|
Time: The
100 most influential people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất
chưa hề sống.
Cá voi trắng
có gì giông giống bộ xương cá trong Ngư Ông và Biển Cả, con K của
Buzzati.
Chúng là những versions của nhau, theo GCC.
Cá
Voi Trắng là cuốn sách đầu đời đọc của GCC,
những ngày mới vô học Đệ Nhất CVA, quen gia đình TTT, qua ông em cùng
học. Đọc
chung với bà cụ thân sinh của hai anh em nhà thơ, qua ấn bản tiếng Việt
của nhà
xb Ziên Hồng. Rất khó đọc, theo GCC, có thể vì, ngoài cái chuyện nó là
1 cuốn
tiểu thuyết, tác giả còn muốn độc giả rành rẽ về cái nghề săn cá voi
nữa, đúng
như sau này giới phê bình nhận ra.
Thoạt đầu, không ai đọc, bị chê là
chán ngấy
và văn phong, khùng. Chỉ đến khi tác giả chết đi, thì mới được coi là
1 tuyệt
tác của văn chương Mẽo.
Cá Coi Trắng: Sử Thi Mẽo
Cuốn tiểu
thuyết của
Melville, hơn cả 1 câu chuyện săn cá voi, là viễn ảnh nước
Mẽo hiện đại, giữa "volonté de puissance" và "quête du
divin"
Chính
“cuộc
tìm kiếm chất thánh", "quête du divin", làm nó giống “Ngư Ông và Biển
Cả”, mà cội nguồn của nó là Thánh Kinh.
Tuyệt tác thế giới
Rushdie viết, Lần đầu tiên
tôi coi The Wizard of Oz, và
nó biến tôi thành nhà văn.
When I first saw The Wizard of Oz,
it made a writer of me.
Salman's
children
The fatwa, the four marriages, the party
image – Salman Rushdie has become known for more than his prizewinning
novels. But his sons are what matter most, so he has written a book for
teenagers
He was the superstar of postcolonial
literature in the 1980s, the beleaguered poster boy for free speech in
the 1990s, as he scuttled from house to house accompanied by special
branch officers following the fatwa issued by Ayatollah Khomeini in
response to his novel, The Satanic Verses. But in the early years of
the 21st century Salman Rushdie underwent a curious metamorphosis to
become a figure of fun
Note: Lệnh Xé Xác, 4 hôn nhân, đại gia -
Salman vượt quá hình ảnh nhà văn với những giải thưởng. Nhưng mấy đứa
con của ông, mới là mối bận tâm lớn nhất của ông, và thế là vào đầu
thiên niên kỷ, ông hoá thân thành một anh hề, viết truyện nhi đồng.
Nhưng Rushdie đã từng viết truyện cho nhi đồng.
‘The Wizard of Oz was my very first
literary influence,' writes Salman Rushdie in his account of the great
MGM children's classic. At the age of ten he had written a story, 'Over
the Rainbow', about a colorful fantasy world. But for Rushdie The Wizard of Oz is more than a
children's film, and more than a fantasy. It's a story 'whose driving
force is the inadequacy of adults', in which the 'weakness of grown-ups
forces children to take control of their own destinies'. And Rushdie
rejects the conventional view that its fantasy of escape from reality
ends with a comforting return to home, sweet home. On the contrary, it
is a film which speaks to the exile. The
Wizard of Oz shows that imagination can become reality, that
there is no such place as home, or rather that the only home is the one
we make for ourselves.
Rushdie's brilliant insights into a film more often seen than written
about are rounded off with a typicality scintillating new short story,
'At the Auction of the Ruby Slippers', about the day when Dorothy's red
shoes are knocked down for $15,000 at a sale of MGM props ...
Salman Rushdie's books, from
Midnights Children to The
Satanic Verses, have been read across the world. Two recent
books - Haroun and the Sea
of Stories and a
collection of essays Imaginary
Homelands 1981-90 (both published by Granta) - have enhanced his
reputation as one of our most important contemporary writers.
*
‘The Wizard of Oz là ảnh hưởng văn học rất ư đầu đời của tôi’, Salman
viết về mảng phim trẻ thơ của MGM có phần đóng góp của ông ở trỏng. Khi
mới 10 tuổi, ông viết một truyện ngắn “Trên Cầu Vồng”, về thế giới kỳ
quái sặc sỡ. Nhưng với ông, The
Wizard of Oz thì hơn cả một phim dành cho trẻ con, hơn cả
một câu chuyện kỳ quái. Đó là một câu chuyện mà sức mạnh dẫn dắt là cái
sự cà chớn, chẳng ra cái chó gì của đám gọi là người lớn, trong đó sự
yếu đuối của người lớn khiến trẻ con bèn làm “cuộc khởi nghĩa của con
nít” [cụm từ này Gấu thuổng của nhà phê bình vĩ đại hải ngoại, hay hải
ngoại vĩ đại thì cũng được, “cuộc khởi nghĩa của đám đông”, trong một
bài blog ông ta xoa đầu độc giả đa số là đệ tử của ông], giành quyền
kiểm soát số mệnh của chúng.
Và ông
vứt thùng rác quan niệm thông thường, qua đó, sự kỳ quái chạy trốn ra
khỏi thực tại của phim chấm dứt bằng ngoan ngoãn trở về quê hương, quê
hương chùm khế ngọt.
Ngược hẳn lại, đây là một phim nói về lưu vong. The Wizard of Oz cho
thấy tưởng tượng có thể trở thành thực tại, và, đếch chỗ nào như là
nhà, hay đúng hơn, nhà là cái nơi mà chúng ta làm ra cho chính chúng ta.
Rushdie
viết,
Lần đầu tiên tôi coi Oz, và
nó biến tôi thành nhà văn. When I first saw The Wizard
of Oz, it made a writer of me.
Tuyệt tác thế giới
Cassandra,
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, được thần Apollo ban cho tài tiên
tri, nhưng
do từ chối tình yêu của Apollo nên bị thần trù eỏ, mi tiên tri, nhưng
đếch ai
tin điều mi tiên tri.
Trong bi kịch Agamemnon
của Aeschylus, Cassandra cảnh cáo đám Mít Miền Nam, đừng rước Yankee
mũi tẹt vô,
đừng đuổi Yankee mũi lõ. Đếch ai nghe. Thế là mất mẹ Miền Nam. Đến lúc
đó, lời
tiên tri mới thành hiện thực!
Hà, hà!
Nhưng ít người
biết số phận của Cassandra, sau khi thành Troy bị mất. Em bị Yankee mũi
tẹt bắt,
hãm hiếp, và trao cho Víp Va Ka, Trùm VC nằm vùng, làm bồ nhí. Nhưng em
bị ám
sát, và thê thảm là, em nhìn thấy trước tất cả những điều này!
Hà, hà!
Tuyệt tác thế giới
Bác đọc quyển này chưa – 832 trang, bây giờ
bán ở format de
poche rồi. Bác cốp theo kiểu này viết đi, lồng trong chế độ là cảnh đời
của
người dân. Bác có trí nhớ phi thường, bác không viết thì ai mà viết
được.
Tks
NQT
"Mort
de l'esclave
et réssurection de l'homme libre".
Dans ce roman-fresque,
composé dans les années 1950, à
la façon de Guerre et paix,
Vassili Grossman (1905-1964) fait revivre l'URSS en
guerre à travers le destin d'une famille, dont les membres nous amènent
tour à
tour dans Stalingrad assiégée, dans les laboratoires de recherche
scientifique,
dans la vie ordinaire du peuple russe, et jusqu'à Treblinka sur les pas
de
l'Armée rouge. Au-delà de ces destins souvent tragiques, il s'interroge
sur la
terrifiante convergence des systèmes nazi et communiste alors même
qu'ils
s'affrontent sans merci. Radicalement iconoclaste en son temps - le
manuscrit
fut confisqué par le KGB, tandis qu'une copie parvenait clandestinement
en
Occident -, ce livre pose sur l'histoire du XXe siècle une question que
philosophes et historiens n'ont cessé d'explorer depuis lors. Il le
fait sous
la forme d'une grande œuvre littéraire, imprégnée de vie et d'humanité,
qui
transcende le documentaire et la polémique pour atteindre à une vision
puissante, métaphysique, de la lutte éternelle du bien contre le mal.
Destin de Grossman
Vie et
destin est l'un des chefs-d'oeuvre du XXème
siècle. On n'en lisait pourtant qu'une version incomplète depuis que
les
manuscrits avaient été arrachés au KGB et à la censure. Celle que Bouquins
propose désormais est la première intégrale. Elle a été révisée à
partir de
l'édition russe qui fait désormais autorité, celle de 2005, et traduite
comme
la précédente par Alexis Berelowitch et Anne Coldefy-Faucard.
Raison de plus pour se le procurer. Ce volume sobrement intitulé Oeuvres
(1152
pages, 30 euros) contient également une dizaine de nouvelles, le roman Tout
passe, texte testamentaire qui dresse notamment le portrait d'une
série de
Judas, et divers documents dont une lettre à Kroutchtchev. Mais Vie
et
destin, roman dédié à sa mère par un narrateur qui s'adresse
constamment à
elle, demeurera l'oeuvre qui éclipse toutes les autres. La bataille de
Stalingrad est un morceau d'anthologie, et, au-delà de sa signfication
idéologique, la manière dont l'auteur passe subrepticement dans la
ville de
l'évocation du camp nazi au goulag soviétique est un modèle d'écriture.
Toute
une oeuvre parue à titre posthume.
Dans son éclairante préface, Tzvetan Todorov
résume
en quelques lignes "l'énigme" de Vassili Grossman (1905-1964)
:
" Comment se fait-il qu'il
soit le seul écrivain soviétique connu à
avoir subi une conversion radicale, passant de la soumission à la
révolte, de
l'aveuglement à la lucidité ? Le seul à avoir été, d'abord, un
serviteur
orthodoxe et apeuré du régime, et à avoir osé, dans un deuxième temps,
affronter le problème de l'Etat totalitaire dans toutes son ampleur ?"
On songe bien sûr à Pasternak
et Soljenitsyne. Mais le
préfacier, anticipant la réaction du lecteur, récuse aussitôt les
comparaisons
au motif que le premier était alors un écrivain de premier plan et que
la mise
à nu du phénomène totalitaire n'était pas au coeur de son Docteur
Jivago
; ce qui n'est évidemment pas le cas du second avec Une Journée
d'Ivan
Denissovitch, à ceci près rappelle Todorov, qu'étant un
inconnu dans
le milieu littéraire, il n'avait rien à perdre. La métamorphose de Grossman
est
donc un cas d'école unique en son genre :"mort de l'esclave et
réssurection de l'homme
libre".
Bảnh hơn
Pasternak, bảnh hơn cả Solzhenitsyn, Tzvetan Todorov, trong lời tựa,
thổi Đời
& Số Mệnh của Grossman: Cái chết của tên nô lệ và sự tái
sinh của con người
tự do.
Tờ Obs, số đặc
biệt về những tuyệt tác của văn học, kể ra hai cuốn cùng dòng, là Gulag của
Solz, 1 cuốn sách lật đổ 1 đế quốc, và Vie & Destin của
Grossman: Trái bom chống toàn trị.
TV sẽ giới thiệu bài phỏng
vấn Ovivier Rolin, trên tờ Obs.
Tuyệt tác thế giới
St-Petersburg
Rodion R. Raskolnikov
Origin:
Fyodor Dostoyevsky's 1866 novel, Crime
and Punishment
From Dante's
Inferno, where hell seems a good deal
more interesting than heaven, to Milton's Paradise
Lost, where Satan gets all the best lines, to Shakespeare's Othello, where
Iago's intrigues are more compelling than Othello's virtues, writers
have
learned fiction's dark secret: the allure of evil trumps the banality
of good.
Yet in Fyodor Dostoyevsky's Crime and
Punishment, the author passes rapidly over his main character's
evil deeds-the
pointless murders of an innocent old woman and her half-sister-to
explore their
psychological consequences.
Dostoyevsky understood punishment not as a
concept
but as bitterly lived experience. A parlor radical in his youth, he was
arrested, along with dozens of utopian associates who questioned the
regime of Czar
Nicholas I, and put through a mind-bending form of psychological
torture: he
was convicted of treason, sentenced to death, blindfolded and put in
front of a
firing squad-only to be given a reprieve at the last moment and
sentenced to
four years of exile in a Siberian prison camp.
The author's years in
chains
deepened and darkened his view of the human condition and inspired his
creation
of Raskolnikov, the impoverished former student whose love of
idealistic
concepts outpaces his love for the messy realities of human life and
leads him
to justify his murders as an expression of his self-declared
superiority over
the common man. In Raskolnikov, Dostoyevsky traced the chilling
trajectory of
the sort of evil that begins with grandiose visions of the superhuman,
only to
end in the death camps of Hitler's Germany, the gulag of Stalin's
Russia and
the horrors of the Great Cultural Revolution of Mao's China. The guilty
young
man is the dark prophet of the 20th century's false gods.
Time: The
100 most influential people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất
chưa hề sống.
GCC đọc Tội
Ác đúng thời mới lớn, quen BHD, khi chờ Em,
trong 1 quán cà
phê túi của Sài Gòn, cùng những tác giả của thời mới lớn như
Sartre, với Buồn Nôn, Camus
với Kẻ Xa Lạ, Faulkner, và
những tác giả Mác xít như Henri
Lefebvre, Lukacs..
Cùng với những
cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn trở thành
một sân khấu
cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân yêu, một buổi
sáng đẹp
trời bỗng nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu
thang
âm u, và cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi
Ngã Sáu,
một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài
người.
Josef
K.
Origin:
Franz
Kafka's unfinished novel The Trial,
published posthumously in 1925
Someone must
have been telling lies about Josef K., for one morning, without having
done anything
wrong, he was arrested." It's one of the most iconic opening sentences
in
all of fiction, and even though Franz Kafka began writing it in 1914,
it seems to
carry with it, by implication, the chilling force of all the political
oppression, terror and surveillance that would follow it in the century
to
come.
The novel,
of course, is The Trial (Der Prozess,
in the original German), and it's the story of a man living in a drab,
gray,
unnamed European city who on his 30th birthday wakes up to find himself
unexpectedly charged with a crime by two agents of the court. The
actual charge
is never specified. His accuser is never named. Josef K. attempts to
deny the
charges, but the legal bureaucracy by which he stands accused is so
nebulous
that he can't figure out how to clear his name, or defend himself, or
even
secure a formal trial. The charges start affecting his career as a
banker. They
lead him into strange, compromising sexual situations. Gradually
the legal apparatus of the court begins to invade his life, turning up
in odd
places-tenements, attics, his own office-becoming both inescapable yet
still
impossible to pin down.
As a lawyer for an insurance company, Kafka knew
from
bureaucracy, and Josef K.'s predicament will be powerfully familiar to
anyone
who has ever followed a paper trail that leads in endless, despairing
circles. But Josef K.
looms much larger than that: in struggling with a shadowy court system
that
insists on his guilt and won't even show itself to be defied, he is the
avatar
of millions who have lived under repressive regimes. As time goes on,
his
struggle seems to take on more meaning rather than less, reflecting new
horrors
like constant surveillance, identity theft, even drone warfare. It
seems
fitting somehow that Kafka never managed to finish The Trial, and it was only
published, in fragments, after his death. Josef K.'s nightmare never
truly ends
either, and in the real world untold millions are still living it with
him.
-By
Lev Grossman
Time: The 100 most influential people who
never lived
Note: Carlos
Fuentes, trong This I Believe. An A
to Z of a Life; vần K, ông dành cho
Kafka.
Bài viết này cũng thú.
Tuyệt tác thế giới
Bắt Trẻ Đồng
Xanh
Note: Theo
nhà kinh tế THD, chủ nhân trang “Vịt Thúi Đi”, thì xứ Mít cũng đã có 1
Salinger
rùi.
GCC nhất trí với sự bình chọn của ông trí thức Miền Nam bỏ chạy bợ
đít VC,
vì cái ông Salinger mũi tẹt này, quả đúng là đại diện cho Mít, theo cái
cách mà
1 nhà ngoại giao Nhựt nhận xét: hay ăn cắp vặt!
Ông Salinger Mít đã từng chôm "hơn một bài" của GCC!
Lần đầu, Gấu lên tiếng, ông xin lỗi, rồi lại chôm tiếp!
Cũng không thể trách ông được.
Tu luyện đến thành Á Thánh, "Năm Bờ Two", mà cũng không bỏ được cái tật
này, nữa là!
Cơn mộng đời dẫn tôi tìm lại
Koestler, qua bản dịch tiếng Pháp,
những ngày học Chu Văn An, khi nhà trường còn nằm phía sau trường
Pétrus Ký,
miếng đất sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Đọc và gần như thuộc lòng
một số
câu văn, để trau giồi ngoại ngữ, thâu thập tri thức, tập tành suy
tưởng. Rồi
dần dà theo tuổi học, tuổi đời, tôi lần tới những câu của Camus, con
người nổi
loạn, những khẩu hiệu làm rung động loài người (Bí mật của Vô sản là
cái chết
của Tư bản, thí dụ vậy), những trang nhật ký của Roquentin...
Cùng với những cuộc phiêu lưu
của những tác phẩm lớn ở trong tôi,
Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn.
Thành
phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St.
Petersbourg thời
Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc
bàn tại
một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại,
biến đổi
thế giới, làm lại loài người.
Hay một London của Dickens, một
buổi chiều đầy sương mù, chú bé
Oliver Twist đói lả người, như tôi, một ngày trong chuỗi ngày cắp sách
đến
trường, đêm đêm làm bồi bàn, thời người Mỹ chưa đổ quân ào ạt vào Việt
Nam.
Thành phố chưa có xa lộ, chưa có cầu Sài-gòn. Và tiệm chả cá Thăng-Long
nơi tôi
tối tối bưng xoong mỡ sôi đổ lên dĩa chả cá, nghe tiếng mỡ kêu xèo xèo,
chưa
biến thành nhà hàng Kontiki ở ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng, nơi dành
riêng cho
đám quân nhân Hoa Kỳ.
Ngày mai trời sẽ mưa trên thành
phố Bouville
Demain il pleuvra sur Bouville
(Sartre, La Nausée)
Ôi Sài-gòn,
một Sài-gòn hư
tưởng, một Bouville, một London, của
riêng tôi đó!
James Mason trong vai
Oedipus, và Eleanor Stuart/Jocasta, trong bi kịch Oedipus,
được dàn dựng năm 1954
Oedipus
Origin:
Greek myths and the 429 B.C.
play Oedipus
the King, by Sophocles
The story of
Oedipus is one of the most memorable of Greek myths, and it was a
frequent
subject for playwrights. Aeschylus' trilogy on the subject has been
lost, but
Sophocles' play is one of the great works of Western literature, a
lofty
meditation on human nature and the inflexible laws of destiny- as well
as a
rousing detective story that leads audiences to a thrilling catharsis,
the outpouring
of pity and terror that tragedy is designed to inspire.
The tale is riveting:
at his birth, it is prophesied that Oedipus will kill his father and
marry his
mother. To avoid this destiny, his father, King Laius, abandons him on
a
mountainside, but Oedipus is found by a shepherd and is raised by King
Polybus
and Queen Merope of Corinth. Learning from the oracle at Delphi of his
prophesied
fate, the young Oedipus heads to Thebes, so he will not kill Polybus.
On the
way, he meets Laius at a crossroads; they argue, and Oedipus kills him,
fulfilling
the first part of his destiny. Reaching Thebes, he
marries his birth mother, Queen Jocasta, fulfilling the prediction.
When a
plague strikes the land, due to the incest of its rulers, Oedipus vows
to find
the cause of the gods' wrath. Theater holds few more thrilling moments
than the
scenes in which a series of messengers reveal the truth to Oedipus: in
seeking
to escape his destiny, he has only fulfilled it. As Sophocles
has him say, "Was I not born evil? / Am I not utterly unclean?"
He is unclean,
for all of us are unclean, deeply flawed
creatures, powerless to reverse
the stem fates that shape our lives-or so the Greeks believed. And so
did
Sigmund Freud, who claimed that, like Oedipus, each of us is fated to
want to murder
one parent and marry the other.
And
so did Sigmund Freud, who claimed that, like Oedipus, each of us is
fated to
want to murder one parent and marry the other.
Như Freud phán, mỗi chúng
ta đều bị số phận nguyền rủa, mi phải làm thịt ông bố/hay bà mẹ, và lấy
người kia, làm chồng/hay vợ!
Bài viết trên Time,
về Oedipus, ngắn, gọn, nên vờ đi giai
thoại thực là thú vị, về nhân vật huyền hoặc này.
Do trả lời được câu
đố của con nhân sư mà ông bị lời nguyền của con vật này: Con vật nào
buổi sáng đi
bốn chân, buổi trưa hai, và buổi chiều, ba.
Con người!
Chính là vì
quá thông minh, mà Oedipus vướng lời nguyền. Thành ra Sophocles mới đặt
vào miệng
của nhân vật của mình, "liệu ta sinh ra quỉ ma như thế ư? “Bửn”,
unclean, đến như thế ư?"
Xứ Tuyết
Đề tài
(Le
thème]: Xứ Tuyết kể, qua
nhiều giai đoạn rời, épisodes discontinues,
một câu
chuyện tình bất khả, impossible, giữa 1 tay trí thức Tokyo và 1 nàng
geisha tỉnh
lẻ, provinciale
Cấu trúc khởi
nguyên [từ này chôm trong nước, La structure originale] của cuốn tiểu
thuyết,
là từ một truyện ngắn mà tác giả đặc biệt quá mê, được viết năm 1935,
Kawabata
bèn đi 1 chuỗi truyện ngắn, độc lập, riêng biệt, 12 năm sau, gom lại,
biến
thành cuốn tiểu thuyết đầu tay.
“Trên núi đã
trở nên âm u vào lúc hoàng hôn, bên trên cây cầu, tuyết đầu tiên đã đặt
để cái
trắng toát của nó: Sur la montagne déjà sombre dans le crépuscule,
au-dessus du
pont, la première neige posait sa blacheur"
Rằng, cái
chuyện, Kawabata, sinh cùng năm với Borges, Nabokov, hay Hemingway,
không làm
chúng ta ngạc nhiên.
Cécile Sakai
Hello, Sweet
Prince
Hamlet is
reborn as a Choose Your Own Adventure
Much scholarly
commentary has been expended on Shakespeare's Hamlet, maybe more than
on any
other play in the English language, but I don't think it's ever been
said of
Hamlet that it would make a good Choose Your Own Adventure novel.
Nevertheless:
that was the pitch that a 32-year-old Canadian writer named Ryan North
made
last November on Kickstarter. North figured it would take about $20,000
to
produce To Be or Not to Be: That Is the Adventure. The Internet
disagreed. It
gave him $580,905.
Hamlet cũng là
1 trong 100 nhân vật ảnh hưởng nhất chưa từng hiện hữu, qua bình chọn
của Time.
Hâm Liệt
Des mots, des mots, des mots. Shakespeare
“Polonius :
- Que lisez-vous, Monseigneur? - Hamlet : - Des mots, des mots, des
mots."
Polonius: Thưa
Hoàng Tử, Ngài đọc gì đó?
Hamlet: Chữ,
chữ, chữ.
D.M.Thomas
cho biết, Hamlet, ngay từ
thoạt kỳ thuỷ của thời đại Stalin, đã bị cấm. Tuy
không chính thức, nhưng đám cận thần đều biết, Stalin không muốn Hamlet
được
trình diễn. Trong một lần tập dượt tại Moscow Art, Stalin hỏi, có cần
thiết
không, thế là dẹp. Vsevolod Meyerhold, đạo diễn, người ra lệnh
Pasternak dịch
Hamlet, đành quăng bản dịch vô thùng rác, nhưng ông
tin rằng, nếu bất thình lình, tất cả những kịch
cọt đã từng được viết ra, biến mất, và may mắn sao, Hamlet còn, thì tất cả những
nhà hát trên thế gian này đều được cứu thoát. Chỉ cần diễn hoài hoài
kịch đó,
là thiên hạ ùn ùn kép tới đầy rạp. Tuy nhiên, cả đời ông, chẳng có được
cơ may
dựng Hamlet.
Nguyễn
Huy
Thiệp phải đợi 30 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, phải đợi chính đứa
thân yêu của
ông ngập vào ma tuý, mới nhìn ra vóc dáng ông hoàng Đan Mạch, và sứ
mệnh bi thảm
của hắn: Giết bố!
Ui choa, chẳng
lẽ cái cảnh biểu tình, là để… giết ông bố Bắc Kít?
Amen!
Một mình ta
gọi ông ta là Bố, là đủ rồi. Ta không muốn mi lấy ta và phải gọi
ông ta là
Bố!
ZHIVAGO'S POEMS
HAMLET
Bản tiếng Anh
The noise is stilled. I
come out on the stage.
Leaning against the door-post
I try to guess from the distant echo
What is to happen in my lifetime.
The darkness of night is
aimed at me
Along the sights of a thousand opera-glasses.
Abba. Father, if it be possible,
Let this cup pass from me.
I love your stubborn
purpose,
I consent to play my part.
But now a different drama is being acted
For this once let me be.
Yet the order of the acts
is planned
And the end of the way inescapable.
I am alone: all drowns in the Pharisee’s hypocrisy.
To live your life is not as simple as to cross a field (1).
(1) The
last line is a Russian proverb
Bản tiếng Tây
Tout se tait. Je suis
monté sur scène,
Et j'écoute, adossé au montant
De la porte, la rumeur lointaine
Qui m'annonce tout ce qui m'attend.
Et je suis la cible des
ténèbres
Cent jumelles sont braquées sur moi.
S'il se peut encore, Abba mon père,
Cette coupe, écarte-la de moi!
Ton dessein têtu, pourtant
je l'aime,
Et ce rôle, je le prends en gré.
Mais un autre drame est sur la scène:
Donne-moi pour cette fois congé.
Mais on a
pesé l'ordre des actes,
Rien ne peut changer le dénouement.
Je suis seul. Les pharisiens sont maîtres.
Vivre, ce n'est pas franchir un champ.
Bản tiếng Mít
Tiếng ồn tắt ngấm. Tôi bước lên
sàn diễn
Dựa vào cột cửa,
Tôi cố phân biệt tiếng dội từ xa,
Nó sẽ quyết định phần số của tôi.
Tôi trở thành cái đích của đêm
đen
Nó chiếu vào tôi hàng trăm ống nhắm
Abba. Cha ơi. Nếu có thể,
Hãy bỏ qua cho con, cái cúp này.
Con yêu cái ý định bướng bỉnh
của cha.
Con bằng lòng chơi phần của con.
Nhưng lúc này một vở khác đã được trình diễn:
Vở này, cho phép con được nghỉ chơi.
Nhưng, lệnh lạc đã được phát ra,
Thế là sau cùng đành chịu trận.
Tôi thì chỉ có một mình:
Tất cả là do thói đạo đức giả của đám người Pharisee.
Sống, không có đơn giản như là vượt qua 1 cánh đồng. (1)
(1)
Tục ngữ Nga
Trên tờ Esquire,
June, 2013 có bài “Gatsby Thần Kỳ” thật tuyệt. Thuổng Dos, tác giả bài
báo, sau khi tự hỏi, Tại làm sao Gatsby
vẫn làm phiền chúng ta, Why Gatsby
Still Matters, bèn trả lời: Chúng ta đều là những hậu duệ của Scott
Fitz, We
are all Scott Fitzgerald’s children now.
|
|