chế gia đình biến mất, mà luôn cả xã hội cũng
đếch còn,
và con người sau cùng bèn làm thịt lẫn nhau, một cách tầm phào [tại mặt
trời làm
chói mắt], và phi lý, như cách Meursault làm thịt anh Ả Rập tại bãi
biển.
Vargas
Llosa
Kẻ Xa Lạ
Kẻ Xa Lạ phải
chết
Nhà phê bình
phát triển luận cứ trên một cách thuyết phục nhất, là Robert Champigny,
trong
“Về 1 vị anh hùng tà đạo” [chắc là thuổng Kẻ Tà Đạo của bạn quí của GCC], Sur
un héros paien, [Gallimard, 1959]. Ông phán, Meursault bị kết án vì
vứt
thùng rác cái gọi là kịch đời, đúng hơn, “xã hội kịch”, “theatrical
society”, 1
xã hội theo anh ta, không được làm nên bởi những con người tự nhiên,
natural
beings, nhưng trong đó đạo đức giả ngự trị. Với cái chất “tà đạo” [như
của bạn quí của
GCC], Meursault là một thách đấu sống, a living challenge, đối với
“huyền thoại
tập thể”, “collective myth”. Từ đó, là cái chết trên máy chém. “Kẻ Tà
Đạo”
Meursault bị xã hội làm thịt như là 1 kẻ tự do, và đây là một hành động
anh
hùng, khai trí, a heroic and edifying act!
Hà, hà!
Cách nhìn này,
về cuốn tiểu thuyết, theo tôi [Vargas Llosa] cục bộ, không đủ, partial
and
insufficient. Chẳng nghi ngờ chi, cái cách theo đó vụ án của Meursault
được “chỉ
đạo” [conducted] thì “cà chớn” về mặt đạo hạnh và luật pháp, ethically
and
legally scandalous, một trò hề [a parody: nhạo nhại] công lý, bởi vì,
bị kết
án thì không phải việc giết tên Ả Rập mà
là thái độ chống xã hội của kẻ bị buộc tội, đường hướng qua đó, tâm lý
và đạo đức
[morality] của anh ta không ăn khớp với những tiêu chuẩn của xã hội.
Thái độ, cách
cư xử của Meursault cho chúng ta thấy sự bất toàn, khiếm khuyết của
việc điều hành
công lý và còn hé cho chúng ta thấy cái thế giới nhơ bẩn của báo chí.
Nhưng khởi đi
từ đó, để mà đi đến sự kết án xã hội “kịch cợm”, và dựa trên “huyền
thoại tập
thể”, thì đi quá xa. Xã hội hiện đại thì không kịch cợm nhiều so với
bất cứ 1 xã
hội nào khác; mọi xã hội, không ngoại lệ nào khả hữu, thì đều đã, đang,
và sẽ “kịch
cợm” cả, mặc dù “sô” diễn khác đi trong mỗi trường hợp. Sẽ đếch có xã
hội, đếch
có 1 hình thức cùng chung sống, coexistence, nếu không có đồng thuận,
theo đó mọi
người nên, phải, bắt buộc phải… tuân theo một số hình thức, hay nghi
lễ. Nếu không
có sự thoả thuận này, thay vì xã hội, thì là rừng
rú, nơi
kẻ mạnh thì thắng. Với cách hành xử, thái độ của mình, “kẻ tà đạo”
Meursault
chơi vai của xừ lủy: một cá nhân ở cực điểm, chửi bố mọi
tiêu chuẩn
xã hội.
Vấn đề của cuốn tiểu thuyết, theo tôi, không phải như thế, mà
là: liệu
thái độ của Meursault được lòng [đáng ưa, preferable], đối với đám ngồi
xét xử anh
ta?
Đây là 1 cú đáng
lèm bèm, debatable. Mặc dù tác giả hàm ngụ này nọ, ông vờ cú này, chẳng
đưa ra
1 kết luận nào, và để cho độc giả tùy nghi, muốn quyết định sao tùy hỷ,
it is
left to readers to decide.
“Huyền thoại
tập thể” là 1 hợp đồng ngầm cho phép những con người như là những cá
nhân sống
trong một cộng đồng. Nó có 1 cái giá mà đàn ông và đàn bà phải trả -
cho dù họ
biết hay không biết: họ phải từ bỏ, relinquist, chủ quyền tuyệt đối,
absolute
sovereignty, cắt bỏ một vài lạc thú, xung động, kích động, cú hích,
desires,
impulses, và những cái khoái tỉ quái đản, khác thường, fantasies, khi
chúng có
thể gây nguy hiểm cho những người khác. Cái thảm kịch mà Meursault biểu
tượng,
the tragedy that Meursault symbolizes, là của 1 cá nhân mà sự tự do của
anh thì
đếch ăn ý, cà chớn, impaired, để mà “ăn đời ở kiếp”, to make life,
trong một xã
hội khả hữu. Cái chủ nghĩa cá nhân hung dữ, không thể đè nén, kiềm chế
được của
nhân vật của Camus làm chúng ta cảm động, và làm sống dậy ở trong chúng
ta tình
liên đới, đoàn kết phôi thai: ở trong sâu thẳm của chúng ta có một tên
nô lệ hoài
nhớ, một tù nhân muốn “hung hăng con bọ xít”, spontaneous, frank, and
antisocial, như anh ta!
Kẻ Xa Lạ
Kẻ Xa Lạ phải
chết
Cùng với Con
người nổi loạn, Kẻ Xa Lạ là cuốn bảnh nhất của Camus. Hình như
ông thai nghén nó,
vào năm 1937 [GCC sinh năm 1937], mặc dù theo 1 đường hướng rất ư là mù
mờ, khi
Camus nằm dưỡng thương ở một dưỡng đường, đâu đó trong dẫy núi Alps,
sau 1
trong rất nhiều cú tái đi tái lại của bịnh ho lao vào năm 1930. Trong Sổ Ghi
ông cho biết đã hoàn tất
nó vào năm 1940. Nhưng phải đến năm 1942, thì mới chào đời, và cũng nhờ
bàn tay
nghĩa hiệp của André Malraux, nói dùm vài tiếng, chắc thế, với nhà xb
Gallimard.
Malraux là 1 trong những mẫu mã văn chương của ông.
Cái thời, và
những hoàn cảnh qua đó Kẻ Xa Lạ bò
ra đời [được thai nghén] thì mới thú vị mà mới
có ý nghĩa. Chủ nghĩa bi quan lạnh lẽo - phủ lên cuốn sách, phủ lên
những qui
chiếu về xã hội và phận người ở trong một câu chuyện rõ ràng là
"thuổng"
rất nhiều
từ căn bịnh của Camus, những cơn "ho thúng thắng vào buổi chiều" đã làm
gầy mòn cơ
thể của ông theo năm tháng, và từ cái khí
hậu nhức nhối của Âu Châu vào thời kỳ cuối của những năm “inter-war”,
và cuộc nổ
bùng ra, của Đệ Nhị Chiến.
Cuốn sách được
coi như là một ẩn dụ về bất công của thế giới và của cuộc đời, một
minh họa văn
chương của “cảm tính phi lý” mà Camus mô tả trong Huyền Thoại
Sisyphe, một tiểu luận ra lò chỉ ít lâu sau cuốn tiểu thuyết.
Sartre là tay bảnh
nhất đã tìm ra mối nối giữa cả hai, trong 1 bài viết cũng thật là bố
chó xồm, Cắt nghĩa Kẻ Xa Lạ, Explication
de L’Étranger. Meursault được coi như là nhập thân của
con người vào 1 cõi hiện hữu đếch có 1 tí ý nghĩa, nạn nhân
của những
cơ chế [chữ này thuổng của VC] xã hội nằm bên dưới những Từ Lớn - Luật
Pháp, Công
Lý - chỉ là những từ nguỵ trang, thực sự làm đếch gì có, mà nếu có, thì
là, không
thể có công lý, và phi lý. Như những nhân vật vô danh của Kafka,
Meursault nhân cách hóa hoàn cảnh
thống thiết
của cá nhân con người mà số phận thì tùy thuộc những sức mạnh không thể
kiểm
tra được, và tùy hứng.
[suite]
Note: Không
phải tự nhiên mà Miền Nam Việt Nam, trước 1975, đã ảnh hưởng khá nặng
nề chủ
nghĩa hiện sinh, và nhất là Camus, có thể nói như thế. Tất cả những cái
“themes”
của hiện sinh thì như bày ra đó, âu lo, dấn thân, nhập cuộc, phi lý,
sao xuyến,
hư vô...
Nhưng liền sau
đó bật ra một diễn giải hướng thượng, “positive” interpretation, của
cuốn tiểu
thuyết. Meursault được nhìn như là 1 nguyên mẫu của
con người chân thực, the prototype of authentic
man, thoát ra mọi quy ước, free from conventions, không thể lừa gạt, và
tự lừa
gạt, incapable de deception or self-deception, một con người mà xã hội
kết án,
bởi vì anh ta đếch biết nói dối, hay phịa ra điều anh ta không cảm
thấy, fake
what he does not feel. Camus, chính ông, khoái [support] cách đọc nhân
vật theo kiểu này. Ông viết trong lời bạt cho ấn bản bằng tiếng Mẽo:
Nhân vật
trong cuốn sách này bị kết án vì anh ta đếch chịu chơi theo luật chơi,
he doesn’t
play the game… anh ta từ chối nói dối. Nói dối thì không chỉ có nghĩa
là nói ra
điều không thực. Nó còn là, nói quá cái điều thực, và, trong trường hợp
liên quan
tới trái tim, nói quá điều mà một người cảm thấy. Chúng ta tất cả đều
làm như
thế, mọi ngày, để cho đời… đỡ khổ [để
cho đời đơn giản hơn, nguyên văn]. Thằng cha Meursault, ngược hẳn với
bề ngoài,
đếch chịu làm cho đời đơn giản hơn, Hắn nói hắn là gì, he says what he
is, hắn
từ chối giấu diếm tình cảm, ý nghĩ, his feelings, và xã hội, liền lập
tức cảm
thấy bị đe dọa…
Như vậy, người
đọc không lầm, khi coi Kẻ Xa Lạ như là
câu chuyện của 1 con người không có tí tham vọng làm anh Trỗi, anh Núp,
Dũng Sĩ
Diệt Mẽo… bằng lòng chết cho sự thực.
[Bài Tựa
này sau được in lại, như là Bạt, trong Kẻ
Xa Lạ, bản của nhà xb Penguin, 1983, pp 118-19]
Một dẫn giải
tuyệt hảo. Tuy nhiên, không đầy đủ, incomplete – và nó được dòng phê
bình chính
thống về Camus luôn nhắc tới, to occupy almost canonical status in
studies on
Camus.
Đọc như thế, Kẻ Xa Lạ trở thành kẻ tố cáo sự thống
trị của những quy ước, a denunciation of the tyranny of conventions,
những dối
trá mà xã hội được đặt để trên chúng. Một kẻ tuẫn nạn vì sự thực,
Meursault bèn
đi tù, bị kết án, và “được” lên máy chém bởi vì cái sự không thể mang
tính bản
thể, his ontological inability, che giấu tình cảm của anh ta, và làm
như mọi
người làm: chơi cái phần của mình trong vở kịch đời. Thật bất khả, đối
với
Meursault, giả đò đau khổ vô cùng khi mẹ chết, thí dụ, hay giả đò sướng
điên lên
trong khi đếch thấy sướng gì hết. Anh ta cũng không thể giả đò hối hận
khi đứng
trước Tòa, về cái chết mà anh ta đã gây nên. Và chính vì đếch hối hận
gì cả mà
anh ta bị xã hội loài người làm thịt, chứ không phải vì giết người!
Nhà phê bình
phát triển luận cứ trên một cách thuyết phục nhất, là Robert Champigny,
trong
“Về 1 vị anh hùng tà đạo” [chắc là thuổng Kẻ Tà Đạo của bạn quí của GCC], Sur
un héros paien, [Gallimard, 1959]. Ông phán, Meursault bị kết án vì
vứt
thùng rác cái gọi là kịch đời, đúng hơn, “xã hội kịch”, “theatrical
society”, 1
xã hội theo anh ta, không được làm nên bởi những con người tự nhiên,
natural
beings, nhưng trong đó đạo đức giả ngự trị. Với cái chất “tà đạo” [như
của bạn quí của
GCC], Meursault là một thách đấu sống, a living challenge, đối với
“huyền thoại
tập thể”, “collective myth”. Từ đó, là cái chết trên máy chém. “Kẻ Tà
Đạo”
Meursault bị xã hội làm thịt như là 1 kẻ tự do, và đây là một hành động
anh
hùng, khai trí, a heroic and edifying act!
Hà, hà!
L'Étranger
The Outsider Must Die
Along with L'Homme
révolté (The Rebel), L'Étranger (The Outsider) is
Camus's
best book. It seems that the project was born in August 1937, albeit in
a very
vague way, when Camus was convalescing in a clinic in the Alps from one
of the
many relapses that he suffered following his attack of tuberculosis in
1930. In
his Cahiers (Notebooks) he points out
that he finished the novel in 1940. (But it was only published in 1942,
by
Gallimard, thanks to the support of Andre Malraux, who had been one of
the
literary models of the young Camus.)
The time and
circumstances in which The Outsider
was conceived are significant. The icy pessimism that pervades the
references
to society and the human condition in the story clearly stems in great
part
from the illness that weakened his fragile body over decades, and the
anguished
climate in Europe at the end of the inter-war years and at the outbreak
of the
Second World War.
The book was
interpreted as a metaphor of the injustice of the world and of life, a
literary
illustration of that 'absurd sensibility' that Camus had described in Le Mythe de Sisyphe (The Myth of Sisyphus),
an essay that appeared shortly after the novel. It was Sartre who best
linked
both texts, in a brilliant commentary on The
Outsider. Meursault was seen as the incarnation of a man hurled
into a
senseless existence, the victim of social mechanisms that beneath the
disguise
of big words - The Law, Justice - were simply unjustifiable and
irrational.
Like the anonymous heroes of Kafka, Meursault personified the pathetic
situation of the individual whose fate depends on forces that are
uncontrollable and arbitrary.
[suite]
Vargas
Llosa
1988, [London, June 5]
Bạn quí của
chúng ta: Kẻ Xa Lạ, Người Dưng
Le
Magazine Littéraire, số đặc biệt về Virginia Woolf, Tháng Tư
2012, có 1 bài về Kẻ Xa Lạ,
thật lạ,
và có thể có cái nghĩa “người dưng”.
Vừa mở ra, độc
giả tưởng anh "người dưng "này đưa cả hai tay về phía mình, ra ý tôi
không phải "người dưng", tôi rất cần các bạn để “trải lòng”!
Tẽn tò!
Tháng
Bẩy,
1944, Barthes đọc lại Kẻ Xa Lạ, và
phán: “Camus đã sáng tạo ra một ngôn ngữ của sự vắng mặt nào đó, hay
chí ít, một
hiện diện không đam mê, [Camus a créé le langage d'une certaine
absence, ou
tout au moins d'une présence sans passion"
Trò chuyện với
Frédéric Beigbeder
Phải đợi rất
lâu tôi mới thực hiện xong cuộc trò chuyện này,
nhưng kết quả thì tương đối thỏa mãn. Frédéric Beigbeder là một nhà văn
"vớ vẩn" trong mắt rất nhiều người, nhưng tôi tin trường hợp
Beigbeder cũng sẽ giống như trường hợp Romain Gary trước đây, cũng như
tin rằng giá trị của sự phù phiếm là chuyện hay ho hơn rất
nhiều so với sự phù
phiếm của giá trị.
Blog NL
Tay
này, "cũng" TV/GCC là nơi/người đầu tiên nhắc tới, khi
đọc Phong
Thần Bảng của ông.
Sau đây là bài viết của FB [không phải Face Book nhe], về cuốn số 1 của
Phong
Thần Bảng: Kẻ Xa Lạ của
Camus.
N# 1: L'ÉTRANGER
d'Albert Camus (1942)
Le n # 1 de
ce classement des 50 livres du siècle, choisis par le vote de 6.000
Français,
n'est pas moi mais je m'en fous, même pas vexé, je serai dans le
«Premier
Invenntaire» du XX le siècle, non? Non plus? ?
Il faut
souligner que notre grand vainqueur rassurera les paresseux : un roman
très
court (123 pages en gros caractères). Pas besoin de se fatiguer : on
peut donc
écrire un chef-d'œuvre sans noircir des millliers de pages comme Proust.
Chef-d'œuvre
que nous pouvons lire en une demi-heure montre en main. Autre bonne
nouvelle :
le n# 1 de notre liste est un premier roman. Il s'agit donc d'un
premier roman
premier. Enfin, mauvaise nouvelle pour les xénophobes : le roman
préféré des
Français s'intitule L'Etranger.
Il nous
narre l'histoire de Meursault, un type décalé qui se fout de tout : sa
mère
meurt - il s'en fiche; il tue un Arabe sur une plage algérienne - ça
lui est
égal; on le condamne à mort - il ne se défend même pas. La célèbre
première phrase
du livre le montre bien : «Aujourd'hui maman est morte. Ou peut-être
hier, je
ne sais pas. » Le gars ne sait même pas quel jour sa mère est morte! On
ne se
rend pas toujours compte d'une chose : tous les losers magnifiques, les
meurtriers paumés, les anti-héros désabusés de la littérature
contemporaine
sont des héritiers de Meursault. Ce sont des Sisyphe heureux,
des
révoltés pas
dupes, des nihilistes optimistes, des naïfs blasés : bref, des
paradoxes
ambulants qui continuent de respirer malgré l'inutilité de tout.
C'est que,
pour Albert Camus (1913-1960), la vie est absurde. Pourquoi tout ça? A
quoi
bon? Pourquoi cette chronique inutile? N'avez-vous rien de mieux à
faire que de
lire ce livre? Tout est vanité en ce bas monde (Camus, c'est
l'Ecclésiaste chez
les pieds-noirs). Cette lucidité taciturne n'a pas empêché Camus
d'accepter le
Prix Nobel de Littérature en 1957 (à 44 ans, ce qui faisait de lui le
plus
jeune lauréat après Kipling). Pourquoi? Parce qu'il a résumé son
existentialisme en une devise simple : «La vie est d'autant mieux vécue
qu'elle
n'a pas de sens. » Rien ne rime à rien - et alors? Et si c'était
justement
cela, «le bonheur inévitable»? Contrairement au refus snob de Sartre, 7
ans
plus tard, qui confère de l'importance à la récompense, Albert Camus accepte le
Nobel précisément parce qu'il s'en moque. On peut se foutre de
l'univers, et
l'accepter tout de même, voire l'aimer. Ou bien il faut se suicider
tout de
suite, puisque tel est le seul « problème philosophique vraiment
sérieux ».
Même la mort
de Camus sera absurd.
Bien que
tuberculeux, ce play-boy, sosie d'Humphrey Bogart, fut assassiné à 47
ans par
un platane en bordure de la Nationale 6 entre Villleblevin et
Villeneuve-la-Guyard, avec la complicité de Michel Gallimard et d'une
Facel
Vega décapotable.
La seule
chose qui n'est pas absurde, c'est le style que Camus a inventé :
des phrases
courtes (« sujet, verbe, commplément,
point », écrivit Malraux dans sa note de lecture à l’éditeur), une
écriture
sèche, neutre, au passé composé, qui a fortement influencé tous les
auteurs de
la seconde moitié du siècle, Nouveau roman inclus. Ce qui n'interdit
pas les
Images fortes - par exemple, pour décrire les larmes et la sueur sur le
visage
de Perez : «Elles s'étalaient, se rejoignaient et formaient un vernis
d'eau sur
ce visage détruit. » Même si on l'a un peu trop étuudié à l'école, il
faut
relire L'Etranger, dont le désespoir ensoleillé, reste, comme dit la
publicité
pour la Suze, «souvent imité, jamais égalé ». L'humanisme gentille
d'Albert
Camus peut parfois lasser, mais pas son écriture tranchante.
Au moment de
conclure ce dernier inventaire avant liquidation, alors que la fin du
monde
approche tranquillement et que l'homme organise sa propre disparition
en
souriant, n'y a-t-il pas une légère ironie à voir Camus s'emparer de la
première place (donc la dernière du compte à rebours), lui qui nous a
expliqué
que le secret du bonheur consistait à s'accommoder de toutes les
catastrophes?
Những cuốn
sách được đưa lên bảng phong thần cuối cùng, trước khi quăng vào lửa.
Dernier
inventaire avant liquidation
Nhà xuất bản
Grasset 2001
Năm muơi cuốn
sách của thế kỷ, do bạn chọn, nhưng Frédéric Beigbeder làm Thánh
Thán.
Đứng đầu bảng
là Kẻ Xa Lạ của Albert Camus.
“‘Ông Hoàng Nhỏ’ của
Saint-Exupéry [1900-1944] là câu chuyện thần
tiên độc nhất của thế kỷ 20. Thế kỷ 17 người ta có chuyện cổ tích của
Perrault;
thế kỷ 19, của Andersen. Tới thế kỷ 20, người ta có ‘Ông Hoàng Nhỏ’,
một cuốn
sách được viết bởi một ông phi công người Pháp lưu vong tại Huê Kỳ từ
năm 1941
tới 1943. Cuốn sách được in ấn tại đó, trước khi được xuất bản tại Pháp
vào năm
1945, một năm sau khi tác giả mất. [Do kỹ thuật in ấn của ông Tây quá
tệ, bản
tiếng Tây do đó đã phải giữ y chang những bản vẽ trong bản in lần đầu
bằng
tiếng Mẽo]. Từ khi xuất hiện cuốn sách có hình này đã trở thành một
hiện tượng
trong ngành in ấn, mỗi năm phát hành chừng vài triệu cuốn trên toàn thế
giới.”
“Tại sao? Bởi vì, không cố tình
[làm ra vẻ ngây thơ] Saint-Exupéry
đã sáng tạo ra những nhân vật ngay lập tức trở thành huyền tượng
[figures
mythiques].” (1)
Cho tớ 1 cái
vé đi tuổi thơ!
Kít!
Một xã hội mà
đàn bà phải tự lột quần áo, phơi cái số ta ra, dể giành giật miếng đất
với Mafia Đỏ, vậy mà có những tên nhà văn viết về tuổi thơ trong sáng,
kể cũng
quái đản thật!
Like living
beings, novels grow, and often age and die. Those that survive change
skin and
being, like snakes, or caterpillars that turn into butterflies. These
novels
say different things to new generations, very often things that the
author had
never thought of expressing.
For readers
today, above all in a Europe that is so much more prosperous, confident
and
hedonistic than the fearful, stunned and cataclysmic Europe in which
The
Outsider was first published, the solitary protagonist of this fiction
can be
appealing as an epicure, as a man at ease with his body and proud of
his
senses, who embraces his desires and elemental appetites without shame
or pathos,
as a natural right. The one seemingly lasting legacy of the revolution
of May
1968 - that movement of idealistic, generous and confused young people
at odds
with their time and their society- is that human desires are now
emerging from
the hiding places where they had been confined by society, and are
beginning to
acquire acceptability.
In this new
society that seems to be dawning, where desires have more freedom,
Meursault
would also have been punished for having killed a man. But no one would
have
condemned him to the guillotine, that obsolete museum piece, and, above
all, no
one would have been shocked by his visceral lack of interest in his
fellow human
beings or his rampant egotism. Should we feel pleased at this? Is it
progress
that the Meursault dreamed up by Camus half a century ago should appear
to
prefigure a contemporary attitude towards life? There is no doubt that
Western civilization
has torn down many barriers and is now much freer and less repressive,
with respect
to sex, to the status of women, and to attitudes in general, than the
society
that (perhaps) cut off Meursault's head. But at the same time we cannot
say
that the freedom that has been won in different spheres has led to a
marked
increase in the quality of life, to an enrichment of culture for all
or, at
least, for the great majority. Quite the reverse, it would seem that in
so many
cases these barely won freedoms have been turned into forms of behavior
that
cheapen and trivialize them, and into new forms of conformity by their
fortunate
beneficiaries.
The Outsider, like other good novels,
was ahead
of its time, anticipating the depressing image of a man who is not
enhanced
morally or culturally by the freedom that he enjoys. Instead this
freedom has stripped
him of spirituality, solidarity, enthusiasm and ambition, making him
passive,
unadventurous and instinctive, to an almost animalistic degree. I don't
believe
in the death penalty and I would not have condemned him to the
scaffold, but if
his head were chopped off by the guillotine, I would not shed a tear
for him.
London, 5
June 1988
|