Thơ mỗi ngày
Thơ mỗi ngày
Nguyễn Trọng
Tấn:
Trong những
thi sĩ trước bà, cùng thời với bà và sau này, có vị nào bà cảm thấy mến
mộ thi
tài của họ? Và thấy thơ của mình có chịu ảnh hưởng của họ?
Nhà thơ Trần
Mộng Tú trả lời:
Thưa ông. Những
thi sĩ thời tiền chiến và cả những thi sĩ sau này. Mỗi thi sĩ có một số
bài tôi
thích. Tôi thuộc rất nhiều thơ. Tôi có thể ảnh hưởng cách suy nghĩ của
họ nhưng
tôi không ảnh hưởng cách dùng chữ. Tôi yêu chữ nghĩa trang trọng của Vũ
Hoàng
Chương, mỹ miều đài các của Đinh Hùng, hồn nhiên nhưng rất thơ của Bùi
Giáng,
quê quê của Nguyễn Bính. Những thi sĩ như Du Tử Lê, Nguyên Sa, Đỗ Quý
Toàn,
Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ v.v mỗi người tôi yêu thích một số bài
(không phải
tất cả) của họ. Những bài thơ tình của các tác giả trong nước, đôi khi
tôi cũng
may mắn gặp được một số bài hay rải rác trên những trang mạng. Tôi cũng
là người
ái mộ Pablo Neruda, Rumi, Khalil Gibran. Nhưng tôi nghĩ, thơ của tôi
không bị ảnh
hưởng thơ của ai, vì thơ tôi rất tmt.
Blog DTL
Lời bàn
ngang như cua của GNV:
Thơ TMT thì
rất TMT.
Nhưng rất TMT như thế nào,
cái đó mới khổ cho người đọc!
Bữa nay, G
thử cắt nghĩa “rất TMT”, là thế nào, coi có nghe lọt tai không.
Theo GNV, thơ
TMT có nét thơ Bà Huyện Thanh Quan, ở giọng hoài cổ của nó, thí dụ giọt
mưa trời khóc ngàn năm trước.
Đó là nét giống BHTQ.
Cái không giống, là ở dáng
vẻ đài các.
Bà Huyện Thanh Quan không có tính đời thường, nét đời thường, không
có sự tục lụy, hệ lụy của đời thường. Thơ TMT có.
GNV
thường gọi cái nét này, là hồn nhân hậu của
văn chương. Bạn đọc thơ TMT, là thấy ngay, nhà thơ có để tâm đến bạn,
khi làm
thơ.
Trong thơ TMT có cái gọi là sương mù, bụi bặm của hiện tại, của đời
thường.
Ý này G thuổng, trong 1 bài [đang đọc] song song với bài phỏng vấn TMT
(1)
GNV
có thói quen, đọc, hay viết, nhiều bài, cùng 1 lúc!
(1)
Le
brouillard du présent
Mais voyons la face oubliée de
cette conception de l'Europe. Dans Les
Testaments trahis, Kundera nous reproche d'accuser Maïakovski,
Heidegger et
Céline d'avoir collaboré avec le communisme ou le nazisme: selon lui,
nous ne
nous rendons pas compte qu'ils vivaient et agissaient dans le
brouillard, sans
compter qu'il est facile de les juger aujourd'hui, une fois le
brouillard
disssipé. De façon surprenante, Kundera reprend ici les illusions de la
conception avant-gardiste de la modernité selon laquelle le passage
entre passé
et présent est perçu comme une libération des ténèbres, du brouillard
du passé.
Or le brouillard fait tout autant partie du présent et chacun peut
contempler,
derrière le brouillard de son présent, le brouillard du présent passé,
au sens
où l'entend saint Augustin: « C'est improprement que l'on dit: il y
a trois
temps, le passé, le présent, le futur; mais sans doute dirait-on
correctement :
il y a trois temps, le présent des choses passées, le présent des
choses
présentes, le présent des choses futures. » Le brouillard est le
propre de
chaque présent, aucun jugement ne peut être proféré à un moment sans
brouillard. Dans le brouillard de notre présent, nous jugeons ceux qui
ont agi
dans le brouillard du présent passé, et, souvent, nous redoutons les
angoisses
de « ceux qui agirent jadis ». Le dilemme tragique du président
tchécoslovaque
Edvard Benes (3) en 1938 est tout aussi voilé par le brouillard
aujourd'hui
qu'il l'était au moment du traité de Munich. Il est étrange que Kundera
ait pu
croire à la venue d'un tel « présent sans brouillard ». Quelle naïveté
bien peu
kunderienne!
Thơ Bà Huyện
Thanh Quan không còn chút bụi trần, khác thơ TMT.
Nhưng cả
hai có chung
niềm hoài cổ.
Có 1 khoảng
cách giữa thơ TMT với thơ tiền chiến, với thơ của những thi sĩ cùng
thời với bà,
nhưng lại có 1 mối nối giữa thơ của TMT với thơ của Bà Huyện Thanh Quan.
Mối nối này
khiến G liên tưởng tới đoạn tiếng Tây ở trên, nhất là đoạn nói về ý
niệm thời
gian, được gạch dưới:
Thật không đúng,
khi cho rằng có 3 thời, quá khứ, hiện tại, tương lai. Đúng ra phải nói:
có 3 thời,
hiện tại của những điều quá khứ, hiện tại của những điều hiện tại, và
hiện tại
của những điều tương lai.
Giọt mưa [giọt lệ trời] ngàn năm trước mà ướt đẫm bàn
tay người bây giờ, là vậy.
[Steiner
cũng có ý đó, khi viết "vết gỉ của giọt sương trên lưỡi dao sáng ngời",
nhưng ông nói về kịch Shakespeare, Macbeth, thí dụ, tức là nói
về “người
làm thịt người”. Hình ảnh này, nói lên sự vô thường của cõi người, đúng
hơn.
NQT]
Trong những
câu hỏi của độc giả trang DTL, có 1 câu, giả như không có biến
cố 30 Tháng
Tư, liệu bà có làm thơ, viết văn; TMT trả lời, tất nhiên, ‘nòi tình’
mà, [ông bà
mình thường nói…], nhưng nội dung chắc là khác đi.
Có thể như
thế, nhưng đẩy câu hỏi/câu trả lời đến tận cùng, có thể nói, bụi thời
gian
trong thơ của TMT, là từ tro than của cuộc chiến. Chính cái “being
versed" in
war things [mượn hình ảnh của Brodsky viết về thơ Robert Frost: "being
versed" in
country things] làm nên nội dung thơ của TMT.
Thật là buồn
khi phải phán rằng, nếu có cái gì tốt về lưu vong, thì đó là, nó dậy
chúng ta bài
học về khiêm nhường. Brodsky viết, trong bài nói chuyện Phận Lưu Vong, The
Condition We Call Exile. Ông viết tiếp, đẩy thêm một bước nữa,
có thể nói, cái
bài học tối hậu lưu vong dậy một nhà văn nhà thơ, là bài học về đạo
hạnh.
Và nó
là vô giá, priceless, bởi vì nó đem đến cho anh ta/chị ta, một viễn
tượng lâu dài
nhất có thể khả hữu. Như Keats nói, “And thou art far in humanity”
Bị thất lạc,
"bỏ đi" (viết như vào hư vô) giữa nhân loại, giữa đám đông, (đám
đông: người Việt ở hải ngoại?), giữa cả tỉ người (thế giới tự do?); trở
thành
cái kim đáy bể, nhưng lại là cái kim mà một người nào đó đang tìm kiếm:
đó là tất
cả cái gì được gọi tên là lưu vong. Vô thường thôi, bạn là gì, may ra
chỉ là hạt
cát trong sa mạc. Vinh quang và cũng là bất hạnh: Hãy đo lường chính
bạn, không
phải đối với những bạn văn, nhưng với cái vô cùng của trời đất con
người.
Source
Vẫn Brodsky,
vẫn bài viết, “Có lẽ một ẩn dụ sẽ giúp đỡ chúng ta ở đây: Là 1 nhà văn
lưu vong
thì như là bị ném vào không gian trong cái phi thuyền, mà phi thuyền ở
đây, là
ngôn ngữ của anh ta. Thật lâu ơi là lâu, thì anh ta mới khám phá ra
rằng, phi thuyền không
hướng về trái đất, mà cứ thế đi mãi vào hư vô [it graviates not
earthward but
outward].
Cũng ý đó,
GNV, ngay những ngày mới ra hải ngoại, phán, người tình của TMT là
tiếng Việt.
Đêm Từng Miếng
Saturday,
May 21, 2011
trần mộng tú
Đêm như miếng
thạch đen
cắt ra từng
miếng nhỏ
mở cả hai bàn
tay
miếng đêm
soi không tỏ
đêm như một
dòng tóc
sổ tung xuống
cuộc tình
một giải
tình đen mướt
len vào giữa
giấc mơ
đêm như một
lọ mực
đổ nghiêng
xuống bài thơ
tình như
trang giấy thấm
xoá đi rất
tình cờ
em một mình
trong đêm
đi quanh
nghe đêm thở
dưới hai gót
chân em
đêm thắp hồng
ngọn lửa
em
đi và thơ đi
đêm tan từng
miếng nhỏ
suốt hành
lang cuộc đời
đêm đốt thơ
cháy đỏ
tmt
5/2011
Note:
1.
"Xổ tung". Không phải "sổ
tung". “Cái này” tay biên tập Diễn
Đàn Thế Kỷ đúng ra phải sửa!
2.
đêm như một
lọ mực
đổ xuống
thành bài thơ
How?
Sửa đi như vậy,
thì lại thấy câu thơ của Ngân Giang vọng về:
Đêm khuya lệ
nến rơi thành chữ.
3.
Cả bài thơ,
có thể đọc, như 1 ứng tác, une improvisation, 1 giai điệu lên xuống,
gia giảm, une
variation… [của] 1 lời nhạc của TCS, 1 lời
thơ của Byron, và của Baudelaire (1)
NQT
(1)
She walks in beauty, like the
night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm
Borges phán:
Để chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra một em, cao, tối,
tall,
dark, bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó, là 1 người đàn bà cao, tối,
và cứ
thế, cứ thế.
Tưởng tượng đẩy tưởng tượng,
câu "hót" BHD, thần sầu,
"không phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc thần sầu của TCS, trong Phôi
Pha:
Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
BHD ở ngoài đời, cao, đen, nhập
vào với đêm, y chang lời nhạc của
TCS mô tả, những lần "bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!"
*
Ui chao, GNV bữa nay, lôi bài viết của Borges đọc lại, mới
khám phá ra 1 cái lỗi trầm trọng, là bỏ qua cái ‘tiểu chú’ của ông:
Baudelaire
writes, in "Recueillement":
"Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche"
[Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks].
The silent walking of
the night should not be heard.
Soure
The Gift
"Thiên tài"
Brodsky: Những hạnh của bất hạnh
Joseph
Brodsky and the fortunes of misfortune.
IN THE
BEAUTY CREATED BY OTHERS
Only in the
beauty created
by others is
there consolation,
in the music
of others and in others' poems.
Only others
save us,
even though
solitude tastes like opium.
The others
are not hell,
if you see
them early, with their
foreheads pure, cleansed by dreams.
That is why I wonder
what
word should
be used, "he" or "you." Every "he"
is a betrayal
of a certain "you" but
in return
someone else's poem
offers the
fidelity of a sober dialogue.
Adam
Zagajewski: Without End
Trong Cái Đẹp Được
tạo Ra Bởi Những Kẻ khác
Chỉ trong
cái đẹp được sáng tạo
bởi những người khác thì mới có sự an ủi,
trong nhạc của
kẻ khác, và trong những bài thơ của những kẻ khác.
Chỉ Kẻ Khác,
[Tầu Lạ, hà, hà], cứu vớt chúng ta
mặc dù cô đơn thì vị của nó giống như của thuốc
phiện.
Những kẻ khác
thì không phải là địa ngục
nếu bạn nhìn
thấy họ, sớm sủa,
với vầng trán trong trắng
được tẩy sạch bằng những giấc mộng.
Chính vì vậy mà tôi tự hỏi, từ nào nên dùng, “anh
ấy”, hay “bạn”.
Mọi từ ‘anh ấy”
thì là 1 sự phản bội một từ “bạn” nào đó,
nhưng đổi lại,
bài thơ của một người
nào đó
dâng hiến sự trung thuỷ của một cuộc đối thoại điềm đạm.
CHILDREN
OF OUR AGE
We are children of our
age,
it's a political age.
All day long, all through
the night,
all affairs-yours, ours, theirs -
are political affairs.
Whether you like it or
not,
your genes have a political past,
your skin, a political cast,
your eyes, a political slant.
Whatever you say
reverberates,
whatever you don't say speaks for itself
So either way you're talking politics.
Even when you take to the
woods,
you're taking political steps
on political grounds.
Apolitical poems are also
political,
and above us shines a moon
no longer purely lunar.
To be or not to be, that is the question.
And though it troubles the digestion
it's a question, as
always, of politics.
To acquire a political meaning
you don't even have to be human.
Raw material will do,
or protein feed, or crude oil,
or a conference table
whose shape
was quarreled over for months:
Should we arbitrate life and death
at a round table or a square one?
Meanwhile, people
perished,
animals died,
houses burned,
and the fields ran wild
just as in times immemorial and less political.
Wistawa Szymborska
Những đứa trẻ
của thời chúng ta
Chúng ta là
những đứa trẻ của thời chúng ta
Và đó là thời
chính trị.
Suốt ngày,
suốt đêm
Ngày nào đêm
nào thì cũng thế
mọi chuyện -
của anh, của chúng ta, của chúng nó –
thì đều là
chuyện chính trị
Dù thích hay
không thích
Cái gen của
bạn có một quá khứ chính trị
Da của bạn,
có màu chính trị
Con mắt của
bạn có cái liếc xéo chính trị
Bạn nói bất
cứ cái gì, là bèn có cái gọi là phản biện.
Bất cứ cái gì
bạn không nói, thì nó nói cho chính nó
Thành thử tránh
trời không khỏi nắng chính trị.
Ngay cả khi
bạn đi vô rừng
Thì bước đi
của bạn cũng chính trị
Trên nền đất
chính trị
Thơ không chính
trị thì cũng chính trị
Và trên đầu
chúng ta trăng chiếu sáng
Thì cũng không
còn là trăng trinh nguyên
Hiện hữu hay
không hiện hữu, đó là vấn đề.
Và mặc dù nó
làm cho bạn ăn không ngon, nuốt không vô
Thì nó vẫn là
1 câu hỏi, “vũ như cẩn”, về chính trị.
Để có 1 cái ý
nghĩa chính trị
Bạn đếch cần
phải là một con người.
Nguyên liệu
thô, đủ rồi
Hay tí chất
đạm, tí dầu nguyên
Hay một cái
bàn hội họp mà hình dáng của nó
cũng làm mất mẹ nó bao nhiêu ngày tháng:
Liệu chúng
ta bàn tại Paris,
Về sự sống và
cái chết của xứ Mít,
Trên cái bàn
vuông, hay là tròn?
Trong khi đó
con người cứ thế mà tàn lụi dần
Loài vật chết
Nhà cháy
Ruộng bỏ
hoang
Y hệt như những
thời kỳ xa xưa,
Hết ai còn
nhớ
Ít chính trị
hơn, so với bây giờ.
New poetry
Life in the
shadow
Audacity and
elegy
May 12th
2011 | from the print edition
Six
Children. By Mark Ford. Faber and Faber; 61 pages; £9.99. Buy
from Amazon.co.uk
The City
with Horns. By Tamar Yoseloff. Salt Publishing; 80 pages; £9.99.
Buy from
Amazon.co.uk
WALT WHITMAN
casts a long shadow over modern poetry. His work, delighting in slang,
cityscapes and the exuberance of being in the middle of a crowd,
created a
peculiarly American form of epic verse, with long lines
stretching—seemingly
endlessly—across the page. But, just as the iconic image of him in a
wide-brimmed hat and open shirt can appear ridiculously romantic now,
so too
has his work been successively embraced and ignored by modern writers.
And so when
a British poet and academic, Mark Ford, takes Whitman’s claim that
“though
unmarried I have had six children” as the starting point for this third
collection of poetry, he demonstrates a literary awareness that may not
immediately appeal to every reader. Indeed, in “Six Children” Mr Ford,
a
lecturer at University College London, seems intensely preoccupied not
only
with the grandfather of American verse, but also with the Mau Mau
insurrection
and the Münster Anabaptists. Such a wide scope is impressive, and Mr
Ford’s
enthusiasm for more obscure factual details, such as the decline of the
passenger pigeon, shines through. However, when a succession of his
poems turn
out to be adaptations or loose translations of Petronius, Sappho, Pliny
the
Elder and Boethius, you may find yourself hankering after an original
voice—even one as extravagant as Whitman’s.
There are
certain exceptions to this rule. Born in Kenya in 1962, Mr Ford writes
deftly
about moving to the London suburb of Surbiton, where the only reminder
of his
past home was “Red, African dust spilled from the wheels of our toy
trucks and
cars.” His elegy for a fellow poet, Mick Imlah, shows a directness and
clarity
that is not always felt in his allusive poetry. These momentary
glimpses into
Mr Ford’s life are tantalising, edging towards a striking poetic style.
And yet
when Mr Ford describes how “we hate/to be touched, however/gently, in a
slow-moving crowd” we may not think only of the urban claustrophobia he
speaks
of but also of the experience of reading his poetry, peopled as it is
with
other poets, only some of whom it is pleasing to come into contact with.
It is a
sensation that Tamar Yoseloff, American-born and now living in London,
also
writes of in her fifth collection, “The City with Horns”. Ms Yoseloff
describes
how in a London bus “we are too intimate in this folded space”, the
edge-to-edge contact with a stranger’s body momentarily disquieting.
Like Mr
Ford, Ms Yoseloff prefers the company of ghosts, taking the life of
Jackson
Pollock as the core of her book.
Over the
course of 13 poems, Ms Yoseloff traces Pollock’s explosive marriage to
Lee
Krasner, his death in a car crash aged 44, and the life of his
mistress, Ruth
Kligman, who survived the crash to be nicknamed “Death car girl”. Ms
Yoseloff
skilfully gives voice to such figures through subtle shifts of tone,
revelling
in a particular kind of American slang.
Using
such a
well-known life is an audacious move, and Ms Yoseloff rises to the
challenge.
But the rest of the poems in her collection fail to live up to this
drama, too
often relying, like Mr Ford, on literary precedent. Both these
collections have
moments of joy, but their flaws make you want to turn to the writers
that
overshadow them.
THE FACEBOOK
SONNET
Welcome to
the endless high-school
Reunion. Welcome to
past friends
And lovers,
however kind or cruel.
Let's
undervalue and unmend
The present.
Why can't we pretend
Every stage
of life is the same?
Let's
exhume, resume, and extend
Childhood.
Let's all play the games
That occupy
the young. Let fame
And shame
intertwine. Let one's search
For God
become public domain.
Let church.com become our church.
Let's sign
up, sign in, and confess
Here at the
altar of loneliness.
-Sherman
Alexie
Bài
sonnet Facebook
Chào mừng bạn tới với cuộc họp
mặt
chẳng bao giờ chấm dứt
của đám
học sinh trung học.
Chào mừng bạn cũ.
Và người yêu, dù hiền lành, hay hung dữ.
Hãy vờ hiện tại.
Và nếu hiện tại có rách bươm, thì cũng đừng có vá víu,
kệ mẹ nó!
Tại sao chúng ta không
thể giả đò
Mọi sàn đời thì… vũ như cẩn?
Vẫn đoạn đời Khu Chợ Đũi
Vẫn quán cà phe hủ tíu Tầu,
Vẫn cơn mưa ngày nào?
Hãy đào nó lên, gom nó lại, rồi nối dài mãi ra
Cái gì vậy cà?
Tuổi thơ! Những ngày ở Sài Gòn!
Hãy chơi mọi trò chơi
Hãy chiếm giữ tuổi trẻ.
Hãy để danh vọng và nhục nhã quấn quít, chằng chịt, bện vào nhau.
Hãy để cuộc tìm kiếm Chúa của ai đó
trở thành Miền Công Cộng
Hãy để cái trang TV [church.com] của anh cu Gấu,
Thành nhà thờ của chúng ta!
Hãy đăng nhập, đăng nhập, và thú nhận, hay xưng tội
Ở đây, ở TV, cái bàn thờ của sự cô đơn, mình ên này.
TURNING
Going too
fast for myself I missed
more than I
think I can remember
almost
everything it seems sometimes
and yet
there are chances that come back
that I did
not notice when they stood
where I
could have reached out and touched them
this morning
the black shepherd dog
still young
looking up and saying
Are you
ready this time
-W. S.
Merwin
THE NEW
YORKER, MAY 16, 2011
Đi quá nhanh với chính mình,
đôi lúc có vẻ như tôi thấy
mình mất mát hầu như tất cả mọi chuyện
Tuy nhiên vưỡn có những cơ may
Mà tôi không để ý
Khi chúng đứng đâu đó, tôi có thể với tới, hay sờ được,
Và nhắm mắt, mân mê tưởng tượng
Thí dụ như sáng nay,
Con chó chăn cừu
Một con chó đen,
Còn trẻ măng
Ngước mắt nhìn tôi,
Và phán:
Cửa đã mở, (1)
Mi đã sẵn sàng chưa?
(1)
Hãy mở giùm
tôi cánh cửa này, tôi đập, và khóc
ròng.
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant.
Thơ
Apollinaire
Pasternak à
Peredelkino en 1946
TO THE
MEMORY OF A POET
Like a bird,
echo will answer me.
B.P. (Boris
Pasternak)
1.
That
singular voice has stopped: silence is complete,
And the one
who spoke with forests has left us behind.
He turned
himself into a life-giving stalk of wheat
Or the fine
rain his songs can call to mind.
And all the
flowers that hold this world in debt
Have come
into bloom, come forward to meet this death.
But
everything stood still on the planet
Which bears
the unassuming name. . . the Earth.
2.
Like the
daughter of Oedipus the blind,
Toward death
the Muse was leading the seer.
And one
linden tree, out of its mind,
Was blooming
that mournful May, near
The window
where he told me one time
That before
him rose a golden hill,
With a
winged road that he would climb,
Protected by
the highest will.
1960
Akhmatova
Boris
Pasternak: 1890-1960, renowned Russian poet and novelist.
1 er juin.
[1960]. Un discret entrefilet publié par le Fonds littéraire,
l'organisation de secours
mutuel des écrivains, annonce la mort de Pasternak dans Literatoum
i Jizn et Literatournaia
Gazeta, sans préciser l'heure, le jour et le lieu des obsèques.
Mais dans
les wagons de banlieue, à proximité des guichets de gares, apparaissent
des
affichettes les annonçant.
2 juin.
Pasternak est inhumé au cimetière de Peredelkino, en présence d'une
foule
nombreuse malgré l'absence de toute annonce officielle. Deux jeunes
hommes
portent son cercueil: Andreï Siniavski et Jouli Daniel. Le philosophe
Valentin
Asmus, vieil ami de Pasternak, prononce un éloge. Des étudiants
récitent les poèmes
de Pasternak sous la surveillance de la police politique.
4 juin. Un
dignitaire du KGB tente de s'emparer du manuscrit de la dernière œuvre
de
Pasternak: La Belle Aveugle.
Olga
Ivinskaïa réussit à l'en empêcher.
11 juin. De
l'hôpital Botkine, Anna Akhmatova écrit à la mémoire de Pasternak:
Oedipe
aveuglé guidé par sa fille,
La muse l'a
conduit jusqu'à sa mort.
Un tilleul
fou, auprès de ma fenêtre
A fleuri
seul en ce mai de douleur,
Juste à
l'endroit où il m'avait confié
Qu'il voyait
serpenter devant ses yeux
Un sentier
d'or aux ailes déployées
Où le
gardait la volonté des cieux
Traduction
Michel Aucouturier. Revue des Belles-Lettres, mars 1996.
Pasternak, ed
Quarto Gallimard
ZHIVAGO'S
POEMS
HAMLET
The noise is
stilled. I come out on the stage.
Leaning
against the door-post
I try to
guess from the distant echo
What is to
happen in my lifetime.
The darkness
of night is aimed at me
Along the sights
of a thousand opera-glasses.
Abba.
Father, if it be possible,
Let this cup
pass from me.
I love your
stubborn purpose,
I consent to
play my part.
But now a different
drama is being acted
For this
once let me be.
Yet the
order of the acts is planned
And the end
of the way inescapable.
I am alone:
all drowns in the Pharisee’s hypocrisy.
To live your
life is not as simple as to cross a field (1).
(1) The last line
is a Russian proverb
HAMLET
Tout se
tait. Je suis monté sur scène,
Et j'écoute,
adossé au montant
De la porte,
la rumeur lointaine
Qui
m'annonce tout ce qui m'attend.
Et je suis
la cible des ténèbres
Cent
jumelles sont braquées sur moi.
S'il se peut
encore, Abba mon père,
Cette coupe,
écarte-la de moi!
Ton dessein
têtu, pourtant je l'aime,
Et ce rôle,
je le prends en gré.
Mais un
autre drame est sur la scène:
Donne-moi
pour cette fois congé.
Mais on a
pesé l'ordre des actes,
Rien ne peut
changer le dénouement.
Je suis
seul. Les pharisiens sont maîtres.
Vivre, ce
n'est pas franchir un champ.
FOREVER
Drifting
outside in a pall of smoke,
I follow a
snail's streaked path down
the garden to the garden's stone wall.
Alone at last
I squat on my heels, see
what needs
to be done, and suddenly
affix myself to the damp stone.
I begin to
look around me slowly
and listen, employing
my entire
body as the snail
employs its body, relaxed, but alert.
Amazing! Tonight is a
milestone
in my life.
After tonight
how can I
ever go back to that
other life? I keep my eyes
on the stars,
wave to them
with my feelers. I hold on
for hours,
just resting.
Still later,
grief begins to settle
around my heart in tiny drops.
I remember my father is
dead,
and I am
going away from this
town soon. Forever.
Goodbye,
son, my father says.
Toward morning, I climb down
and wander
back into the house.
They are still waiting,
fright
splashed on their faces,
as they meet
my new eyes for the first time.
À TOUT
JAMAIS
Je sors
enveloppé d'une fumée épaisse
et je suis
la piste brillante d'un escargot
jusqu'au petit muret qui borne le jardin.
Enfin seul,
je m'accroupis sur les talons, comprends
ce qu'il
faut faire, et me colle soudain
contre la
pierre humide.
Je me mets à
regarder lentement autour de moi
et à écouter, utilisant
tout mon
corps comme l'escargot
utilise le
sien, calme, mais attentif.
Sidérant! C'est une nuit à marquer
d'une pierre
blanche. Après cette nuit
comment
pourrai-je jamais reprendre cette
autre vie? Sans quitter les étoiles
des yeux, je
leur fais signe
avec mes
cornes. Je reste là
des heures,
me reposant, simplement.
Plus tard encore, la peine se dépose
en gouttes
minuscules autour de mon cœur.
Je me souviens que mon père est mort,
et que je
vais bientôt m'en aller de
cette ville. A tout jamais.
Adieu, fils,
dit mon père.
Vers le
matin, je redescends
et je
retourne nonchalamment dans la maison.
Ils attendent encore,
le visage
barbouillé de peur,
quand leurs
yeux pour la première fois rencontrent
[mes yeux
neufs.
Raymond
Carver: Les
Feux
[Lửa]
Mãi
mãi
Chuồn ra bên ngoài, ẩn thân sau
lớp khói dầy,
Tôi đi theo vết đi sáng ngời của một ốc sên
Tới bức tường đá ở cuối vườn
Một mình, sau cùng, ngồi chồm hỗm, tôi biết,
sẽ phải làm gì, và bất giác
dán lưng vào bức tường đá ẩm,
Tôi chầm chậm nhìn quanh, lắng nghe, buông xả toàn thân,
như con ốc
sên buông xả thân hình của nó, nhưng trong thế báo động.
Quái đản thật! Đêm nay làm đêm dấu ấn
của cuộc đời của tôi. Sau đêm nay,
làm sao tôi có thể trở lại
cái đời khác kia? Không rời mắt khỏi những vì sao, tôi vẫy vẫy chúng
bằng những khoé
mắt. Tôi cứ thế
nghỉ ngơi, hàng giờ đồng hồ.
Dần dà, sau đó, nỗi đau bắt đầu đọng
thành giọt nhỏ quanh trái tim của tôi.
Tôi nhớ cha tôi đã chết,
và tôi chẳng mấy chốc sẽ rời
thành phố này. Mãi
mãi.
Giã biệt, con tôi, cha tôi nói.
Gần sáng, tôi trèo xuống,
và lang bang
trở về nhà.
Họ vẫn đợi, mặt mày ai nấy đều tỏ ra sợ hãi
Khi họ nhìn thấy cặp mắt mới của tôi lần đầu tiên.
NGUYỄN LƯƠNG
VỴ
CHUYỆN VÃN
Gửi NQT
Có những bài
thơ viết muộn
Vì không thể
viết sớm hơn
Ngặt nỗi
thương thầm gió ruộng
Vẫn còn vuốt
mắt sương thôn
Vì đâu núi
xương sông máu?!
Cơ tâm bặt
tiếng lâu rồi
Cơ trí gầm gừ
cơ khí
Ba trăm
năm…? Hỏi mà chơi!
Hỏi ông trời
- Ổng cắc cớ
Hỏi Như Lai
- Ngài mím chi
Hỏi Giê-Su -
Cây thập giá
Thi sĩ! Cứ mần
thơ đi
Thật sự là
thơ đã ngủm
Nên mần thơ
là đám ma
Đám ma đám
người một bụm
Đứng trông
thiên cổ khóc òa…
2/2005
NLV
Simic:
The Invisible
Trong vương quốc của những
người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu
đâu...
2
Don't the shadows know
something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.
Just
today I was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.
Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?
Charles
Simic
Liệu những bóng đen biết gì về
nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta
Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ
chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà Gấu
tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu
gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?
Search
I returned
to the town where
I was a
child
and a
teenager and an old man of thirty.
The town
greeted me indifferently
but the
streets' loudspeakers whispered:
don't you
see the fire is still burning, don't you hear the flame's roar?
Get out.
Find another
place.
Search for
it.
Search for
your true homeland.
Adam
Zagajewski”: Mysticism for Beginners
Tìm
Gấu trở về Hà
Lội
Nơi Gấu còn
là 1 chú nhóc tì
Và một thằng
bé mới lớn, và một anh già 30 tuổi.
Thành phố đón
Gấu lạnh nhạt
Nhưng mấy cái
loa ở đầu đường thì thầm:
Mi không thấy
lửa vưỡn còn cháy,
Mi không thấy
ngọn lửa còn reo?
Đi chỗ khác
chơi, thằng vừa lùn, vừa lé, và ngu!
Tìm một chỗ
khác
Tìm một quê
khác Gấu ơi là Gấu!
Ui chao, hồi này già quá, cơ
thể rệu rạo,
hệ thống miễn nhiễm hết còn OK,
thành thử con vai rớt Bắc Kít hoành hành, đáng sợ thực! (1)
NQT
(1)
Xạo!
Một độc giả TV
Những con phố sau của Hà Nội
Nhà trại thui thủi, chẳng cần
Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.
Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn
nạn cái thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.
Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài
kiếm một cái gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.
Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu
Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh
thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”
Nhà trại
thui thủi, chẳng cần Gấu, cũng thui
thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.
READING
MILOSZ
I read your
poetry once more,
poems
written by a rich man, understanding all,
and by a
pauper, homeless, an emigrant, alone.
You always
want to say more
than we can,
to transcend poetry, take flight,
but also to
descend, to penetrate the place
where our
timid, modest realm begins.
Your voice
at times persuades us,
if only for
a moment,
that every
day is holy
and that
poetry, how to put it, rounds our life,
completes
it, makes it proud
and unafraid
of perfect form
I lay the
book aside
at night and
only then the city's normal tumult starts again,
somebody
coughs or cries, somebody curses.
-Adam
Zagajewski (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
The New York
Review, 1 March, 2007.
Đọc Milosz
Tôi đọc thơ
ông, thêm một lần nữa,
những bài
thơ viết bởi một người giầu có, thông tuệ,
và bởi một người
nghèo mạt hạng, không nhà cửa, di dân, cô độc.
Ông luôn muốn
nói nhiều hơn
chúng tôi có
thể nói,
để chuyển
hóa thơ, để cất cánh,
nhưng cũng để
hạ cánh, dấn sâu vào khoảng đất
nơi cõi đời
của chúng ta, dụt dè, chơn chất, bắt đầu.
Tiếng nói của
ông, nhiều lần, chỉ trong một khoảnh khắc,
khiến chúng
tôi ngộ ra một điều là,
mỗi ngày, một
ngày, mọi ngày, thì thiêng liêng.
và rằng,
thơ, thể hiện điều đó, bằng cách,
quanh quẩn bên đời ta,
hoàn tất nó,
làm cho nó tự hào, hãnh diện,
và, đâu cần
một dạng hoàn hảo nào, cho thơ.
Tôi để cuốn
sách qua một bên.
Đêm, và chỉ
tới lúc đó, cái xô bồ, thường lệ, của thành phố lại khởi động,
một người
nào đó ho, hay la, một người nào đó, nguyền rủa.
nqt chuyển dịch
Nguyên tác
tiếng Ba Lan Clare Cavanagh dịch qua tiếng Anh.
Coetzee nói
về Brodsky: Ông chẳng hề loay hoay hì hục
làm cho mình được yêu, thí dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova
cho rằng,
người Nga tìm chẳng thấy, ở trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha
thứ tất cả", "sướt mướt", "nức nở con tim", hay sự
"vui tươi, nhí nhảnh". Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước,
rất ư là không giống Nga, very un-Russian, vốn trở thành thói quen
trong thơ
Brodsky. Ông trau giồi hài hước, Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những
ý nghĩ,
tư tưởng, hay hoàn cảnh mà ông cảm thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi
phải
phơi lòng mình ra, hay có thể, chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".
*
Thực sự, trước
1975, TTT không phải là một nhà thơ được nhiều người yêu mến.
Chính vì vậy,
sự bàng hoàng, cơn chấn động ở hải ngoại, khi nghe tin ông mất, chỉ có
thể giải
thích: Chính sự tiết tháo, cương trực, không khoan nhượng với cả chính
mình
không kiếm cách làm cho mình được yêu mến... hay ngắn gọn, chính cái sự
quá sạch
của ông, lại trở thành niềm tin cho tất cả mọi người!
Và như thế,
ông lại giống... Solzhenitsyn, ông này
suốt một đời khổ hạnh, làm việc như trâu, không cho mình bất cứ một cơ
hội nào
bị sa ngã, bị dụ dỗ... bởi cái ác.
Solz cho rằng,
chỉ có cách đó, để không bao giờ phản bội những người bạn tù của ông.
*
Về câu hỏi,
tại sao đầy tù cải tạo lên phía Bắc, đã có một lần Gấu đưa ra một câu
trả lời,
khi đọc một số Granta.
Nay có câu
trả lời đơn giản hơn của Shalamov:
Nature
simplifies itself as it heads toward the poles (and we head north now
because
so many scores of thousands were doing so, as Stalin's rule developed,
and as
the camps crazily multiplied). Nature simplifies itself, and so does
human
discourse.
Thiên nhiên
tự giản tiện chính nó khi hướng về phía cực, (và chúng tôi, bây giờ
hướng bắc, ấy
là vì hàng hàng lớp lớp đã đang làm như thế, khi chế độ Stalin phát
triển, khi
nhà tù cứ khùng điên nở rộ, tăng trưởng lên mãi). Thiên nhiên tự giản
tiện, và
cũng vậy, cách ăn nói của con người cứ thế co lại.
Kolyma Tales [Chuyện trại tù
Kolyma]
Varlam
Chalamov
L'ancien Zek
rend visite à Pasternak dès sa sortie du Goulag en 1953.
"La porte
s'ouvrit aussitôt, Pasternak était sur le seuil. Des cheveux gris, un
teint
mat, de grands yeux brillants, une mâchoire lourde, des mouvements vifs
et
harmonieux. Un petit vestibule, un porte-manteau, à droite la porte de
son
cabinet de travail, et au fond, une pièce avec un piano jonché de
pommes, un
profond divan contre le mur, des chaises. Aux murs, des aquarelles de
son père.”
*
Coetzee
nói về Brodsky: Ông chẳng hề loay hoay hì hục làm cho mình được
yêu, thí
dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova cho rằng, người Nga tìm chẳng
thấy, ở
trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha thứ tất cả", "sướt
mướt", "nức nở con tim", hay sự "vui tươi, nhí nhảnh".
Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước, rất ư là không giống
Nga, very
un-Russian, vốn trở thành thói quen trong thơ Brodsky. Ông trau giồi
hài hước,
Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những ý nghĩ, tư tưởng, hay hoàn cảnh
mà ông cảm
thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi phải phơi lòng mình ra, hay có
thể,
chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".
Ui
chao, liệu có thể bệ cả đoạn trên sang bài tưởng niệm ông anh nhà thơ?
Why
not?
5 năm rồi
không gặp...
5 năm rồi
TTT đã ra đi, nhưng hẳn là ai cũng còn nhớ, khi ông sắp đi, ra lệnh cho
vợ con, đừng làm phiền bè bạn, đừng thông báo thông biếc, sống ta đã
chẳng làm cho họ vui, cớ sao ta chết, lại làm cho họ buồn?
Gấu
phải mãi sau này, mới hiểu ra tại làm sao mà Milosz thèm được cái số
phận bảnh
tỏng của Brodsky: được lọc ra giữa những thi sĩ của thời đại của ông,
của thành
phố của ông, để nhân dân ban cho cái án cải tạo, rồi được Đảng tha cho
về, được
Đảng bắt phải lưu vong, và sau đó, khăn đóng áo dài bước lên Đài cao
nhận
Nobel. Trong khi cái số phần của Milosz, chính là cái mà ông miêu tả
trong bài
viết Rửa, To Wash, 1 thi sĩ bửn của thời
đại của ông.
To Wash
At
the end of his life, a poet thinks: I have plunged into so many
of the obsessions and stupid ideas of my epoch! It would be necessary
to put me in a bathtub and scrub me still all that dirt was washed
away. And yet only because of that dirt could I be a poet of the
twentieth century, and perhaps the Good Lord wanted it, so that I was
of use to Him.
Một nhà thơ của thế kỷ 20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá, bèn
chui vô bồn tắm, dùng xà bông thơm kỳ cọ, cho văng tất cả những cái bẩn
đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết, và ông ngộ ra, số phận của ông là như
vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế đã không giao cho ông ta "nghĩa cả"
đó, và nhân loại cũng đếch cần đến ông ta.
Gấu tin là
trong bài thơ tự trào về mình, TTT cho biết, chưa từng bắn một phát
súng, bảo là tự hào, thì thật nhảm (1): thi sĩ cũng muốn có tí bùn dơ ở
trên
người, và sau 30 Tháng Tư, phải cám ơn VC đã cho ông đi tù, cùng bạn
bè,“cùng hội
cùng thuyền”, nhờ cú đi tù mà lại làm được thơ, như những ngày đầu đời,
“nụ hôn
đầu Ga Hàng Cỏ”, bẽn la bẽn lẽn giấu các bạn tù!
(1) Một chủ
nhật khác, một cách nào đó, là một bản văn giải thích hành động
không rút súng bắn
VC một lần nào!
Nên nhớ, TTT
đã từng nhập thân vào bạn của ông, là anh chàng sĩ quan VNCH, Đạo, anh
này đã từng
nằm suốt đêm ở bên ngoài, chờ cho tên VC nằm vùng, một “serial killer”,
chuyên
xử tử những tên Ngụy trong vùng, đêm đó lén về nhà, hú hí với vợ con,
sáng trở
về rừng, mới ra lệnh cho lính dưới quyền nổ súng!
TTT có mấy cuốn tiểu
thuyết viết bỏ dở, chưa kể Ung Thư,
hoàn tất nhưng
không cho xb. Trong mấy cuốn đó, cuốn nào cũng thật là tuyệt, ở những
đoạn mở.
Uổng
thật!
Tiếc quá!
Giấu mặt, viết về 1 em mới nhơn
nhớn, khung cảnh Đà Lạt.
Truyện anh chàng sĩ quan VCNH tên Đạo.
Một cú tự thuật, TTT vô
Quang Trung, giữa đám con nít mới lớn,
chúng gọi
ông là Cụ, hay Bố gì đó.
Còn ông, qua
nhân vật kể chuyện, xưng là Ông Già.
Nhân nói chuyện... Bố: Cả
trại tù Đỗ Hòa, đám học viên, không
chỉ Đội Ba,
mà Gấu là Y Tế Đội, đều gọi Gấu là Bố!
Bà Cụ Gấu tự
hào lắm, vì “chi tiết là Thượng Đế” thần sầu này!
Thủ Thiêm
Gấu có những
kỷ niệm khủng khiếp về cái đói, khi còn là 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít.
Có những
kỷ niệm, là của ông bố của Gấu. Thí dụ cái chuyện bà nội của Gấu, chồng
chết sớm,
nuôi đàn con, có nồi thịt, bắt con ăn dè ăn xẻn thế nào không biết, nồi
thịt biến
thành nồi ròi.
Vô Nam, phải
đến sau 30 Tháng Tư, Gấu mới được tái ngộ với cái đói, những ngày đi tù
VC.
Thê lương nhất, và cũng
tiếu lâm nhất, có lẽ là lần Gấu Cái đi thăm nuôi, lần đầu,
sau mấy tháng mất tiêu mọi liên lạc với gia đình.
Cái tật viết
tí tí, không bao giờ dám viết ra hết, kỷ niệm, hồi nhớ, tình cảm… nhất
là thứ kỷ
niệm tuyệt vời, nhức nhối.... là do cái đói gây nên!
Nhân
Gió-O 10
năm
Sư Tử Hà
Đông
Charles Simic đọc Vợ Hổ, Tiger's Wife:
The Weird Beauty of
the Well-Told Tale
Cái đẹp thật
là kỳ cục của một câu chuyện được kể thật là ngon lành
Bữa trước
Blogger HH có vẻ ngạc nhiên, vì cái sự ghét đọc những bài điểm sách của
GNV. Sự
thực, Gấu chỉ ghét cái kiểu đọc sách của Mít ta, ở cả hai phía, người
điểm sách,
và độc giả, thường chỉ cần đọc bài điểm, là kể như biết về cuốn sách,
tha hồ
vung vít, nếu có ai hỏi tới, hoặc cũng chẳng cần có ai hỏi tới, thì
cũng giơ đôi
giầy mới lên khoe, tớ mới tậu nè. Ngưồi điểm sách Mít thường là không
học qua cái
nghề này, viết tuỳ hứng, hoặc tuỳ tác giả có phải phe ta hay không. Cả
1 dòng văn
học Miền Trung, trong thời kỳ chiến tranh, ở một số tác giả làng nhàng,
được in
ấn lại, chỉ dành cho những độc giả mê đoc sách, và được những nhà phê
bình phe ta đưa lên tận mây xanh!
Mớ sách quí
đó, phải được đọc đúng, hiểu đúng, về chúng, về những tác giả
viết ra
chúng, không thể viết “khơi khơi” như thế được.
Hình như HH có 1 bài
viết về Lê
Văn Thiện, được lắm, theo cái nghĩa, lần đầu đọc nó, và ở cách xa cuộc
chiến...
Để check lại, rồi viết tiếp. NQT
Chúng ta chưa
có thói quen đọc những bài điểm sách đúng đắn, nghiêm túc, về một tác
giả.
G rất mê đọc
sách, để kiếm sách đọc!
Nhờ những bài điểm sách
trên Partisan
Review, thời mới
ra được hải ngoại mà G khám phá ra cái mỏ Đông Âu, và biết ơn tờ báo,
đúng cái
kiểu biết ơn mà Âu châu đang bày tỏ, trước một tác giả như Kundera, thí
dụ, qua
bài viết trên blog của tay PA [không phải Phan An, hay Phan Anh, nhe!]
Ce
que l’Europe centrale
doit à Kundera
(1) Bài trên
tờ Books, về K, đọc thú
hơn. NQT
Bài viết của
tay này chôm hình từ bài viết của Gấu, chôm từ một số báo Granta, có
bài
viết Cuộc Trở Về Vĩ Đại, của K.
Chàng về Hà
Nội [Prague], khóc ròng khi thấy dấu vết của tụi thực dân trên thân thể
1 em
Bắc
Kít, qua biểu tượng của nó là... Hà Lội!
Thằng khốn
kiếp để lại hai cú thật là nặng nề trên thân thể em!
Súng
lớn mà!
Dzui thôi
mà!
1968: Bạn tưởng tượng, con phố Lê Lợi, Mậu Thân, và
Cao Bồi, PXA,
bạn GNV, đứng trên terrace, phía bên dưới là tổng hành dinh của Tướng
Givral,
coi đồng hồ, ra lệnh Tổng Tấn Công!
Hơn 240.000
dân Thanh Hóa thiếu đói
Mấy anh Tẩy
mũi tẹt bợ đít VC này quả là giỏi tiếng Việt!
Thiếu đói, nghĩa là... dư no?
Quả là bợ
đít thực, cái tít là của tờ Tuổi Trẻ.
Đói đã sợ rồi, bây giờ lại sợ thiếu đói nữa, làm sao sống?
Notes About Brodsky
Milosz
Trong một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính
ông, cũng
là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với
dòng
sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống
người, khám
phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê
cung, chúng
ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân
biệt dựa
trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm
đồ ăn, [ui
chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng
hoại thoái
hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là
khoảnh khoắc
thần tiên còn hoài hoài
Bài viết Sự
quan trọng của Simone Weil cũng quá
tuyệt.
Bài nào đọc
cũng tuyệt, khiến Gấu tự hỏi, tại làm sao cũng CS, mà ở đó lại có những
bậc như
Brodsky, như Milosz, thí dụ.
Bắc Kít, chỉ
có thứ nhà văn nhà thơ viết dưới ánh sáng của Đảng!
Cái vụ Tố Hữu
khóc Stalin thảm thiết, phải mãi gần đây Gấu mới giải ra được, sau khi
đọc một
số bài viết của những Hoàng Cầm, Trần Dần, những tự thú, tự kiểm, sổ
ghi sổ ghiếc, hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh... Sự hèn nhát của sĩ phu Bắc Hà,
không phải là trước Đảng, mà là trước cá
nhân Tố
Hữu. Cả xứ Bắc Kít bao nhiêu đời Tổng Bí Thư không có một tay nào như
xứng với
Xì Ta Lin. Mà, Xì, như chúng ta biết, suốt đời mê văn chương, nhưng
không có
tài, tài văn cũng không, mà tài phê bình như Thầy Cuốc, lại càng không,
nên
đành đóng vai ngự sử văn đàn, ban phán giải thưởng, ra ơn mưa móc đối
với đám
nhà văn, nhà thơ. Ngay cả cái sự thù ghét của ông, đối với những thiên
tài văn
học Nga như Osip Mandelstam, Anna Akhmatova… bây giờ Gấu cũng giải ra
được, chỉ
là vì những người này dám đối đầu với Stalin, không hề chịu khuất phục,
hay "vấp ngã"!
Gấu tin là,
Tố Hữu tự coi ông như là Xì của xứ Bắc Kít. Ông còn bảnh hơn cả Xì, vì
là một
thi sĩ thứ thực, nếu chúng ta đọc dòng thơ cách mạng hồi ông còn trẻ.
Tất cả
các văn nghệ sĩ Bắc Kít sở dĩ sợ Tố Hữu đến như thế, chính là vì với
họ, Tố Hữu
là…. Xì Ta Lin mũi tẹt, Bắc Kít!
ON PASTERNAK
SOBERLY
Boris
Pasternak
Pasternak's
poems are like the flash of a strobe light-for an instant they reveal a
corner
of the universe not visible to the naked eye. I fell in love with these
poems
as a child. They were magical, fragments of the natural world captured
in words
that I did not always understand. Pasternak was my father's favorite
poet. In
the evenings he often recited his poems aloud, as did Marina
Tsvetayeva, a
friend of the family who often came to our house in those years before
the war.
Long
afterwards, George Plimpton and Harold Humes brought the live Pasternak
into my
life. A year or so after the resounding success of Doctor Zhivago, when
the
dust had begun to settle on the scandal of his being forced to give up
the
Nobel Prize, they sent me on a mission to Moscow to interview the poet
for The
Paris Review.
I'll never
forget that sunny day at Peredelkino in the winter of 1959-1960, a few
months
before Pasternak died. The sparkling snow, the fir trees, the half torn
note
pinned to the door on the veranda at the side of the house: "I am
working
now. I cannot receive anybody. Please go away." On an impulse, thinking
of
the small gifts I was bringing the poet from admirers in the West, I
did knock.
The door opened.
Pasternak
stood there, wearing an astrakhan hat. When I introduced myself he
welcomed me
cordially as my father's daughter- they had met in Berlin in the
twenties.
Pasternak's intonations were those of his poems. In an instant the
warm,
slightly nasal singsong voice assured me that my parents' country still
existed
and that it had a future as real as that sunny day. Today, no matter
how harsh
life in Russia is, that flash of feeling is proven true. Russia has
survived,
and the natural world around us which Pasternak celebrated is as
wondrous as
ever.
- Olga
Carlisle
16-17 mai
[1933]. Ossip Mandelstam est arrêté dans la nuit pour avoir écrit en
novembre
1933 un
poème sur Staline: «Ses doigts épais sont gras comme des asticots / Et
ses mots
tombent comme des poids de cent kilos. / Il rit dans sa moustache
énorme de
cafard, / Et ses bottes luisent, accrochant le regard. / [ ... ] Et
chaque
exécution est un régal, / Dont se pourlèche l'Ossète au large
poitrail."
Il avait lu son poème à Pasternak dans la rue au début de l'année.
Mandelstam
est envoyé en relégation à Voronej. Il pourra regagner Moscou le 16 mai
1937.
Nadejda
Mandelstam racontera: Il [Pasternak] vint chez nous avec Akhmatova et
me
demanda où il fallait s'adresser. Je lui conseillai d'aller chez
Nikolaï
Ivanovitch Boukharine - car je savais déjà ce qu'il pensait de
l'arrestation de
Mandelstam - et chez Demian Biedny. [ ]
Boris
Leonidovitch lui [Biedny] téléphona le jour-même .
- "Ni
vous ni moi ne devons nous mêler de cette affaire ... ", dit-il à
Pasternak ... "
22 mai.
Pasternak est admis à l'Union des écrivains. Juin. Pasternak reçoit un
appel
téléphonique de Staline qui lui annonce que l'affaire Mandelstam est en
cours
de révision ... Nadejda Mandelstam, dans ses Mémoires,
raconte que Staline reprocha à Pasternak de ne pas s'être
adressé à lui, puis demanda si Mandelstam était « un maître".
«Pasternak
répondit: "Là n'est pas la question". - "Mais quelle est la
question?" demanda Staline.
Pasternak
répondit qu'il aimerait rencontrer Staline pour parler. "Parler de
quoi?" - "De la vie et de la mort", répondit Pasternak. Staline
raccrocha.»
Plus de
vingt ans plus tard, Anna Akhmatova précisera que cette conversation
téléphonique «a suscité une multitude de légendes. Une minable Triolet,
même,
eut l'audace d'écrire (au moment où Pasternak était attaqué évidemment)
que
Boris avait causé la perte d'Ossip Mandelstam. Nadia et moi considérons
que
Pasternak s'est conduit honorahlement».
Pasternak,
ed Quarto, Galliamard
Trong The
Noise of Time, Tiếng động của thời gian, lời giới thiệu, có một
giai thoại thật
thú vị liên quan tới Pasternak, vụ bắt nhà thơ Osip Mandelstam và một
cú phôn của
Bác Xì, từ Điện Cẩm Linh.
Liền sau khi
Osip bị bắt, nhà thơ được Stalin đích thân hỏi tội. Đây là một đặc ân
chưa từng
một nhà thơ nào được hưởng, do quyền uy của nhà thơ [perhaps the
profoundest
tribute ever paid by the Soviet regime to the power of Mandelstam’s
pen]. Do
chính Boris Parternak kể lại.
Một bữa bà vợ
Mandelstam đến gặp ông năn nỉ xin can thiệp để Osip được thả. Đó là lần
đầu
tiên ông biết Osip bị bắt. Cả hai không hề là bạn thân. [Ngay cả về
thơ, thì
hai ông cũng đếch chịu nhau, theo như Pasternak nhận xét, thơ Osip từ
trong
sáng qua hũ nút, còn Pasternak, từ rắc rối qua giản dị]. Tuy nhiên, do
bà vợ M.
năn nỉ quá, P. hứa sẽ làm hết sức mình. Đúng vào thời gian đó, có một
ông to lắm
ở trong BCT lăn cổ ra chết, và theo đúng nghi thức, xác của ông ta phải
chường
ra tại Nhà Hội [the Columned Hall of the House of Unions], cho những
quan Xô Viết
đến thăm lần chót. P. đến, và nhận thấy trong đám này có Bukharin, và
bèn tới
năn nỉ giùm bà vợ Osip. B. nói, khó đấy, nhưng sẽ cố. Vài đêm sau đó,
một đêm,
trong bữa tụ tập tại nhà P. giữa đám Bọ L., Bọ
PXN… [?], thì điện thoại reo. Giọng người bên đầu
kia hỏi, có đồng
chí Pạt tẹc nặc đó không; đồng chí Xì muốn nói chuyện, từ điện Cảm
Linh. Một
lát sau, có giọng nhừa nhựa nghe ra dân Georgian:
-Phải Pạt đó
không? Đây là Xì ta lìn.
-Good
Evening, Comrade Stalin. By the way, this is not a leg-pull, is it?
[Này đừng
có bịp tụi này nhé]
-No, no,
this is Stalin, all right.
Nghe tên
Stalin cả phòng im ắng. Pạt nói:
-Hiện trong
phòng có 26 người. và họ đều đang nghe. Có được không? [Does that make
any
difference?]
Xì nói, OK,
này, về Mandelstam, thì sao?
-Tôi muốn
làm điều gì đề giúp anh ấy.
-Anh có
nghĩ, anh ta là một nhà thơ bảnh, a very good poet?
-Đồng chí
Xì. Đồng chí cũng biết là chẳng nên hỏi một nhà thơ, anh ta nghĩ gì, về
một nhà
thơ khác. Cũng như chẳng ai hỏi một người đàn bà đẹp, về một người đàn
bà đẹp
khác.
-Đồng chí
nói như vậy, có nghĩa là, đồng chí không khoái thằng chả đó? [Then am I
to take
it you don’t think much of him?]
-Không,
không, đồng chí lầm rồi. Tôi là một nhà thơ thật khác ông ta. Chỉ có
vậy. Tôi
nghĩ, ông ta là người viết bảnh, a good writer.
-“Tốt lắm,
cám ơn”. Ngưng. “Tại sao không ghé tôi chơi?”
-Cái này thì
hơi bị kẹt. Đúng ra, ở địa vị đồng chí, thì đồng chí phải mời, thì tôi
mới dám
tới.
Xì cười lớn
và chúc Pạt một buổi tối ra trò. Ngày hôm sau Mandelstam được thả.
[Nhưng chẳng
được lâu].
*
Chói lọi mới
chẳng trói lại!
Này đừng có
bịp tụi này đấy nhé!
Source
*
Contemporary
trends conceived art as a fountain, though it is a sponge. They decided
it
should spring forth, though it should absorb and become saturated. In
their
estimation it can be decomposed into inventive procedures, though it is
made of
the organs of reception. Art should always be among the spectators and
should
look in a purer, more receptive, truer way than any spectator does; yet
in our
days art got acquainted with powder and the dressing room; it showed
itself
upon the stage as if there were in the world two arts, and one of them,
since
the other was always in reserve, could afford the luxury of self
distortion,
equal to a suicide. It shows itself off, though it should hide itself
up in the
gallery, in anonymity.
Pasternak
Milosz trích dẫn, trong bài viết về Pasternak, trên.
Đương
thời coi thơ như dòng suối. Không
phải vậy, thơ là miếng bọt biển.
Đương thời cho vọt thơ ra như vãi linh
hồn.
Đúng ra, phải thẩm thấu, hút sạch, nuốt sạch... và trở nên bão
hòa..
Bùi Giáng
(hay Nguyễn Đức Sơn ?): Em chưa vãi
mà hồn anh đã ướt, là cũng ý đó.
Người trong
chốn giang
hồ, thân không làm chủ.
Ôi chao, Gấu
lại nghe ông bạn văn VC than, tại sao anh cứ nhắc mãi đến
Lò
Thiêu?
Nó liên can
gì tới Việt Nam?
*
"Tại sao anh
cứ cay đắng mãi như thế?"
SCN
*
D. M.
Thomas, trong “Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta”, chương “Cái
chết
của một thi sĩ”, đã nhận xét, về cuốn Dr. Zhivago:
Bác sĩ Zhivago không chính trị một cách lộ
liễu, như nhiều người tại
Tây Phương hô hoán, một cuốn tiểu thuyết nhằm lên án, tố cáo... Nhưng
nhà cầm
quyền Xô Viết nhận ra, đây đúng là một kẻ thù chết người đối với chế
độ. Bất cứ
một trang là một sự chơn chất, nhiệt thành, cho một điều gì hết sức lớn
lao, thực
hơn nhiều, so với bất cứ một chế độ chính trị nào, đâu
phải chỉ
cái thứ chính quyền toàn trị, xây dựng bằng hàng triệu người chết, lao
động khổ
sai, và một thứ ngôn ngữ vô nghĩa.
[Every page asserted a fidelity to something infinitely greater and
more
truthful than any political system, let alone a creed built on
millions
of deaths, slave labor, and a dead and a meaningless language].
Giả như áp
dụng nhận định trên cho Thơ Ở Đâu Xa, những vần thơ làm ở một
nơi chốn không thể làm thơ, liệu có khiêm cưỡng chăng?
Không! Chúng còn bảnh hơn cả Dr. Zhivago, theo nghĩa, thơ
bảnh hơn
văn, càng bảnh hơn tiểu thuyết, thứ văn chương bình dân. Người ta chẳng
kể, về
một nhà văn nữ hàng đầu thế giới, vừa nhặt gạo, vừa trông ông bố nằm
bệnh, vừa
viết tiểu thuyết, khi được in ra, mấy dấu chấm trên mấy chữ i, toàn là
sạn gạo!
Nhà văn nữ Tuý Hồng chẳng đã, vừa nấu cơm, vừa [Tôi] nhìn tôi trên
vách
[bếp]?
Nên nhớ, khi
Pasternak được tin, Nobel trao cho ông vì Dr. Zhivago, ông
rất bực. Ông nghĩ ông phải được Nobel như là nhà thơ.
Pasternak mất ngày 30 Tháng Năm 1960 [sau 30 Tháng Tư một ngày!] Đám
tang của
ông là một sự kiện khác thường, và, hầu như bí ẩn: Có lẽ đây là dấu báo
đầu
tiên, chỉ cho thấy, cái nhà nước uy quyền tột bực, hiển hiện ở khắp mọi
nơi như
thế đó vậy mà không thể lấn lướt thơ ca, … simply could not overcome
poetry.
Thông báo giải
thưởng Nobel, tháng 10, 1958, tiếp theo sự ra mắt Dr. Zhivago tại Tây
Phương đã
bùng ra chiến dịch tố cáo, bôi nhọ Pasternak, bắt đầu từ tờ Sự Thật.
Tiếp theo,
Hội Nhà Văn trục xuất ông. Bí thư Thành Đoàn gọi Pasternak là một con
heo ỉa
đái vào cái máng ăn của nó. Pasternak từ chối giải thưởng, nhưng cũng
không yên
thân. Ông gần 70, sức khỏe tồi tệ, chiến dịch làm nhục làm ông hoàn
toàn suy sụp.
Người tình, Olga Ivinskaya, sợ ông bị tim quật chết, và căng hơn, có
thể tự
sát, bèn năn nỉ ông viết thư cho Khrushchev, xin cho ở lại nước Nga, vì
nếu rời
nước Nga, là chết.
Ông mất ngày
30 Tháng Năm 1960. Thông báo chính thức, nhỏ nhoi, và, cáo thị độc nhất
về đám
tang, là một bản viết tay, dán ở kế bên quầy bán vé đi Kiev Station, ở
Moscow,
từ đó đi tới Peredelkino, một 'colony' ở ngoại vi thành phố Moscow, là
nơi nhà
văn cư ngụ:
“Vào 4 giờ
chiều ngày Thứ Năm, 2 Tháng Sáu, linh cữu Boris Leonidovich Pasternak,
nhà thơ
vĩ đại nhất của Liên Xô hiện nay, sẽ được đưa về lòng đất”.
Cáo thị bị
bóc, lại dán tiếp, nhiều lần, bởi một bàn tay vô danh.
Nghi lễ
Chính Thống giáo đã được cử hành tại nhà riêng, một cách êm ả, vào buổi
chiều
hôm trước đám tang.
Sáng hôm
sau, bốn danh thủ dương cầm – Stanislav Neigauz, Andrei Volkosky, Marya
Yudia
[bà đã từng nói với Stalin, ông là một kẻ tội lỗi lớn lao, a great
sinner] và
Sviatoslav Richter đã chơi nhạc vài tiếng đồng hồ tại nhà.
Trong số những
người khiêng quan tài, có Andrei Sinyavsky và Yuli Daniel [sau bị truy
bức,
bách hại vì những bài viết chống đối, ly khai của họ], và Lev Koplev
[Solz đưa
ông này vô, làm một nhân vật trong Tầng Đầu]. Họ nhập vô một biển cả,
những
khuôn mặt rầu rĩ, tiếc thương: bạn bè, sinh viên, học sinh, công nhân,
và dân
quê. Một viên chức Hội Nhà Văn bước ra từ một chiếc limousine lớn, mầu
đen,
tính ké tí vai, khiêng quan tài nhà thơ, nhưng đám sinh viên la to, đi
chỗ khác
chơi.
Giỗ đầu
Gấu đọc Dr.
Zhivago thời mới lớn, thời gian thường
qua nhà ông anh nhà thơ, đói ăn đói cả đọc. Cùng đọc với bà cụ. Hai bà
cháu
cùng mê đọc. Và cùng mê Dr Zhivago.
Em Lara ở trong truyện đẹp hơn nhiều so với Lara khi được chuyển thể
thành phim,
nhưng bắt
buộc phải như vậy thôi.
Trên VN thư quán có cuốn
này.
on
Sister Benedicta &
Anna
Akhmatova & Simone Weil
Triết gia Đức
gốc Do Thái Simone Weil là đệ tử của Alain. Và lời phán của ông thầy
xuống đệ tử,
là suy đi nghĩ lại mọi điều, dựa vào việc đọc, mỗi năm, một triết gia
hay một
nhà thơ, như Plato và Homer. Alain không nghĩ ông là Cộng Sản hay xã
hội. “Tôi
thuộc phe Tả đời đời, một phe Tả chẳng bao giờ hành xử quyền lực, như
bản chất
của nó, thể nào cũng đưa đến lạm dụng.”
Simone Weil chẳng
những suy đi nghĩ lại mọi chuyện mà còn quyết định biến tư tưởng của bà
thành hành
động, đưa chúng vào thử nghiệm ở trên đường phố, ở xưởng thợ, ở mặt
trận. Khi còn
là sinh viên, bà có biệt danh là “Thánh Nữ Đỏ”, và bà biểu lộ khuynh
hướng tả
phái của bà bằng cách đi tới nhà máy, xưởng thợ cùng làm việc với công
nhân,
chiến đấu chống phát xít tại Tây Ban Nha, và sau đó, dục bỏ “chủ nghĩa
ái quốc
của Nhà Thờ”, và luôn cả những tiếng nói của Ky Tô Giáo Pháp, hô hào:
“Thà
Hitler còn hơn là Mặt Trận Bình Dân”. Nhưng Simone Weil cũng dục bỏ
Liên Xô Cộng
Sản, khi bà biết về những vụ thanh trừng của Stalin.
NMG có cái hình
ảnh thú vị lắm: Mọi đồng hồ
Mít ngưng chạy đúng vào ngày
30 Tháng Tư 1975.
THE CLOCKS
OF THE DEAD
One night I
went to keep the clock company.
It had a
loud tick after midnight
As if it
were uncommonly afraid.
It's like
whistling past a graveyard,
I explained
In any case,
I told him I understood
Once there
were clocks like that
In every
kitchen in America.
Now the
factory's windows are all broken.
The old men
on night shift are in Charon's boat.
The day you
stop, I said to the clock,
The little
wheels they keep in reserve
Will have
rolled away
Into many
hard-to-find places.
Just thinking
about it, I forgot to wind the clock.
We woke up
in the dark.
How quiet
the city is, I said.
Like the
clocks of the dead, my wife replied.
Grandmother on the wall,
I heard the
snows of your childhood
Begin to
fall.
Charles
Simic
Những chiếc
đồng hồ của những người đã chết
Một đêm Gấu đi
ra đường kiếm bạn đồng hành là chiếc đồng hồ
Nó kêu một
tiếng “tích” thật bự sau nửa đêm
Như thể nó sợ,
một cái sợ không giống ai
Như tiếng huýt
sáo khi đi qua nghĩa địa
Tôi giải thích
Trong bất cứ
trường hợp, tôi bảo nó, tôi hiểu
Đã có 1 lần,
có nhiều đồng hồ như thế
Ở mọi nhà bếp
của lũ Ngụy
Bây giờ mọi
cửa sổ nhà máy sản xuất đồng hồ Chợ Lớn,
Đồng hồ một cửa sổ,
hai cửa sổ, không người lái...
thì đều tan
hoang, đổ vỡ.
Những người
già của những ca trực đêm thì đều lên con thuyền của Charon
Ngày mi ngưng, tôi biểu cái đồng hồ,
Những bánh
xe dự trữ thì đều bỏ đi
Tới rất nhiều
nơi thật khó mà tìm được
Mải nghĩ về
những chuyện đó, tôi quên mẹ lên giây cót đồng hồ
Chúng tôi thức
dậy trong bóng tối
Sao thành phố
im ắng như thế này, tôi nói.
Như những đồng
hồ của người chết, Gấu Cái trả lời
Bà cụ ở trên tường,
Con nghe tiếng
tuyết của thời thơ ấu của bà
Bắt đầu rơi
EMPIRES
My
grandmother prophesied the end
Of your
empires, O fools!
She was
ironing. The radio was on.
The earth
trembled beneath our feet.
One of your
heroes was giving a speech.
"Monster,"
she called him.
There were
cheers and gun salutes for the monster.
"I
could kill him with my bare hands,"
She
announced to me.
There was no
need to. They were all
Going to the
devil any day now
"Don't
go blabbering about this to anyone."
She warned
me.
And pulled
my ear to make sure 1 understood.
Charles
Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi tiên đoán
ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ.
Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung
chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những anh hùng,
Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,”
bà tôi la lên.
Có
những tiếng
vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết
nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên
bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần
làm dzậy.
Tất cả bọn
chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh
cáo.
Và kéo
tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
The
Invisible
Những kẻ vô hình
1
It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.
Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,
Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.
1
Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám
Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,
Hay là tại sao cánh của nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:
Chuồn
chuồn
có cánh thì bay
Có thằng VC đang
rình mày đây nè!
4
The moment
you shut off the lamp,
Here they
are again,
The two dead
people
You called
your parents.
You'd hoped
you'd see tonight
The girl you
loved once,
And that
other one who let you
Slip a hand
under her skirt.
Instead,
here's that key in a saucer of small change
That
wouldn't open any lock,
The used
condom you found in church,
The lame
crow your neighbor kept.
Here's the
fly you once tortured,
A rock you
threw at your best friend,
The pig that
let out a scream
As the knife
touched its throat.
Đúng vào lúc
bạn tắt đèn
Họ trở lại
Hai người đã
mất
Bạn gọi họ là
hai đấng sinh thành.
Bạn sẽ mơ đêm
nay
Bạn gặp lại
cô bạn gái ngày nào
Cô gái đã từng
yêu bạn
Và một cô khác
nữa
Đã từng cho
phép
Bàn tay của
bạn lùa bên dưới
Chiếc áo bà ba của cô.
Thay vì vậy,
thì đây là chiếc chìa khóa,
trên cái dĩa
đựng ba thứ lặt vặt,
chẳng thể mở
bất cứ 1 cái cửa
Cái áo mưa đã
xài rồi bạn kiếm thấy ở nhà thờ
[và ở blog của
hòa thượng THT],
Con quạ què
mà người hàng xóm của bạn giữ
Đây là con
ruồi mà bạn đã tra tấn
Cục đá bạn ném
vào người bạn tốt nhất của bạn
Con heo ré lên
một tiếng rùng rợn
Khi mũi dao
thọc vô cổ của nó
Sự thực câu
của NMG ám chỉ đám “Chống Cộng Điên Cuồng”, không thể nào vờ đi được
ngày 30
Tháng Tư. Có 1 thời gian đồng hồ của NMG cũng ngưng, nhưng chạy lại
rồi! Người
về, đi tour văn nghệ, ra Bắc gặp Tố Hữu, và ra lệnh cho ông, biểu đám
kiểm duyệt
không được bỏ 1 chữ nào tác phẩm Sông Côn
Mùa Lũ, và phán, nhà văn nào mà viết về chính trị, thì tác phẩm
không đi được
xa! Viết dưới ánh sáng của Đảng thì được, chắc thế.
IN THE
LIBRARY
for Octavio
There's a
book called
A Dictionary of Angels.
No one had
opened it in fifty years,
I know,
because when I did,
The covers
creaked, the pages
Crumbled.
There I discovered
The angels
were once as plentiful
As species
of flies.
The sky at
dusk
Used to be
thick with them.
You had to
wave both arms
Just to keep them away.
Now the sun
is shining
Through the
tall windows.
The library
is a quiet place.
Angels and
gods huddled
In dark
unopened books.
The great
secret lies
On some
shelf Miss Jones
Passes every
day on her rounds.
She's very
tall, so she keeps
Her head
tipped as if listening.
The books
are whispering.
I hear
nothing, but she does.
Charles
Simic
Ở thư viện
Gửi Bùi Chát, và thư viện
Giấy Vụn
Có một cuốn
sách tên là
Từ điển Thiên thần
Chẳng
ai mở
nó trong 36 năm
Tôi biết, bởi
vì khi tôi làm điều này
Góc sách gẫy,
Trang sách
vỡ vụn. Và tôi
khám phá
Thiên thần
ngày xưa nhiều
Như ruồi
Bầu trời lúc
chạng vạng
Thường chật
cứng thiên thần.
Bạn phải lấy
cả hai tay xua chúng đi.
Bây giờ mặt
trời đang chiếu sáng.
Qua cửa sổ
cao
Thư viện là
một nơi yên tĩnh.
Thiên thần và
những thần thánh hầm bà làng
trong những
cuốn sách tối thui, không được mở ra.
Bí mật lớn
thì nằm ở trên một cái giá sách nào đó
Miss Jones ngày nào cũng đẩy đi lòng dòng.
Cô ta dáng
người cao, bởi vậy cô bịt cái đầu của cô,
làm như đang
lắng nghe.
Những cuốn sách
thì thầm
Tôi chẳng
nghe thấy gì hết, nhưng cô thì nghe.
Nhân
Gió-O 10
năm
Bữa trước, bạn
Đoàn Nhã Văn có nhã ý đề nghị phỏng vấn NQT, về sự ra đời của trang TV,
nhưng
do bạn thòng
theo 1 câu, thiên hạ có vẻ nực Gấu lắm, vì thái độ chẳng có tí hoà nhã,
ít chịu
khen ai, và nếu có khen, thì khen những người đâu đâu [thí dụ thơ lục
bát của Đá],
chưa từng xoa đầu/nâng bi những đấng “đời văn dài hơn đời người” dù còn
trẻ măng,
hay trẻ hơn Gấu nhiều, phê bình gia dốt như.. chó, [ui chao Gấu
Chó có khác],
chuyên phát ngôn khủng chẳng cần chứng minh, hay mỗi lần
viết phê
bình là vãi linh hồn, hay, hay.. thành thử Gấu cũng ngại, sợ DNV trúng
miểng lây.
Nhưng nhân lần
này, qua cuộc phỏng vấn LTH, biết đâu, có thể dấy lại một cuộc phỏng
vấn chết từ
khi còn trứng nước.
Trong những
kỳ tới, Gấu sẽ lèm bèm tiếp về những câu hỏi và trả lời của cuộc phỏng
vấn Gió
O của DNV.
NQT
Chứ tài hoa của Joseph
Brodsky cũng ngang ngửa cỡ tài hoa Nguyễn Thế
Hoàng Linh thôi mà.
LTH
BỨC THƯ GỬI
TỚI NHÂN LOẠI
hoặc
KHÔNG CẦN ĐẶT
TÊN
riêng hôm
nay
tôi sắp đi
qua đường Nguyễn Du
không một
chút ảm ảnh hay tự hào về một thời lửa đạn
hồ Thuyền
Quang đẹp
phố phường rộng
và lòng tôi không hẹp
thế thôi...
NTHL
Cái tít bài
thơ, chứng tỏ nhà thơ không rành tiếng Việt.
Ðúng hơn,
chưa sạch văn phạm.
Chữ “hoặc”dùng
sai. "Hoặc", “or”, là để nối hai cụm từ tương đương.
Phải viết,
thí dụ:
Bức thư gửi
tới nhân loại và không được đặt tên
Hoặc,
Bức thư
không tên gửi nhân loại.
Ám ảnh,
không phải “ảm ảnh”.
[Không “ám ảnh”,
sướng thật. NQT]
Bài thơ này
chắc post lâu lắm rồi. Vậy mà có ai thèm đọc đâu?
Nếu đọc, đã
sửa lỗi đánh máy sai, về phía tòa soạn, hoặc đề nghị sửa, từ phía độc
giả.
Cả bài thơ,
ngây ngô, ngốc nghếch, làm ra vẻ suy tư, như đứa con nít nói ngọng, vậy
mà dám
so với thơ Brodsky.
Nói có sách
mách có chứng, thí dụ bài sau đây, của Brodsky.
Thơ NTHL có được cái giọng nhân hậu, cảm động, và
khiêm tốn “thế thôi”, như Brodsky?
Thế thôi!
Mấy lời!
Toàn giọng
con nít muốn làm bố nhân loại!
To My
Daughter
Give me
another life, and I”ll be singing
in Caffè
Rafaella. Or simply sitting
there. Or
standing there, as furniture in the corner,
in case that
life is a bit less generous than the former.
Cho tôi một
đời khác, và tôi vẫn hát
ở Caflè
Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng
ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường
hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng tiền thân của nó.
Brodsky: Gửi con gái của tôi
Liệu NTHL viết
nổi dòng thơ chót, trên?
Mà, tại làm sao bà Huệ lại
so ông nhóc này với…. Brodsky?
Một ông bị
nhà nước bắt, tống đi lao động cải tạo, lưu đầy nội xứ tại Hắc hải, rồi
tống ra khỏi quê hương, mày
không đi
là ‘nóng’ lắm đấy. Một ông nhóc [chắc cũng VC con, con một ông VC bự,
nếu không
phải xin lỗi. NQT], tiếng Việt chưa rành đừng nói rành tiếng Anh, tiếng
U, trong khi
Brodsky, sống bằng nghề dịch thuật, khi ra hải ngoại viết bằng tiếng
Anh, làm giáo sư Ðại Học, không có bằng cử nhân Triết, vì chưa học hết
Trung Học!
Quái đản nhất, là, thơ
NTHL không
có gì mắc
mớ đến thơ Brodsky [Bao thơ tôi ít nhiều chi là về thời gian, về thời
gian làm
gì con người. Brodsky], vậy mà sao bà Huệ lại lôi Brodsky ra, ở đây?
Khó hiểu
quá! NQT
GNV này thực sự không hiểu
phản ứng của NTHL ra sao, khi được bà Huệ khen như thế này?
*
Brodsky không
phải là một nhà thơ dễ đọc, và cái nguồn ‘tài hoa’ của ông,
phải một tín
hữu Ky Tô thì mới hy vọng nắm bắt được.
“At heart
Joseph was a pagan”, ở trái tim của ông,
Brodsky là 1 tên…
Nam Bộ, một tác giả [Mark Strand] nhận xét về Brodsky,
khi phải bàn về chất Ky tô của thơ ông [‘Brodsky’s every poetic breath
praises
God’, mọi hơi thở thơ của Brodsky thì đều ca ngợi Chúa Ky Tô].
Có hai nhà
thơ Ky Tô, cùng từ cái xứ chết tiệt CS, cùng được Nobel, là Brodsky
và
Czeslaw Milosz, nhưng ngay cả Milosz mà cùng thèm số mệnh của Brodsky,
đang "làm 1 nhà
thơ, nhà dịch thuật", tự dưng được Đảng tóm đầu ban cho án lưu đầy nội
xứ vì ăn
bám xã hội [Gấu cũng bị tội này, và đi tù vì nó vài lần], khi được thả
về thì lại
bị Đảng bắt phải lưu vong, đến nỗi KGB còn phải kiếm cho 1 ông chú nào
đó, bà
con đang ở hải ngoại, bảo lãnh ông! Thế rồi một ngày đẹp trời, như Bùi
Chát sau
này, khăn đóng áo dài bước lên đài cao nhận giải Nobel văn chương!
Bởi vì những
nền văn minh thì cũng có lúc đi đời nhà ma [Because cilivisations are
finite],
trong cuộc đời của mỗi một nền văn minh như thế, sẽ xuất hiện một thời
điểm mà
tâm của nó trở nên bất lực, không trụ nổi, [cease to hold]. Vào những
thời điểm
như thế đó, cứu vớt nó, cho khỏi bị phân tán, huỷ diệt, không phải
những miền,
mà là ngôn ngữ.
Đó là trường
hợp đã xẩy ra cho nền văn minh La Mã, và trước đó, văn minh Hy La.
Và cái
"job", giữ cho nền văn minh, thí dụ Mít, không bị phân hóa, sẽ được
làm bởi những con người miệt vườn, từ ngoại vi, chứ không phải mấy tay
ở trung
tâm, ở Hà Nội.
Trái với niềm
tin thông thường, phổ thông, ngoại vi không phải là nơi thế giới chấm
dứt mà
chính là nơi khởi đầu, mở ra.
Brodsky: Hải
Triều Âm [The Sound of the Tide]
[Nhưng] sự
hiện diện của Brodsky là một điểm tựa, hay điểm qui chiếu [a buttress
or a
point of reference] cho rất nhiều thi sĩ bạn bè của ông. Đây là một con
người
mà tác phẩm và cuộc đời luôn luôn nhắc nhở chúng ra rằng, mặc dù những
ra rả về
một cõi người đồng hạng, cá mè một lứa, thì nhà thơ của chúng nói, vẫn
có đẳng
cấp, thứ hạng, trong những ngày như thế này.
Cái đẳng cấp
không phải đuợc suy ra, giản trừ từ một tam đoạn luận, cũng không phải
được rút
ra từ những nghị quyết, những cuộc hội thảo... mà chính chúng ta xác
nhận, làm
mới nó mỗi ngày, bằng cách sống và viết.
Nó có một
cái chi thật gần gụi thân quen với sự phân chia rất ư sơ đẳng, tiểu
học, giữa đẹp
và xấu, thực và giả, lành và ác, tự do và độc tài. Trên tất cả, đẳng
cấp có
nghĩa là trân trọng đối với những gì được coi là có học, có văn hóa, so
với dè
bỉu, khinh khi, tởm lợm, đối với những gì hạ cấp, tầm thường, ti tiện.
Nhãn hiệu
"thăng hoa" [sublime] có thể áp dụng cho thơ của Brodsky. Trong phần
số của ông, như là một đại diện cho con người, có "một cõi tư duy lừng
lững"
[that loftiness of thought] mà Pushkin nhận thấy ở Mickiewicz:
"Ông ta
nhìn xuống cuộc đời, từ trên ngọn đỉnh trời".
.... [Nhà
thơ] Mandelstam, trong Gulag, trở nên rồ dại, tìm kiếm thực phẩm trong
đống
rác, [hình ảnh này chính] là thực tại về độc tài và thoái hóa bị kết án
phải huỷ
diệt.
Mandelstam đọc
thơ cho một vài người bạn tù, là khoảnh khắc cao cả [lofty moment] mãi
mãi tồn
tại.
Milosz: Ghi
Chú Về Brodsky
Thành thử cái
vụ Bùi Chát này, quá tuyệt, y chang lời tiên tri của Brodsky, về biên
cương nổi
dậy, báo hiệu sự chấm dứt của nền văn hóa sông Hồng.
Alongside the awe, the
respect, and the genuine love, these books contain some of the most
penetrating observations ever made about Brodsky,
both the poet and the man. About the former, Pyotr Vail observes:
"Pushkin was all about how we wanted to be; Brodsky
was all about how we really are". About the man, Annelisa Allleva makes
some cutting remarks, notably: "He stole other people's love in order
to hide his insecurity".
Derek Walcott puts the two together: "Joseph didn't make a distinction
between his calling and his life. He was the best example I know of
someone being a poet in the professional sense".
Joseph [HV] Brodsky đếch
thèm để ý đến sự tách biệt giữa thiên hướng nhà thơ và đời của ông. Ông
là thí dụ đẹp nhất mà tôi biết về một người, là một nhà thơ, theo một
cái nghĩa nhà nghề của từ này.
"Joseph was a man who realized himself. That for me is the main lesson
of his life. What more does a man need?".
Ui chao xin được xách dép cho nữ thi sĩ, mà chẳng... đặng, sao?
NQT
Mon, May 2,
2011 8:17:24 AM
Hi bác chủ
trang Tin văn,
Nhiều bận em
muốn gửi góp ý cho bác nhưng nghĩ xuề xòa thế nào lại thôi. Lần này em
không
góp ý không được vì thấy bức bối quá.
BỨC THƯ GỬI
TỚI NHÂN LOẠI
hoặc
KHÔNG CẦN ĐẶT
TÊN
Ở đây nên hiểu
"BỨC THƯ GỬI TỚI NHÂN LOẠI" và "KHÔNG CẦN ĐẶT TÊN" là hai lựa
chọn cho nhan đề. Hoặc nhan đề là cái này, hoặc nhan đề là cái kia, chứ
"hoặc" không phải là để kết nối. Ở đây bác có một chút nhầm lẫn trong
sự hiểu, chứ không phải NTHL không rành tiếng Việt. Các từ bác dùng
"chứng
tỏ", "đúng hơn", "phải viết"... giống như kiểu
"phán như đúng rồi".
LTH có thể
quá lố khi so sánh Brodsky chỉ ngang cỡ Nguyễn Thế Hoàng Linh, nhưng
bác cũng
không mấy thuyết phục khi chỉ tương lên một bài của Brodsky rồi phán
như đúng rồi.
Thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh chẳng có mắc mớ gì đến thơ Brodsky, đúng.
Nhưng bác
cũng đang làm một phép so sánh kệch cỡm đấy thôi.
Vài dòng nhắn
gửi, mong bác cố gắng điều tiết ngôn từ để đừng hạ thấp người khác quá
như thế.
Cảm ơn bác về trang Tin văn.
Thân ái,
J.
Phúc đáp:
Đa tạ. Sẽ làm
theo đúng như yêu cầu, ‘cố gắng điều tiết ngôn từ để đừng hạ thấp người
khác
quá như thế’.
NQT
Sáng nay, đầu
tháng GNV phải đi gặp bác sĩ & pharmacist, viết vội vài hàng, bây
giờ mới rảnh,
hầu chuyện tiếp vị độc giả.
V/v điều tiết
âm thanh cho vừa nghe, đừng làm phiền hàng xóm, thì kể như tạm xong.
V/v từ ‘hoặc’.
Cách giải thích
của bạn, thì cũng là thêm 1 cách giải thích, vì thế, bạn không thể
‘phán như đúng
rồi được’, và, “ở đây bác có một chút nhầm
lẫn trong
sự hiểu”.
Nếu
đúng như bạn cắt nghĩa, thì cái tít bài thơ thành hai cái tít:
“Bức
thư gửi tới nhân loại”
hoặc,
[Bức
thư] “không cần đặt tên”
Giả
như đúng, đây là ý của NTHL, thì thay vì viết như vậy, các nhà thơ
thường viết:
“Bức
thư gửi tới nhân loại”
hoặc
“vô
đề”
Vô
đề, “untitle”, hay untiled, là thói quen thường thấy ở nhiều nhà thơ,
hay nhạc
sĩ, “Bài không tên….”, thí dụ.
… nhưng bác cũng
không mấy thuyết phục khi chỉ tương lên một bài của Brodsky rồi phán
như đúng rồi.
Một bài thơ của
Brodsky để so sánh với một bài thơ của NTHL. Tôi đâu có so sánh hai cõi
thơ.
Kính
NQT
Ghé bác sĩ,
ghé pharmacist, rồi, tất nhiên, ghé tiệm sách cũ, vớ được cuốn thơ
tuyệt vời, có
chữ ký của tác giả. Tập thơ này cũng tuyệt lắm. Từ từ Gấu giới thiệu
quí độc giả
TV.
Mua tờ The
New Yorker, May 2, 2011, có bài thơ
mới tinh của Zagajewski.
Gấu mết tay
này lắm. Tính dịch hết những bài thơ hiện Gấu có được, của ông, và của
Charles
Simic…
IN VALLEYS
And the
lovely Garonne, which passes
through
drowsy villages each night
like a
priest with the last sacrament.
Dark clouds
grow in the sky.
The
Visigoths live on, in certain faces.
In summer
the empire of insects spreads.
You consider
how not to be yourself:
is it only
on journeys, in valleys,
which open
others' wounds?
In a
bookshop the salesclerk calls
the author
of "To the Lighthouse"
Virginia. As
if she might
turn up at
any minute, on a bicycle,
with her
long, sad face.
But Paul
Valery (of the Academy) thought
history
didn't exist. Perhaps he was right.
Perhaps
we've been taken in. When he was dying,
General de
Gaulle tried to find him
penicillin.
Too late.
-Adam
Zagajewski
(Translated,
from the Polish, by Clare Cavanagh.)
EITHER/OR
1
My dream
after the dream of more war: that for every brain
there exists
a devil, a particular devil, hairy, scaly or slimy,
but compact
enough to slot between lobes, and evil, implacably evil,
slicing at
us from within, causing us to yield to the part
of the soul
that argues itself to pieces, then reconstitutes as a club.
When I
looked closely, though, at my world, it seemed to me devils
were insufficient
to account for such terror, confusion and hatred:
evil must be other than one
by one, one at a time, it has to be general,
a palpable something like carbon
dioxide or ash that bleeds
over the
hemispheres of the world as over the halves of the mind.
But could it
really be that overarching? What of love, generosity,
pity? So I concluded
there after all would have to be devils,
but mine,
when I dug through the furrows to find him, seemed listless,
mostly he spent
his time honing his horns-little pronged things
like babies'
erections, but sharp, sharp as the blade that guts the goat.
2
Just as in
the brain are devils, in the world are bees: bees are angels,
angels bees. Each
person has his or her bee, and his or her angel,
not
"guardian angel," not either one of those with" ... drawn swords
... "
who"
... inflict chastisement ... " but angels of presence, the presence
that
flares in the conscience not as philosophers' fire, but bees'.
Bee-fire is
love, angel-fire is too: both angels and bees evolve
from seen to
unseen; both as you know from your childhood
have
glittering wings but regarded too closely are dragons. Both,
like trappers,
have fur on their legs, sticky with lickings of pollen:
for angels the
sweetness is maddening; for bees it's part of the job.
Still, not
in their wildest imaginings did the angel-bees reckon
to labor like mules, be
trucked from meadow to mountain,
have their compasses fouled so they'd fall on
their backs,
like old
men, like me, dust to their diamond, dross to their ore,
but
wondering as they do who in this cruel strew of matter will save us.