Ghi
|
BÙI MINH QUỐC
PHÁT
BIỂU TẠI LỄ KỶ NIỆM 40 NĂM NGÀY DƯƠNG THỊ XUÂN QUÝ HY SINH
(8.3.1969
– 8.3.2009)
Kính gửi
Ban tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm ngày
hy sinh của nhà văn – liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý.
Nhận được giấy mời (gửi qua bưu điện) và
đề nghị chuẩn bị phát biểu trong buổi lễ do nhà thơ Nguyễn Thế Khoa
thay mặt
Ban tổ chức cho biết (qua điện thoại), tôi đã cố gắng sắp xếp để có thể
ra Hà
Nội kịp thời, nhưng rất tiếc, vào phút cuối, một hoàn cảnh riêng đột
xuất đã
không cho phép thực hiện được như dự định.
Xin gửi tới buổi lễ bài phát biểu của
tôi, kính nhờ ban tổ chức cử người đọc giùm, tôi hy vọng người đó là
nhà thơ
Nguyễn Thế Khoa, và mong muốn bài sẽ được đọc trọn vẹn.
Chân thành cám ơn.
BMQ
Nguồn
Thú thực, khi đọc
những bài viết
tưởng niệm như thế này, Gấu cứ thấy gai gai hết cả người.
Có
bao giờ nhà thơ nghĩ, một khi nhà nước làm lễ công khai tưởng niệm
như
vậy, và có sự tham dự của ông, cho dù theo kiểu vắng mặt, [hay là ông
cũng cảm
thấy gai gai hết cả người nên... chuồn?], là để biểu dương chế độ hiện
tại?
Cái
cỗ máy toàn trị mà ông công khai tố cáo, và 'thú nhận', có phần
đóng góp
của ông ở trong đó, vẫn tiếp tục có sự đóng góp của ông, và bằng hữu?
Gấu
cũng có một thằng em trai tử trận, và thật sự chẳng muốn phiền đến
bất cứ
ai về chuyện tưởng niệm, và thực sự tin rằng, chỉ có gia đình Gấu
được
quyền tưởng niệm.
Không
ai có quyền đó hết,
ngoài Gấu ra!
Đây
là cái nghịch lý to tổ bố của cuộc chiến giải phóng Miền Nam.
Chính những
sự hy sinh của bao nhiêu con người, "kể cả Mỹ Ngụy", cho con quỉ chiến
tranh, lại là nguyên nhân cho sự ra đời và tồn tại của một chế độ khốn
kiếp!
Và
vẫn thường xuyên được vinh danh qua tưởng niệm!
*
Charles Simic, Poet Laureate,
nhà thơ
với vòng nguyệt quế,
["nhà thơ nhà nước", với thế giới CS], đã gọi cảm giác ‘gai gai’
như thế, là "sành điệu"!
Hy
sinh đã đau đớn rồi, hy sinh để góp phần dựng
nên cái nhà Mít đàng hoàng, đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy cỗ máy toàn
trị, lại
càng đau đớn, và hàng năm tưởng niệm thì lại vừa đau lại vừa nhục!
Chúng ta là
những kẻ sành điệu về cái sự độc ác!
Connoisseurs
of Cruelty, Những kẻ sành điệu
về sự độc ác là tên bài viết
của nhà thơ Simic, khi điểm một số sách mới ra lò viết về Bosnia
trên tờ NYRB,
số đề ngày 12 Tháng Ba, 2009. Trong số đó, có cuốn của Wojciech
Tochman, và cái
tên của cuốn sách của ông miêu tả đúng cái tình trạng gai gai của chúng
ta,
nhưng ông gọi là, "Như ăn sỏi, ăn đá:
Sống sót Quá khứ Bosnia"
[Like Eating a Stone: Surviving the
Past in Bosnia, by Wojciech Tochman, Antonia
Lloy-Jones dịch từ
tiếng Ba Lan, nhà xb Atlas, 141p, $20.00]
Chúng ta cũng đang sống sót Quá
Khứ Cuộc Chiến
Thần Kỳ. Chúng ta cũng cảm thấy
gai gai, như ăn sỏi ăn đá, mỗi lần tưởng niệm một liệt sĩ nằm xuống vì
nghĩa
cả, như Dương Thị Xuân Quý, như Đặng Thuỳ Trâm, thí dụ.
Nhưng chắc chắn đếch có
tên sĩ quan Ngụy, là
thằng em trai của Gấu, trong số
những kẻ được vinh danh, tưởng niệm, ở cả hai bên Quốc Cộng!
Gấu đếch cho phép!
*
“Getting its history wrong is
part of being a nation”.
Ernest
Renan. Julian Barnes
trích dẫn khi điểm một số sách mới xb của Orwell, trong cùng số báo.
[Có cái lịch sử lầm lạc, là có cái
phần làm nên một quốc gia]
Liệu đó là lịch sử lầm lẫn làm
nên nước Mít hiện đại?
*
Không có gì quý
hơn Độc lập, Tự do!
Ta
vượt Trường Sơn cùng tiếng
gọi Bác Hồ
Ta dấn bước như chính lòng ta
gọi
Trăm dốc nghìn đèo không rời
đích Tự do
Cái cảm giác gai gai của Gấu,
phần lớn
là do những dòng trên mà ra.
Cứ như ăn sỏi, ăn đá!
Trong
bài diễn văn Nobel văn chương
2000, Cao Hành Kiện, [chắc cũng gai gai hết cả người vì thứ văn chương
trên] đề nghị:
Để văn chương giữ gìn được
cái lý do của sự hiện hữu của riêng nó, và không trở thành đồ chơi của
đám chính
trị gia, thì bắt buộc phải trở về với tiếng nói của cá nhân, bởi vì
thoạt kỳ
thuỷ, nó là từ những cảm nghĩ của cá nhân: một con người có những cảm
nghĩ, và
kiếm cách bầy tỏ chúng ra, và đó là văn chương.
Cái thứ văn chương đồi trụy,
phản động của Miền Nam
thuở Mỹ Ngụy quả là đúng y chang như văn chương mà Cao Hành Kiện
chỉ ra. Thế
mới thú vị chứ!
Khi mất mẹ nó Miền Nam,
người ta bèn
đổ lỗi cho đám nhà văn của nó, đếch có chịu chống Cộng gì cả.
Đúng!
Nhưng, chúng không chịu chống
Cộng bằng ý thức công dân của chúng, đó mới là lỗi lầm, còn cái chuyện
chúng không
chống Cộng bằng văn chương thì thật là tuyệt!
Chúng ta chưa từng bao giờ phải
thấy gai gai cả người khi đọc văn chương Nguỵ cả, thế mà chẳng sướng
sao?
Khi được hỏi, chính
trị thì
thường trực có mặt trong tác phẩm của ông, liệu có thể coi ông là nhà
văn chính
trị, Kadaré trả lời:
“Làm gì có chuyện đó! Tớ đếch phải là nhà văn
chính trị. Mà
nói thẳng ra, tớ rất ghét chuyện đội mũ cho nhà văn, bất cứ thứ mũ
nón gì. Tớ
là nhà văn. Và chính trị thì một phần của đời tớ, như của đời bạn, y
chang như bịnh
hoạn, chiến tranh vv và vv. Văn chương là một trong những khung cảnh
đời ta, như
mọi khung cảnh, nhưng cái khung cảnh văn chương thì thực là thú vị!”
Phóng viên hỏi tiếp, ông đếch
có chịu là nhà văn chính trị, nhưng chỗ nào ông cũng chúi mũi của ông
vô. Rõ nhất
là cuộc xung đột tại Kosvo, ông đã đứng vào vị thế chống lại Serb…
-Không phải như vậy. Tôi là một
công dân như bạn, như hàng triệu người khác. Và đó là cái phần nhân
loại của tôi.
[Cela fait partie de mon humanité]… Bởi vì tôi quá được biết đến tại
vùng Balkans, tôi phải xiá vô, tôi không có chọn lựa nào khác. Tôi
không thể nói: "Không, không, tôi không tuyên bố tuyên mẹ gì hết, tôi
là nhà văn, chuyện đó đếch có tôi. Nhưng tôi chưa hề nghĩ đến một vai
trò chính trị. Bao nhiêu người đề nghị, đòi hỏi tôi làm điều đó, đóng
một vai nhà chính trị. Họ rất nghiêm túc, bởi vì cái đó thuộc truyền
thống vùng Balkans, nhà văn, nhà tiên tri, nhà chính trị... nhưng
tôi từ chối."
Như vậy, thì cái đám nhà văn
Miền Nam
trước 1975, trong có Gấu, tất nhiên, quả
đã quá khốn nạn. Chúng cố tránh né cuộc chiến đó, theo cái kiểu suy
nghĩ của
Kadaré, không coi đó là phần nhân loại của chúng!
*
Nhưng
Orwell chủ trương, "mọi nghệ thuật đều là tuyên truyền",
tên một tập tiểu luận của ông,
và ông được coi là nhà văn của những người không phải là nhà văn, a
non-writers' writer.
*
“Ah, en des temps autrefois vécus,
tu fut ma soeur et mon épouse”
Goethe
“Ui
chao, vào cái thời ngày xưa
đôi ta cùng sống đó, em là người em gái, và người vợ của anh”.
Câu trên, Maurice Blanchot trích dẫn, trong bài viết về Tiếng Hát Nhân
Ngư, Le Chant des Sirènes, in trong Cuốn sách sẽ tới, Le Livre à Venir.
Và, Blanchot tin tưởng rằng:
Luôn luôn có trong con người một cố gắng không được phong nhã cho lắm,
khi phế bỏ, discréditer, tiếng hát nhân ngư, khi buộc tội chúng, chỉ là
những lời dối trá: dối trá khi chúng hát, lầm lạc khi chúng than thở,
giả tưởng, fictive, khi người ta sờ vô chúng.
Hay nói tóm gọn, đếch có, đếch
hiện hữu...
Liệu, những "Đường ra trận mùa này đẹp lắm, Không có gí quí hơn độc lập
tự do..." là những tiếng hát nhân ngư, của một thời?
Chỉ có mỗi một người trị được tiếng hát nhân ngư, đó là Ulysse!
Blanchot gọi cách của Ulysse sử dụng, để trị tiếng hát nhân ngư, là một
sự hèn nhát, sung sướng, và chắc chắn, cette lâcheté heureuse et sure.
*
Gấu này, hình như cũng đã trải qua quá nửa đời người thụ hưởng cái lạc
thú lười biếng, tầm phào, hèn nhát, nhưng sung sướng, và chắc chắn đó,
khi, như một con ngựa, chúi đầu, mình vào bụi cây, đếch thèm để ý đến
bão tố đang tới gần!
*
Khi người thân hy
sinh vì những chân lý “không được thực hiện”,
nào là, "không có gì quí hơn độc lập tự do", nào là , ‘như một lời
nguyền’, “được
lập đi lập lại nhiều lần”, “Trong hy vọng dày vò ta trông ngóng / Những
phút
giây giải phóng thiêng liêng”: Nhắc lại chúng, trong một bài tưởng
niệm, càng làm
thêm đau xót cho cả người sống lẫn người chết.
*
Milosz viết, đời sống không ưa cái chết. Cái cơ thể của con người, cái
túi thịt dơ dáy hôi thối, như Phật nói, một khi nó chưa hôi thối, là nó
bèn làm ấm nó lên bằng nhịp đập của con tim, bằng dòng máu nóng luân
lưu trong nó. Những vần thơ dịu dàng, thân thương được viết ra ở ngay
giữa những điều tàn nhẫn hung bạo, ở ngay giữa cuộc chiến thần thánh
chống Mỹ cứu nước, là những dòng thơ đứng về phía cuộc đời, không phải
về phiá cái chết, chúng tự tuyên bố như thế. Chúng là sự nổi loạn của
cơ thể chống lại sự huỷ diệt của nó: They are the body's rebellion
against its destruction.
Và mong muốn bài sẽ
được đọc trọn vẹn!
BMQ
Men are accomplices to
that which
leaves them indifferent…. The house of civilization proved no
shelter.
Steiner: A kind of survivor [Thì
cũng là một kẻ sống sót]
[Con
người là kẻ đồng lõa, về
cái điều làm cho con người trở thành dửng dưng…. Căn nhà văn minh chứng
tỏ không
có chỗ ẩn náu].
*
Một bài tưởng niệm
vợ, một liệt
sĩ, người đã nằm xuống vì lý tưởng tự do, [“Ở Quý, khát vọng giải phóng
dân tộc
và giải phóng con người luôn hòa quyện mãnh liệt, mà giải phóng con
người là
cái đích dù còn xa vời lắm nhưng Quý không ngừng hướng tới trong từng
ngày
sống, từng giờ sống, từng hành động sống.Giải phóng con người phải bắt
đầu từ
từng người, từng người phải tự giành lấy quyền tự do phát triển mọi khả
năng
mình có. “Sự phát triển tự do của mỗi cá nhân là điều kiện tất
yếu cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người” - điều mà hàng
trăm năm
trước Các Mác nêu lên như một nguyên lý đã đến với Quý, cũng là với cả
thế hệ
chúng tôi, như một lý tưởng, một lẽ sống, và Quý đã sống trọn vẹn, sống
mãnh
liệt theo lý tưởng ấy, lẽ sống ấy.Truyện ngắn “Chỗ đứng”
– mà Quý
lấy để đặt tên cho cuốn sách đầu tay của mình - chính là sự ký thác nỗi
niềm
riêng, mà cũng là khát vọng chung của cả một thế hệ lớn lên trong hòa
bình ở
miền Bắc thời ấy đòi hỏi phải được tự do phát huy mọi khả năng của mình
và họ
phải có chỗ đứng xứng đáng trong xã hội, họ dứt khoát
không chấp
nhận cái chỗ ngồi dẫu là được đề bạt đề cao nhưng chỉ
để làm chân
sai vặt.Cái lý tưởng xã hội và cũng là lý tưởng thẩm mỹ ấy khi gắn bó
với cuộc
sống lao động chiến đấu đầy cực nhọc mất mát và hy sinh của nhân dân đã
cho Quý
một nghị lực phi thường để đương đầu và vượt qua những trở lực tưởng
chừng
không thể vượt qua, những trói buộc, hữu hình và vô hình dựng nên ngay
tại cơ
quan ngay khi mới chập chững bước vào nghiệp cầm bút trong cái thời còn
tương
đối bình yên, những trói buộc ghê gớm đến nỗi Quý thấy khi xông pha
giữa bão
lửa chiến trường lại có được cảm giác của con người tự do,” Trích tưởng
niệm liệt
sĩ vợ, của BMQ] vậy mà phải đi một đường
tiểu chú: Và mong muốn bài sẽ được đọc
trọn vẹn, thì
thử hỏi, tự do ở đâu, chỗ đứng - chỗ ngồi thì biết rồi - ở đâu?
Lẽ dĩ nhiên, nhà thơ, nhân dịp tưởng niệm, chơi nhà nước một đòn, khi
nhắc nhở, về tự do, về chỗ đứng... nhưng, thiếu gì dịp!
*
Trong Milosz's ABC's, viết về bằng hữu, đa số, tác giả giải thích:
Bởi
vì sống ở
trong thời gian, chúng ta phải tuân theo luật lệ của nó, theo đó, chẳng
có gì
hoài hoài, mọi chuyện đều sẽ đi. Người đi, cây đi, loài vật đi... và
cái gọi là
hồi ức, của những người còn sống, cũng đi, ngay cả khi còn nhớ, thì cái
nhớ
cũng mờ mờ, ảo ảo….
Niềm
tin về một cuộc đời phía bên kia nấm mồ, tạo
ra một đường biên giữa hai thế giới, nhưng tương giao giữa chúng thì
thật khó
khăn. Orpheus phải chịu vài điều kiện thì mới được phép xuống Địa Ngục,
thí dụ.
Nhưng đường biên giữa hai thế giới thì thật không hoàn toàn rõ ràng,
đối với những
người tin rằng, ông bà tổ tiên của họ, tuy đã chết, nhưng vẫn quanh
quẩn đâu đó
để bảo vệ, và giúp đỡ con cháu. Vì vậy mới có chuyện thờ cúng tổ tiên.
Và như
thế, không gian của tín ngưỡng vượt không gian lịch sử, được hiểu như
là sự liên
tục của văn minh. Và, ngôn ngữ có thể được hiểu như là một miền đất, ở
đó,
chúng ta gặp gỡ tiền nhân, những người đã cùng viết thứ ngôn ngữ chúng
ta đang
viết, trăm năm trước, ngàn năm trước. Nhà thơ Nga Brodsky [theo Milosz]
thường
nói là, ông không viết cho những người tới sau ông, nhưng viết để làm
hài lòng
những vong linh của những tổ tiên thi ca của ông, to please the shades
of his
poetic forebears.
Có
lẽ, chúng ta viết, là chỉ để thường trực tưởng niệm tổ tiên, a
permanent celebration,
những người đã ra đi, với hy vọng, họ có thể, biết đâu, hiện về, trong
thoáng
chốc.
Khi
viết cuốn
ABC, tôi thường xuyên nghĩ, tốt hơn hết, nên bám vào cuộc đời riêng tư
của từng
cá nhân, bạn bè, và số mệnh của họ, hơn là những chi tiết bên ngoài.
Những
nhân vật của tôi thoáng hiện về, qua một chi tiết chẳng có chi là đặc
biệt, và
chắc chắc họ đều bằng lòng với điều này, bởi vì đó là cách tốt nhất để
tránh khỏi
sự quên lãng. Có thể cuốn ABC là một cuốn ‘thay vì’: thay vì một cuốn
tiểu thuyết,
thay vì một tiểu luận, thay vì một hồi ức…
Giá
mà chúng ta biết thêm một chi tiết bình thường, giản dị nào đó,
ngoài những nghị lực phi thường, mãnh liệt..
Her son was betrayed because
she’s a writer first, mother second
Minette Marrin
Con trai của bà ta bị phản bội,
trước hết, vì bà ta là nhà văn, rồi mới tới, bởi vì bà ta là mẹ.
Một gia đình có một nhà văn là một gia đình điêu tàn, tan hoang.
Viết, là về phản bội. Phản bội
là điều mà nhà văn nhà thơ làm.
Ngược
hẳn với mọi người
thường nghĩ, hầu như tất cả nhà văn không biết bịa đặt.
Điều kỳ cục về giả
tưởng, là nó thực sự không giả.
Tình
cảnh ‘sống sót’
của đám
nhà văn nhà thơ VC, nhất là đám nằm vùng, thật trớ trêu, theo Gấu. Họ
không
thể quên đi cái quá khứ đỉnh cao chói lọi ngày nào, và cũng không thể
nào vờ đi
cái chế độ khốn kiếp hiện tại. Khi khóc vợ, nhắc lại
những vần thơ
đầy hào quang ngày xưa [thơ tình & cách mạng], vậy mà cũng nơm nớp
sợ nhà nước
kiểm duyệt
thì thê lương quá, khốn nạn quá!
Trông mong gì ở đám này, ở trong nước?
Ở một Sến Cô Nuơng ở hải ngoại?
*
Prodigieuse
anecdote pour terminer: Il vient d’apprendre que la première chose que
Camus a faite
à son retour du prix Nobel, c’était d’aller se recueillir sur la tombe
de
Simone Weil. Prodigieuse anecdote pour terminer.
Một giai thoại tuyệt vời để kết thúc... Mắt nhà thơ đỏ hoe: Milosz vừa
được biết, vừa đi lãnh Nobel về là Camus ra mộ Simone Weil để thăm
viếng .
Nhờ Milosz mà tôi hiểu ra được rằng, để cho lời dối trá trở thành sự
thực, thì cứ phải để chính nạn nhân nói ra 'sự thực' đó!
*
Cái vụ tưởng niệm liệt sĩ này nọ của VC, theo Gấu, nhìn một cách nào
đó, là cũng để cho lời dối trá biến thành sự thực. Thành ra phải đích
thân nhà thơ khóc vợ, thì cái chân lý "Không có gì quí hơn" kia mới
càng thêm sáng chói!
Có thể vì lý do đó mà nhà thơ nơm nớp sợ bị nhà nước kiểm duyệt?
Cái sự so sánh với một viên kim
cương của ông làm nhớ ra là ông còn là một thi sĩ. Vậy mà ông chẳng
thèm nói tới thơ…
Tạp chí văn học Le Magazine Littéraire
Ismail Kadaré:
Về chuyện này, có ý do của nó. Thơ, ngược hẳn với đám nhà văn VC lúc
nào cũng ra rả, coi đó là ngọn cờ đầu của văn học, nó là sự tủi hổ của
văn chương. Cái phần nhục nhã nhất, tủi hổ nhất, hay được phô ra nhất,
khoe nhặng xị nhất, hồ hởi nhất, xã hội chủ nghĩa nhất, cộng sản nhất,
ngu si nhất, đần độn nhất. Tất cả những nước CS khoe nhặng lên, chúng
là những cây cột chống Trời của Thơ, khi nào thấy rêm mình là vịn thơ
đứng dậy, in thơ loạn cào cào châu chấu… nhưng thôi, nói vậy đủ tởm, và
tôi thật sự là quá tởm cái chuyện này. Đúng như thế, thơ là cái mang
tội nhất trong các thể loại văn học của vùng cựu CS. Cái thứ hung hăng
con bọ xít nhất, cái thứ thực chứng nhất của cái chế độ khốn kiếp nhất,
nhất, nhất!
Kundera cũng phán xêm xêm, cách mạng Nga cần cả hai: nhà thơ Maia và
trùm mật vụ Dzherzhinsky [xin xem bài "Mùa Thu, những di dân"]
Nhà tù VC không phải
nhà tù VC, nó chỉ là nhà tù VC, khi trên tường dán đầy thơ, thơ Bác Hồ,
thơ Tố Hữu, thơ Phạm Tiến Duật, thơ Bùi Minh Quốc… và mọi tù nhân nhẩy
múa chung quanh những bài thơ đó!
Maia
sau tự tử. VC nghe nói, cũng có một ông thi sĩ toan tự tử, nhưng không
phải BMQ!
Gấu tự hỏi, có bao giờ đám thi sĩ VC này nhìn ra cái tội tầy trời của
chúng hay không?
[Ngu sao 'nhìn ra'?]
*
Ui chao, lại nhớ thời gian tại nông trường Đỗ Hoà: Gấu đã từng nhẩy múa
trước những bài thơ trên tường nhà tù, trong có cả của Gấu, và đã từng
sướng mê tơi, khi thấy Chú Muời, Chú Chín, Chú Sáu Dân, Chú Bẩy Dũng...
trình độ cũng lớp Một, lớp Hai gì gì đó, Trùm nông trường, ngốn từng
câu văn của thằng tù là Gấu, ca ngợi ngày thành lập Đảng, Cách Mạng
Tháng Tám, Đại Thắng Mùa Xuân… trên những tờ Báo Tường của Đội Ba Kiên
Trì. Đội Ba Vững Tiến. Đội Ba Ngọn Cờ Đầu Nông Trường...
Hai năm trời ở Thiên Đường, về đời, là không làm sao quên được, nói gì
mấy ông nhà văn nhà thơ VC có cả một đời, nhiều đời được hân hạnh làm
thơ phục vụ Cách Mạng, chết rồi mà vẫn còn chưa thoát, như nữ liệt sĩ
thi sĩ Xuân Quí!
Thảo nào nhà thơ "Đại Hàn", Chung Đô Koan, sợ quá, thều thào xin được
rút bài thơ Quê Hương ra khỏi tường nhà tù, trước khi nhắm mắt lìa đời!
D.M thằng nào con nào, tao chết rồi, mà còn lôi thơ tao ra treo lên nhé!
Kundera,
trong Bức Màn, cho
rằng,
muốn hiểu là phải so sánh . Và do muốn hiểu tiểu thuyết gia, ông so
sánh với nhà
thơ. Không phải bất cứ nhà thơ, mà nhà thơ trữ tình.
“Nội dung thơ trữ
tình, theo
Hegel, là nhà thơ, chính anh ta/chị ả. Anh ta nỉ non về mình, để làm
bật ra ở
những người nghe, những tình cảm, những trạng thái tâm hồn như anh ta
cảm thấy.
và ngay cả khi nhà thơ nói về những đề tài ‘khách quan’, ở bên ngoài
cuộc đời của
anh ta, thì nhà thơ trữ tình cũng vội vàng thoát ngay ra để làm một cái
chân
dung về mình.
Âm nhạc và thơ có cái
lợi hơn
là vẽ, hội họa, là nhờ cái chất trữ tình này, theo Hegel. Âm nhạc còn
ghê hơn
thơ, nó tới được những vùng sâu hơn thơ, nơi lời nói không thể tới
được. Và từ âm
nhạc, chúng ta suy ra, có một thứ nghệ thuật còn trữ tình hơn cả thơ
trữ tình.
Nói rõ hơn, chúng ta có thể suy ra, ý niệm trữ tình không chỉ hạn hẹp
như là một
ngành của văn học [thơ trữ tình] mà nó còn chỉ ra một cách hiện hữu ở
đời, elle
désigne une certaine facon d’être, và từ cách nhìn như thế, thơ trữ
tình chỉ là
một cách nhập thân bảnh nhất, hách nhất, của một con người, choáng váng
đến phát
rồ, bởi tâm hồn của chính anh ta, và bởi cái ham muốn được nghe nó hát
lên!
Với tôi, [Kundera],
đã từ lâu,
tuổi trẻ đúng là một cái tuổi đại trữ tình, tuổi thời mà cá nhân chỉ
xoáy vào mình,
chẳng thể nào có thể nhìn, hiểu, và phán đoán một cách sáng suốt thế
giới chung
quanh. Nếu chúng ta coi đây là một giả thuyết, thì cái vụ chuyển từ
chưa trưởng
thành sanh trưởng thành, chỉ là vượt vũ môn: thoát ra khỏi cái ao tù
trữ tình
.Ông kết luận, tiểu thuyết gia
sinh ra từ những điêu tàn của thế giới trữ tình của mình, le romancier
nait sur
les ruines de son monde lyrique.
Cái thứ thơ ca cách
mạng, nhìn
như thế, cũng là một thứ thi ca trữ tình, nhưng thay vì xúi người ta
vãi lệ, thì
là, máu: Đường ra trận mùa này đẹp lắm.
Đọc “Nhật ký Dương Thị Xuân
Quý”
Thanh Thảo
Sau
chiến thắng 30 Tháng Tư,
đất nước lâm cơn đại họa, ngay cả những thành phần thực sự tin vào chủ
nghĩa
CS cũng phải đặt lại vấn đề, những hy sinh, những mất mát, tổn thất của
cả hai miền liệu có xứng đáng, vậy mà vẫn có những bài viết tưởng niệm
những anh
hùng liệt sĩ, theo cái kiểu viết, nhờ họ nằm xuống mà chúng ta mới có
ngày hôm nay,
liệu tác giả những bài viết như thế này, có còn chút lương tri?
Bởi vì viết như thế
là làm nhục những người đã chết, chứ đâu phải vinh danh họ?
Không có gì quí hơn độc lập
tự do?
Nhưng độc lập đâu? Tự do đâu?
*
Cuộc chiến tàn lụi đã bao
nhiêu
năm rồi, bạn biết đấy, và những người chết thì có thể có người đã đi
đầu thai, đã có
một cuộc đời mới, biết đâu đấy, và chẳng còn nhớ đời trước mình thuộc
phe nào,
nếu bạn không thể nào tưởng niệm một tên Nguỵ đã chết, thì hãy cho phép
một người
như tôi, được quyền ngậm ngùi một liệt sĩ, như bạn, chứ?
Viết
như bạn viết, thì Gấu này
làm sao ngậm ngùi cho được?
*
Walter Benjamin coi
Herodote
là người kể chuyện đầu tiên của người Hy Lạp, và một trong câu chuyện
ông kể, là
về một vì vua Hy Lạp bị kẻ thù bắt, và làm nhục bằng cách bắt nhà vua
đứng
nhìn cuộc diễu hành của kẻ thắng trận, và trong số những tù nhân lũ
lượt đi qua, có cô con gái của nhà vua. Dân chúng nhìn thấy công chúa
bị làm
nhục ồ lên khóc, nhưng nhà vua tỉnh bơ, và chỉ bật khóc, khi thấy người
hầu già
trong số những tù nhân. Ngài bật khóc, vò tai, đấm đầu tỏ ra hết sức
đau lòng.
Walter Benjamin giải thích, câu chuyện kể chỉ mở ra, bằng chi tiết mới
mẻ đó, nó
chỉ trở nên sống động, đúng vào có cái chi tiết lạ thường đó, thấy con
gái bị làm
nhục, không khóc, mà thấy người hầu bị hành hạ thì bật lên khóc.
Nhưng
Montaigne, qua Benjamin
kể lại, khi được hỏi, trả lời: Khi nỗi đau thật đầy, thì chỉ cần một
giọt
nước là làm tràn ly. Nhưng, theo Benjamin, người ta có thể giải thích,
nỗi đau công
chúa bị làm nhục là nỗi đau riêng, của hoàng gia. Hay, nỗi đau tự chứa
trong nó, và chỉ bùng ra, vào lúc ‘détente’ [relax]. Nhìn
thấy người hầu già là lúc xả ra, xì ra, của nỗi đau.
*
Gấu này lèm bèm, lăng ba vi bộ
chán chê, chỉ để nói, có lẽ đã đến lúc détente rồi.
Cứ gân
cổ lên hoài, niệt sĩ, niệt sĩ, không có gì quí hơn độc nập tự do, chưa
chán sao?
Ba mươi năm mới có ngày nay,
vui sao nước mắt lại trào. Trào vãi ra rồi, ‘détente’ là… dzừa!
Khi cơn đau lên đầy, là thuyền
đã ra khơi.
Đã vượt biển!
*
“Crito,
we owe a cock to
Asclepios. Pay my debt, and do not forget it.' That 'we' remains as
enigmatic
as the nous, never reiterated or explained, in the opening sentence of
Flaubert's Madame Bovary. Is Socrates identifying with collective
mankind so as
to remind us that death is the most total of generalizations, that it
can be
construed as the eradication of the first person singular? In death we
do
become 'we'. If this is the intent of the syntax, modesty proved
short-sighted.
Socrates has, in the history and practice of western logic, come to
stand for
'man'. Innumerable are the syllogisms and the translations of natural
language
into elementary symbolic-logical notation, which use 'Socrates' to
represent
man.
From
the medieval schools to
Descartes and modern primers, countless school children and tyros in
logic have
recited the basic syllogism: 'Socrates is a man. / All men are mortal.
/
Socrates is mortal.' Being so flat and familiar, the sequence has lost
its aura
of enormity. Not until Leon Shestov, the twentieth-century Russian
thinker
against death, against our servile acquiescence in logical necessity,
will
anyone protest and point to the vital scandal of Socrates' existential
presence
in this formalization of doom. It is, to Shestov, terrible enough to
apply this
primary syllogism to a dog; it is an ontological outrage to mouth it,
unthinking, about Socrates.
What we
know is this: the
Socrates who turns to Crito, who already feels in his groin the nearing
death-chill of hemlock, chooses, in his last words, both a plural
pronoun - 'we
owe' - and a personal possessive - 'my debt'. He literally voices the
threshold, the passing from ego to anonymity. He cannot know (would he
have
cared?) that anonymity will afford him no lodging, that logic and
logical
argument would make 'Socrates' one of the two least nameless of men.
*
Trong
bài viết Two Cocks,
trích đoạn trên đây, Steiner cho rằng,
hai cái chết, một của Socrates, một của Jesus, đã xác định nên cái
khung cảm
tính Tây phương. Những phản ứng của chúng ta [người Tây phương] về tôn
giáo,
triết học và chính trị, là từ hai cái chết này mà ra. Cảm quan về một
cái ngã
của chúng ta, về mặt siêu hình, và về mặt công dân, là cũng từ đó mà ra
luôn.
Cho đến ngày này, chúng ta đều là những đứa con của hai cái chết đó.
Socrates,
trước khi chết, dặn
đệ tử, "Crito, chúng ta nợ Asclepios
một con gà trống. Hãy
trả món nợ của ta, chớ quên." Từ "chúng
ta" ở đây, thật quá bí hiểm, theo Steiner. Bởi vì liền sau đó, thầy
Socrates lại
phán, "món nợ của ta". Và Steiner lèm bèm tiếp, liệu sư phụ Socrates
đồng
nhất
Kundera,
trong Bức Màn, cho
rằng, muốn hiểu là phải so sánh . Và do muốn hiểu tiểu thuyết gia, ông
so sánh
với nhà thơ. Không phải bất cứ nhà thơ, mà nhà thơ trữ tình.
“Nội dung thơ trữ
tình, theo
Hegel, là nhà thơ, chính anh ta/chị ả. Anh ta nỉ non về mình, để làm
bật ra ở
những người nghe, những tình cảm, những trạng thái tâm hồn như anh ta
cảm thấy. Và ngay cả khi nói về những đề tài ‘khách quan’, ở
bên ngoài
cuộc đời anh ta, thì nhà thơ trữ tình cũng vội vàng thoát thân để làm
một
cái chân
dung về mình.
Âm nhạc và thơ có cái
lợi hơn
là hội họa, là nhờ cái chất trữ tình này, theo Hegel. Âm nhạc còn ghê
hơn thơ,
nó tới được những vùng sâu, nơi lời nói không thể tới được. Và
từ âm
nhạc, chúng ta suy ra, có một thứ nghệ thuật còn trữ tình hơn cả thơ
trữ tình.
Nói rõ hơn, chúng ta có thể suy ra, ý niệm trữ tình không chỉ hạn hẹp
như là
một ngành của văn học [thơ trữ tình] mà nó còn chỉ ra một cách hiện hữu
ở đời,
elle désigne une certaine facon d’être, và nhìn như thế, thơ trữ tình
chỉ là
một cách nhập thân bảnh nhất, hách nhất, của một con người choáng váng
đến phát
rồ, bởi tâm hồn của chính anh ta, và bởi cái ham muốn được nghe nó hát
lên.
Với tôi, [Kundera],
đã từ
lâu, tuổi trẻ đúng là tuổi trữ tình, l’age lyrique, tức tuổi cá nhân
chỉ
xoáy vào mình, chẳng thể nào có thể nhìn, hiểu, và phán đoán một cách
sáng suốt
thế giới chung quanh. Và ông kết luận, trưởng thành có nghĩa là vượt
qua được tuổi
trữ tình!" Tiểu thuyết gia, là người sinh ra từ đống điên tàn của thế
giới trữ tình, theo Kundera. [le romancier nait sur les ruines de son
monde lyrique].
Có vẻ như thơ Mít, cả
ở những
nhà thơ sắp xuống lỗ, như BMQ, TT... đều chưa thoát ra được cái
thuở vãi lệ, và, vãi
máu, của người khác, trong có bạn bè, người thân của họ.
|
|