1




*

Time: The 100 most influential people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất chưa hề sống.

*

*

Cá voi trắng có gì giông giống bộ xương cá trong Ngư Ông và Biển Cả, con K của Buzzati. Chúng là những versions của nhau, theo GCC. 

Cá Voi Trắng là cuốn sách đầu đời đọc của GCC, những ngày mới vô học Đệ Nhất CVA, quen gia đình TTT, qua ông em cùng học. Đọc chung với bà cụ thân sinh của hai anh em nhà thơ, qua ấn bản tiếng Việt của nhà xb Ziên Hồng. Rất khó đọc, theo GCC, có thể vì, ngoài cái chuyện nó là 1 cuốn tiểu thuyết, tác giả còn muốn độc giả rành rẽ về cái nghề săn cá voi nữa, đúng như sau này giới phê bình nhận ra.
 Thoạt đầu, không ai đọc, bị chê là chán ngấy và văn phong, khùng. Chỉ đến khi tác giả chết đi, thì mới được coi là 1 tuyệt tác của văn chương Mẽo.



*

*

Cá Coi Trắng: Sử Thi Mẽo

Cuốn tiểu thuyết của Melville, hơn cả 1 câu chuyện săn cá voi, là viễn ảnh nước Mẽo hiện đại, giữa "volonté de puissance" và "quête du divin"
Chính “cuộc tìm kiếm chất thánh", "quête du divin", làm nó giống “Ngư Ông và Biển Cả”, mà cội nguồn của nó là Thánh Kinh.
Tuyệt tác thế giới

Rushdie viết, Lần đầu tiên tôi coi The Wizard of Oz, và nó biến tôi thành nhà văn.
When I first saw The Wizard of Oz, it made a writer of me.


*

*

 Salman's children

The fatwa, the four marriages, the party image – Salman Rushdie has become known for more than his prizewinning novels. But his sons are what matter most, so he has written a book for teenagers 

He was the superstar of postcolonial literature in the 1980s, the beleaguered poster boy for free speech in the 1990s, as he scuttled from house to house accompanied by special branch officers following the fatwa issued by Ayatollah Khomeini in response to his novel, The Satanic Verses. But in the early years of the 21st century Salman Rushdie underwent a curious metamorphosis to become a figure of fun 

Note: Lệnh Xé Xác, 4 hôn nhân, đại gia - Salman vượt quá hình ảnh nhà văn với những giải thưởng. Nhưng mấy đứa con của ông, mới là mối bận tâm lớn nhất của ông, và thế là vào đầu thiên niên kỷ, ông hoá thân thành một anh hề, viết truyện nhi đồng.
Nhưng Rushdie đã từng viết truyện cho nhi đồng.

*

The Wizard of Oz was my very first literary influence,' writes Salman Rushdie in his account of the great MGM children's classic. At the age of ten he had written a story, 'Over the Rainbow', about a colorful fantasy world. But for Rushdie The Wizard of Oz is more than a children's film, and more than a fantasy. It's a story 'whose driving force is the inadequacy of adults', in which the 'weakness of grown-ups forces children to take control of their own destinies'. And Rushdie rejects the conventional view that its fantasy of escape from reality ends with a comforting return to home, sweet home. On the contrary, it is a film which speaks to the exile. The Wizard of Oz shows that imagination can become reality, that there is no such place as home, or rather that the only home is the one we make for ourselves.
Rushdie's brilliant insights into a film more often seen than written about are rounded off with a typicality scintillating new short story, 'At the Auction of the Ruby Slippers', about the day when Dorothy's red shoes are knocked down for $15,000 at a sale of MGM props ...
Salman Rushdie's books, from Midnights Children to The Satanic Verses, have been read across the world. Two recent books - Haroun and the Sea of Stories and a collection of essays Imaginary Homelands 1981-90 (both published by Granta) - have enhanced his reputation as one of our most important contemporary writers.
*
‘The Wizard of Oz là ảnh hưởng văn học rất ư đầu đời của tôi’, Salman viết về mảng phim trẻ thơ của MGM có phần đóng góp của ông ở trỏng. Khi mới 10 tuổi, ông viết một truyện ngắn “Trên Cầu Vồng”, về thế giới kỳ quái sặc sỡ. Nhưng với ông, The Wizard of Oz  thì hơn cả một phim dành cho trẻ con, hơn cả một câu chuyện kỳ quái. Đó là một câu chuyện mà sức mạnh dẫn dắt là cái sự cà chớn, chẳng ra cái chó gì của đám gọi là người lớn, trong đó sự yếu đuối của người lớn khiến trẻ con bèn làm “cuộc khởi nghĩa của con nít” [cụm từ này Gấu thuổng của nhà phê bình vĩ đại hải ngoại, hay hải ngoại vĩ đại thì cũng được, “cuộc khởi nghĩa của đám đông”, trong một bài blog ông ta xoa đầu độc giả đa số là đệ tử của ông], giành quyền kiểm soát số mệnh của chúng.

Và ông vứt thùng rác quan niệm thông thường, qua đó, sự kỳ quái chạy trốn ra khỏi thực tại của phim chấm dứt bằng ngoan ngoãn trở về quê hương, quê hương chùm khế ngọt.
Ngược hẳn lại, đây là một phim nói về lưu vong. The Wizard of Oz cho thấy tưởng tượng có thể trở thành thực tại, và, đếch chỗ nào như là nhà, hay đúng hơn, nhà là cái nơi mà chúng ta làm ra cho chính chúng ta.

Rushdie viết, Lần đầu tiên tôi coi Oz, và nó biến tôi thành nhà văn. When I first saw The Wizard of Oz, it made a writer of me.

Tuyệt tác thế giới

*

*

Cassandra, nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, được thần Apollo ban cho tài tiên tri, nhưng do từ chối tình yêu của Apollo nên bị thần trù eỏ, mi tiên tri, nhưng đếch ai tin điều mi tiên tri.
Trong bi kịch Agamemnon của Aeschylus, Cassandra cảnh cáo đám Mít Miền Nam, đừng rước Yankee mũi tẹt vô, đừng đuổi Yankee mũi lõ. Đếch ai nghe. Thế là mất mẹ Miền Nam. Đến lúc đó, lời tiên tri mới thành hiện thực!

Hà, hà!

Nhưng ít người biết số phận của Cassandra, sau khi thành Troy bị mất. Em bị Yankee mũi tẹt bắt, hãm hiếp, và trao cho Víp Va Ka, Trùm VC nằm vùng, làm bồ nhí. Nhưng em bị ám sát, và thê thảm là, em nhìn thấy trước tất cả những điều này!

Hà, hà!
Tuyệt tác thế giới

*

Bác đọc quyển này chưa – 832 trang, bây giờ bán ở format de poche rồi. Bác cốp theo kiểu này viết đi, lồng trong chế độ là cảnh đời của người dân. Bác có trí nhớ phi thường, bác không viết thì ai mà viết được.

Tks
NQT

*

"Mort de l'esclave et réssurection de l'homme libre".

Dans ce roman-fresque, composé dans les années 1950, à la façon de Guerre et paix, Vassili Grossman (1905-1964) fait revivre l'URSS en guerre à travers le destin d'une famille, dont les membres nous amènent tour à tour dans Stalingrad assiégée, dans les laboratoires de recherche scientifique, dans la vie ordinaire du peuple russe, et jusqu'à Treblinka sur les pas de l'Armée rouge. Au-delà de ces destins souvent tragiques, il s'interroge sur la terrifiante convergence des systèmes nazi et communiste alors même qu'ils s'affrontent sans merci. Radicalement iconoclaste en son temps - le manuscrit fut confisqué par le KGB, tandis qu'une copie parvenait clandestinement en Occident -, ce livre pose sur l'histoire du XXe siècle une question que philosophes et historiens n'ont cessé d'explorer depuis lors. Il le fait sous la forme d'une grande œuvre littéraire, imprégnée de vie et d'humanité, qui transcende le documentaire et la polémique pour atteindre à une vision puissante, métaphysique, de la lutte éternelle du bien contre le mal.

Destin de Grossman

    Vie et destin est l'un des chefs-d'oeuvre du XXème siècle. On n'en lisait pourtant qu'une version incomplète depuis que les manuscrits avaient été arrachés au KGB et à la censure. Celle que Bouquins propose désormais est la première intégrale. Elle a été révisée à partir de l'édition russe qui fait désormais autorité, celle de 2005, et traduite comme la précédente par Alexis Berelowitch et Anne Coldefy-Faucard. Raison de plus pour se le procurer. Ce volume sobrement intitulé Oeuvres (1152 pages, 30 euros) contient également une dizaine de nouvelles, le roman Tout passe, texte testamentaire qui dresse notamment le portrait d'une série de Judas, et divers documents dont une lettre à Kroutchtchev. Mais Vie et destin, roman dédié à sa mère par un narrateur qui s'adresse constamment à elle, demeurera l'oeuvre qui éclipse toutes les autres. La bataille de Stalingrad est un morceau d'anthologie, et, au-delà de sa signfication idéologique, la manière dont l'auteur passe subrepticement dans la ville de l'évocation du camp nazi au goulag soviétique est un modèle d'écriture. Toute une oeuvre parue à titre posthume.
    Dans son éclairante préface, Tzvetan Todorov résume en quelques lignes "l'énigme" de
Vassili Grossman (1905-1964) :

" Comment se fait-il qu'il soit le seul écrivain soviétique connu à avoir subi une conversion radicale, passant de la soumission à la révolte, de l'aveuglement à la lucidité ? Le seul à avoir été, d'abord, un serviteur orthodoxe et apeuré du régime, et à avoir osé, dans un deuxième temps, affronter le problème de l'Etat totalitaire dans toutes son ampleur ?"
On songe bien sûr à Pasternak et Soljenitsyne. Mais le préfacier, anticipant la réaction du lecteur, récuse aussitôt les comparaisons au motif que le premier était alors un écrivain de premier plan et que la mise à nu du phénomène totalitaire n'était pas au coeur de son Docteur Jivago ; ce qui n'est évidemment pas le cas du second avec Une Journée d'Ivan Denissovitch, à ceci près rappelle Todorov, qu'étant un inconnu dans le milieu littéraire, il n'avait rien à perdre. La métamorphose de Grossman est donc un cas d'école unique en son genre :"mort de l'esclave et réssurection de l'homme libre".

Bảnh hơn Pasternak, bảnh hơn cả Solzhenitsyn, Tzvetan Todorov, trong lời tựa, thổi Đời & Số Mệnh của Grossman: Cái chết của tên nô lệ và sự tái sinh của con người tự do.
Tờ Obs, số đặc biệt về những tuyệt tác của văn học, kể ra hai cuốn cùng dòng, là Gulag của Solz, 1 cuốn sách lật đổ 1 đế quốc, và Vie & Destin của Grossman: Trái bom chống toàn trị.
TV sẽ giới thiệu bài phỏng vấn Ovivier Rolin, trên tờ Obs.
Tuyệt tác thế giới

St-Petersburg

*

Rodion R. Raskolnikov

Origin: Fyodor Dostoyevsky's 1866 novel, Crime and Punishment

From Dante's Inferno, where hell seems a good deal more interesting than heaven, to Milton's Paradise Lost, where Satan gets all the best lines, to Shakespeare's Othello, where Iago's intrigues are more compelling than Othello's virtues, writers have learned fiction's dark secret: the allure of evil trumps the banality of good. Yet in Fyodor Dostoyevsky's Crime and Punishment, the author passes rapidly over his main character's evil deeds-the pointless murders of an innocent old woman and her half-sister-to explore their psychological consequences.
    Dostoyevsky understood punishment not as a concept but as bitterly lived experience. A parlor radical in his youth, he was arrested, along with dozens of utopian associates who questioned the regime of Czar Nicholas I, and put through a mind-bending form of psychological torture: he was convicted of treason, sentenced to death, blindfolded and put in front of a firing squad-only to be given a reprieve at the last moment and sentenced to four years of exile in a Siberian prison camp.
    The author's years in chains deepened and darkened his view of the human condition and inspired his creation of Raskolnikov, the impoverished former student whose love of idealistic concepts outpaces his love for the messy realities of human life and leads him to justify his murders as an expression of his self-declared superiority over the common man. In Raskolnikov, Dostoyevsky traced the chilling trajectory of the sort of evil that begins with grandiose visions of the superhuman, only to end in the death camps of Hitler's Germany, the gulag of Stalin's Russia and the horrors of the Great Cultural Revolution of Mao's China. The guilty young man is the dark prophet of the 20th century's false gods.

Time: The 100 most influential people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất chưa hề sống.

GCC đọc Tội Ác đúng thời mới lớn, quen BHD, khi chờ Em, trong 1 quán cà phê túi của Sài Gòn, cùng những tác giả của thời mới lớn như Sartre, với Buồn Nôn, Camus với Kẻ Xa Lạ, Faulkner, và những tác giả Mác xít như Henri Lefebvre, Lukacs..

Cùng với những cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài người.



*

*


*

Josef K.

Origin: Franz Kafka's unfinished novel The Trial, published posthumously in 1925

Someone must have been telling lies about Josef K., for one morning, without having done anything wrong, he was arrested." It's one of the most iconic opening sentences in all of fiction, and even though Franz Kafka began writing it in 1914, it seems to carry with it, by implication, the chilling force of all the political oppression, terror and surveillance that would follow it in the century to come.
    The novel, of course, is The Trial (Der Prozess, in the original German), and it's the story of a man living in a drab, gray, unnamed European city who on his 30th birthday wakes up to find himself unexpectedly charged with a crime by two agents of the court. The actual charge is never specified. His accuser is never named. Josef K. attempts to deny the charges, but the legal bureaucracy by which he stands accused is so nebulous that he can't figure out how to clear his name, or defend himself, or even secure a formal trial. The charges start affecting his career as a banker. They lead him into strange, compromising sexual situations. Gradually the legal apparatus of the court begins to invade his life, turning up in odd places-tenements, attics, his own office-becoming both inescapable yet still impossible to pin down.
    As a lawyer for an insurance company, Kafka knew from bureaucracy, and Josef K.'s predicament will be powerfully familiar to anyone who has ever followed a paper trail that leads in endless, despairing circles. But Josef K. looms much larger than that: in struggling with a shadowy court system that insists on his guilt and won't even show itself to be defied, he is the avatar of millions who have lived under repressive regimes. As time goes on, his struggle seems to take on more meaning rather than less, reflecting new horrors like constant surveillance, identity theft, even drone warfare. It seems fitting somehow that Kafka never managed to finish The Trial, and it was only published, in fragments, after his death. Josef K.'s nightmare never truly ends either, and in the real world untold millions are still living it with him.

-By Lev Grossman

Time: The 100 most influential people who never lived

Note: Carlos Fuentes, trong This I Believe. An A to Z of a Life; vần K, ông dành cho Kafka. Bài viết này cũng thú.

Tuyệt tác thế giới

*

Bắt Trẻ Đồng Xanh

Note: Theo nhà kinh tế THD, chủ nhân trang “Vịt Thúi Đi”, thì xứ Mít cũng đã có 1 Salinger rùi.
GCC nhất trí với sự bình chọn của ông trí thức Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC, vì cái ông Salinger mũi tẹt này, quả đúng là đại diện cho Mít, theo cái cách mà 1 nhà ngoại giao Nhựt nhận xét: hay ăn cắp vặt!
Ông Salinger Mít đã từng chôm "hơn một bài" của GCC!
Lần đầu, Gấu lên tiếng, ông xin lỗi, rồi lại chôm tiếp!
Cũng không thể trách ông được.
Tu luyện đến thành Á Thánh, "Năm Bờ Two", mà cũng không bỏ được cái tật này, nữa là!

*

Cơn mộng đời dẫn tôi tìm lại Koestler, qua bản dịch tiếng Pháp, những ngày học Chu Văn An, khi nhà trường còn nằm phía sau trường Pétrus Ký, miếng đất sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Đọc và gần như thuộc lòng một số câu văn, để trau giồi ngoại ngữ, thâu thập tri thức, tập tành suy tưởng. Rồi dần dà theo tuổi học, tuổi đời, tôi lần tới những câu của Camus, con người nổi loạn, những khẩu hiệu làm rung động loài người (Bí mật của Vô sản là cái chết của Tư bản, thí dụ vậy), những trang nhật ký của Roquentin... 

Cùng với những cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài người.

Hay một London của Dickens, một buổi chiều đầy sương mù, chú bé Oliver Twist đói lả người, như tôi, một ngày trong chuỗi ngày cắp sách đến trường, đêm đêm làm bồi bàn, thời người Mỹ chưa đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Thành phố chưa có xa lộ, chưa có cầu Sài-gòn. Và tiệm chả cá Thăng-Long nơi tôi tối tối bưng xoong mỡ sôi đổ lên dĩa chả cá, nghe tiếng mỡ kêu xèo xèo, chưa biến thành nhà hàng Kontiki ở ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng, nơi dành riêng cho đám quân nhân Hoa Kỳ. 

Ngày mai trời sẽ mưa trên thành phố Bouville
Demain il pleuvra sur Bouville
(Sartre, La Nausée

Ôi Sài-gòn, một Sài-gòn hư tưởng, một Bouville, một London, của riêng tôi đó!

*

*


*

James Mason trong vai Oedipus, và Eleanor Stuart/Jocasta, trong bi kịch Oedipus, được dàn dựng năm 1954

Oedipus

Origin: Greek myths and the 429 B.C.

play Oedipus the King, by Sophocles

The story of Oedipus is one of the most memorable of Greek myths, and it was a frequent subject for playwrights. Aeschylus' trilogy on the subject has been lost, but Sophocles' play is one of the great works of Western literature, a lofty meditation on human nature and the inflexible laws of destiny- as well as a rousing detective story that leads audiences to a thrilling catharsis, the outpouring of pity and terror that tragedy is designed to inspire.
    The tale is riveting: at his birth, it is prophesied that Oedipus will kill his father and marry his mother. To avoid this destiny, his father, King Laius, abandons him on a mountainside, but Oedipus is found by a shepherd and is raised by King Polybus and Queen Merope of Corinth. Learning from the oracle at Delphi of his prophesied fate, the young Oedipus heads to Thebes, so he will not kill Polybus. On the way, he meets Laius at a crossroads; they argue, and Oedipus kills him, fulfilling the first part of his destiny. Reaching Thebes, he marries his birth mother, Queen Jocasta, fulfilling the prediction.
    When a plague strikes the land, due to the incest of its rulers, Oedipus vows to find the cause of the gods' wrath. Theater holds few more thrilling moments than the scenes in which a series of messengers reveal the truth to Oedipus: in seeking to escape his destiny, he has only fulfilled it. As Sophocles has him say, "Was I not born evil? / Am I not utterly unclean?"
    He is unclean, for all of us are unclean, deeply flawed creatures, powerless to reverse the stem fates that shape our lives-or so the Greeks believed. And so did Sigmund Freud, who claimed that, like Oedipus, each of us is fated to want to murder one parent and marry the other.

And so did Sigmund Freud, who claimed that, like Oedipus, each of us is fated to want to murder one parent and marry the other.

Như Freud phán, mỗi chúng ta đều bị số phận nguyền rủa, mi phải làm thịt ông bố/hay bà mẹ, và lấy người kia, làm chồng/hay vợ!

Bài viết trên Time, về Oedipus, ngắn, gọn, nên vờ đi giai thoại thực là thú vị, về nhân vật huyền hoặc này.
Do trả lời được câu đố của con nhân sư mà ông bị lời nguyền của con vật này: Con vật nào buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa hai, và buổi chiều, ba.
Con người!

Chính là vì quá thông minh, mà Oedipus vướng lời nguyền. Thành ra Sophocles mới đặt vào miệng của nhân vật của mình, "liệu ta sinh ra quỉ ma như thế ư? “Bửn”, unclean, đến như thế ư?"




*

Xứ Tuyết

Đề tài (Le thème]: Xứ Tuyết kể, qua nhiều giai đoạn rời, épisodes discontinues, một câu chuyện tình bất khả, impossible, giữa 1 tay trí thức Tokyo và 1 nàng geisha tỉnh lẻ, provinciale
Cấu trúc khởi nguyên [từ này chôm trong nước, La structure originale] của cuốn tiểu thuyết, là từ một truyện ngắn mà tác giả đặc biệt quá mê, được viết năm 1935, Kawabata bèn đi 1 chuỗi truyện ngắn, độc lập, riêng biệt, 12 năm sau, gom lại, biến thành cuốn tiểu thuyết đầu tay.
“Trên núi đã trở nên âm u vào lúc hoàng hôn, bên trên cây cầu, tuyết đầu tiên đã đặt để cái trắng toát của nó: Sur la montagne déjà sombre dans le crépuscule, au-dessus du pont, la première neige posait sa blacheur"
Rằng, cái chuyện, Kawabata, sinh cùng năm với Borges, Nabokov, hay Hemingway, không làm chúng ta ngạc nhiên.
Cécile Sakai

Hello, Sweet Prince

Hamlet is reborn as a Choose Your Own Adventure

Much scholarly commentary has been expended on Shakespeare's Hamlet, maybe more than on any other play in the English language, but I don't think it's ever been said of Hamlet that it would make a good Choose Your Own Adventure novel. Nevertheless: that was the pitch that a 32-year-old Canadian writer named Ryan North made last November on Kickstarter. North figured it would take about $20,000 to produce To Be or Not to Be: That Is the Adventure. The Internet disagreed. It gave him $580,905.

Hamlet cũng là 1 trong 100 nhân vật ảnh hưởng nhất chưa từng hiện hữu, qua bình chọn của Time.

 *

Hâm Liệt

Des mots, des mots, des mots. Shakespeare

“Polonius : - Que lisez-vous, Monseigneur? - Hamlet : - Des mots, des mots, des mots."
Polonius: Thưa Hoàng Tử, Ngài đọc gì đó?
Hamlet: Chữ, chữ, chữ.

D.M.Thomas cho biết, Hamlet, ngay từ thoạt kỳ thuỷ của thời đại Stalin, đã bị cấm. Tuy không chính thức, nhưng đám cận thần đều biết, Stalin không muốn Hamlet được trình diễn. Trong một lần tập dượt tại Moscow Art, Stalin hỏi, có cần thiết không, thế là dẹp. Vsevolod Meyerhold, đạo diễn, người ra lệnh Pasternak dịch Hamlet, đành quăng bản dịch vô thùng rác, nhưng ông tin rằng, nếu bất thình lình, tất cả những kịch cọt đã từng được viết ra, biến mất, và may mắn sao, Hamlet còn, thì tất cả những nhà hát trên thế gian này đều được cứu thoát. Chỉ cần diễn hoài hoài kịch đó, là thiên hạ ùn ùn kép tới đầy rạp. Tuy nhiên, cả đời ông, chẳng có được cơ may dựng Hamlet.

Nguyễn Huy Thiệp phải đợi 30 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, phải đợi chính đứa thân yêu của ông ngập vào ma tuý, mới nhìn ra vóc dáng ông hoàng Đan Mạch, và sứ mệnh bi thảm của hắn: Giết bố!
Ui choa, chẳng lẽ cái cảnh biểu tình, là để… giết ông bố Bắc Kít?
Amen!

*

Một mình ta gọi ông ta là Bố, là đủ rồi. Ta không muốn mi lấy ta và phải gọi ông ta là Bố!

ZHIVAGO'S POEMS

HAMLET

Bản tiếng Anh

The noise is stilled. I come out on the stage.
Leaning against the door-post
I try to guess from the distant echo
What is to happen in my lifetime.

The darkness of night is aimed at me
Along the sights of a thousand opera-glasses.
Abba. Father, if it be possible,
Let this cup pass from me. 

I love your stubborn purpose,
I consent to play my part.
But now a different drama is being acted
For this once let me be.

Yet the order of the acts is planned
And the end of the way inescapable.
I am alone: all drowns in the Pharisee’s hypocrisy.
To live your life is not as simple as to cross a field (1).

(1) The last line is a Russian proverb

Bản tiếng Tây

Tout se tait. Je suis monté sur scène,
Et j'écoute, adossé au montant
De la porte, la rumeur lointaine
Qui m'annonce tout ce qui m'attend. 

Et je suis la cible des ténèbres
Cent jumelles sont braquées sur moi.
S'il se peut encore, Abba mon père,
Cette coupe, écarte-la de moi!

Ton dessein têtu, pourtant je l'aime,
Et ce rôle, je le prends en gré.
Mais un autre drame est sur la scène:
Donne-moi pour cette fois congé.

Mais on a pesé l'ordre des actes,
Rien ne peut changer le dénouement.
Je suis seul. Les pharisiens sont maîtres.
Vivre, ce n'est pas franchir un champ. 

Bản tiếng Mít

Tiếng ồn tắt ngấm. Tôi bước lên sàn diễn
Dựa vào cột cửa,
Tôi cố phân biệt tiếng dội từ xa,
Nó sẽ quyết định phần số của tôi.

Tôi trở thành cái đích của đêm đen
Nó chiếu vào tôi hàng trăm ống nhắm
Abba. Cha ơi. Nếu có thể,
Hãy bỏ qua cho con, cái cúp này.

Con yêu cái ý định bướng bỉnh của cha.
Con b
ằng lòng chơi phần của con.
Nhưng lúc này một vở khác đã được trình diễn:
Vở này, cho phép con được nghỉ chơi.

Nhưng, lệnh lạc đã được phát ra,
Thế là sau cùng đành chịu trận.
Tôi thì chỉ có một mình:
Tất cả là do thói đạo đức giả của đám người Pharisee
.
Sống, không có đơn giản như là vượt qua 1 cánh đồng. (1)

(1)
Tục ngữ Nga

*

Trên tờ Esquire, June, 2013 có bài “Gatsby Thần Kỳ” thật tuyệt. Thuổng Dos, tác giả bài báo, sau khi tự hỏi, Tại làm sao Gatsby vẫn làm phiền chúng ta, Why Gatsby Still Matters, bèn trả lời: Chúng ta đều là những hậu duệ của Scott Fitz, We are all Scott Fitzgerald’s children now.