“Một
con chuột cố bám víu vào hàng rào
B40 ở một nơi nào đó trong sự kiện “Sài Gòn
thất thủ” tối qua.
Ðúng là một khoảnh khắc lịch sử!
Một chi tiết câm lặng nhưng đầy biểu cảm mà bạn có
thể chú thích với bất cứ caption nào.
Chất kể lại, hồi nhỏ nhà tớ
ở gần hồ Trúc Bạch. Ông cụ tớ, một bữa đạp xuồng dạo chơi trên
mặt hồ, không may xuồng lật. Khi đó ông cụ mới 29 tuổi,
bà cụ 24. Bà cụ giao tụi tớ cho bà ngoại ở Đáp
Cầu, và lo buôn bán xuôi ngược. Cụ vô tận
trong Nam, tình cờ gặp bà cô tớ, thế là cụ
đem hai thằng vô Nam nhờ bà cô trông coi giùm.
Hình trên chụp ở vuờn Bờ Rô.
Bạn hàng cùng với cụ hồi đó có bà
C, bà Th. cậu biết rồi.
Lần đầu đọc Cuối Đường, Gấu cứ thắc mắc, liệu tự truyện,
và tác giả đã có lần ở Sài Gòn?
Như vậy, cũng
như trong Cuối Đường, những sự kiện như được mô tả trong Bếp Lửa
đều dựa trên đời sống thực.
Chị Ng, bà
xã bạn Chất nói, tụi này đã từng gặp cô
Thanh Tuyền.
Cô Thanh
cũng có nguyên mẫu ở ngoài đời.
Chị
Ng nói thêm: Tui không đọc được từ màn ảnh PC,
anh Chất phải in ra cho tui đọc, nhưng chẳng thấy những chi tiết sự kiện
nào liên quan tới anh Chất hết. Không lẽ anh không
viết gì về những mối tình của anh Chất, giống như mấy anh em
khác trong... Thất Hiền?
Chất cuời:
Đảng trưởng thì phải gương mẫu cho anh em noi theo đó mà
sống chứ! Cậu nhớ không, hồi đó tớ còn có nickname
là Ông Thánh!
Gấu đậu Tú đụp năm 1958, kỳ 2. Rớt kỳ 1, trước khi
lao vào học, bà cụ Chất cho cả ba đứa đi Nha Trang nghỉ mát.
Bốn đứa: Chất, Quốc, Gấu và Hải, con bà Cảnh, anh cô
bé Khanh. Truyện ngắn đầu tay Những con dã tràng được
thai nghén từ gió biển cát Nha Trang: Villa trông ra
biển....
Chất không ưa truyện này. Còn bà cụ phán,
thằng này bịnh!
Chắc là do những dòng sau đây: Đúng lúc
đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc
đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói:
"Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó
chỉ là khám phá bản thân, khám phá
thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét
với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi
tới tận lúc đó.
Tên khốn Lang Băm, Thầy Đạo làm
sao có cái bằng Toán, như trên!
Khi Gấu qua hai cửa ải Tú Tài, chưa tên nào
học xong Trung Học Đệ Nhất Cấp!
A Critic at Large October 10, 2016
Issue Karl Marx, Yesterday and Today
The
nineteenth-century philosopher’s ideas may help us to understand the economic
and political inequality of our time. Mác, Hôm Qua và Hôm Nay
Xừ lủy vưỡn chưa lầm, vưỡn còn đúng, và có thể giúp chúng ta làm
thịt lũ con hoang của xừ lủy, là lũ Mít Bắc Kít!
By
Louis Menand http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today
Why many Germans think impractical idealism is immoral
Chuyện hai đạo hạnh
Tại sao nhiều người Đức coi chủ nghĩa lý tưởng không thực tế
là vô hạnh, vô đạo đức, đồi bại.
Note: Tà Lọt, Osin và
đồng bọn "có lẽ" nên đọc bài này.
Tin Văn sẽ có
bản tiếng Mít liền
THE phrases “ethic
of conviction” and “ethic of responsibility” mean little to most English-speakers.
In Germany the equivalent terms—Gesinnungsethik
and Verantwortungsethik—are household
words. Pundits drop them casually during television talk shows. Hosts
use them as conversation-starters at dinner parties. The concepts draw
on the opposition between idealism and pragmatism that runs through politics
everywhere. But they also capture a specific moral tension that is “very
German”, says Manfred Güllner, a sociologist and pollster. Anyone
interested in understanding German politics, on anything from the euro
to refugees, would do well to get a handle on them.
The terms come
from the sociologist Max Weber, who used them in a speech he gave in January
1919 to a group of leftist students at a Munich bookstore. Germany had just
lost the first world war. The Kaiser had abdicated, the country was in the
throes of revolution and Munich was about to become the capital of a short-lived
“Bavarian Soviet Republic”. Armed with only eight index cards, Weber
gave a talk that would become a classic of political science. (“Politics
as a Vocation” was published in English only after the second world
war.) The lecture ranged broadly through history, but its main purpose
was to curb the Utopian romanticism then gripping the ideologues fighting
over the direction of the new Germany, including those sitting in front
of him.
Weber described
an “abysmal opposition” between two types of ethics. Those following
their convictions wish to preserve their own moral purity, no matter
what consequences their policies may have in the real world. “If an
action of good intent leads to bad results, then, in the actor’s eyes,
not he but the world, or the stupidity of other men, or God’s will who
made them thus, is responsible for the evil.” By contrast, someone
guided by responsibility “takes account of precisely the average deficiencies
of people…(H)e does not even have the right to presuppose their goodness
and perfection.” This sort of politician will answer for all the consequences
of his actions, even unintended ones. Weber left no doubt about his
sympathies. Ethicists of conviction, he said, were “in nine out of ten
cases windbags”.
The prevailing
view today, like Weber’s in 1919, is that “Germany has a surfeit of Gesinnungsethik,” says Wolfgang Nowak, who served as
an adviser to Gerhard Schröder when he was chancellor. The postwar
yearning of Germans to atone for their nation’s Nazi past through extravagant
moral posing exacerbates the tendency. In general, the ethic of conviction
is most prevalent among leftists and Protestants, and slightly less
so among conservatives and Catholics, says Mr Güllner.
Thus the Social
Democrats, who view themselves as crusaders for social justice, often
give the impression that they are not only “unable but unwilling” to
govern, lest they bear actual responsibility, Mr Güllner thinks.
That may explain why there has been a Social Democratic chancellor for
only 20 years since 1949, compared with 47 years under the Christian
Democrats. Many of Germany’s most strident pacifists, meanwhile, are
Lutherans. Margot Käßmann, the church’s former leader, dreams
of Germany having no army at all. She disavows force even to prevent
or stop a genocide.
But an ethic of
conviction also runs through the centre-right, which since the 1950s
has approached the European project as an end in itself, a way for
Germany to become post-national and dissolve its guilt along with its
sovereignty. In the process, Germans deliberately overlooked the fact
that most other Europeans never shared this goal. Once the euro crisis
erupted, many conservatives opposed bail-outs out of an ethic of conviction,
argues Thilo Sarrazin, a controversial pundit. They wanted to decry
rule-breaking by crisis countries as inherently bad—even at the cost
of letting the currency zone unravel.
The ethic of responsibility
holds that such stances are not merely impractical but wrong, and
that what will not work cannot be moral. Those governing Germany have
mostly been of this camp. In the 1980s millions of Germans marched against
the modernisation of NATO’s nuclear arsenal, but Chancellor Helmut Schmidt
let the missiles deploy, accepting the grim logic of deterrence. (His
reward from his fellow Social Democrats was largely disdain.) In the
euro crisis, Angela Merkel reluctantly agreed to bail-outs in order to
hold the currency zone together.
Transports
of joy
That is what makes
Mrs Merkel’s historic opening of Germany’s borders to refugees on
September 4th, 2015 so remarkable. “She galloped away with an ethic
of conviction,” says Konrad Ott, a professor of philosophy and author
of a book on migration and morality. At the time this aligned her with
a euphoric “welcome culture”, as ordinary Germans volunteered to help
refugees and the press celebrated the country’s humanitarian example.
Mrs Merkel refused to put a numerical limit on accepting human beings
in dire need, a position she still maintains.
But as predicted
by ethicists of responsibility (in whose ranks Mrs Merkel is usually
found), the mood soon turned. Other Europeans accused Germany of “moral
imperialism”, the flip side of Gesinnungsethik.
And many Germans felt that too much was being asked of their society.
Some, in a development that would not have surprised Weber, turned
xenophobic.
The history of
the past year can thus be seen as Mrs Merkel’s attempt to return to an ethic
of responsibility without betraying her convictions. This includes
biting her tongue as she deals with an increasingly authoritarian Turkey,
whose cooperation she needs to reduce the migrant flows, and other
moral compromises. Max Weber would have found her dilemma compelling.
Even someone with an ethic of responsibility, he said, sometimes “reaches
the point where he says: ‘Here I stand; I can do no other.’ That is something
genuinely human and moving.”
“Nếu để ông
Cù Huy Hà Vũ tự do ngôn luận, có
lẽ ông khó lòng thu hút được sự chú
ý của giới bloggers, báo chí và khó
lòng trở thành một nhân vật được đề cập trong
một bài feature của tờ New York Times. Nếu để ông Cù
Huy Hà Vũ tự do kiện tụng có lẽ người dân sẽ
thấy Chính quyền tự tin và mạnh mẽ. Và có
lẽ, nếu thả ngay ông Cù Huy Hà Vũ sau cái hôm
ở khách sạn, hình ảnh một người đàn ông
50s bụng phệ sẽ được nhớ lâu hơn, và khó có
thể bị thay thế bởi hình ảnh một tiến sỹ Cù Huy...
Note: Khi đấng này, Osin, Tà
Lọt, viết cuốn sách của xừ lủy, và được thiên
hạ quan tâm, Tin Văn đã lai rai ba sợi về sách
và người rồi. Nhưng sự kiện, độc giả TV quan tâm đến
hắn, mới thú, và cho thấy, đạo hạnh của hắn khiến thiên
hạ tởm: Khi post lại 1 cái stt của hắn, trên Tin Văn,
về vụ hắn tính đi 1 cái phong bì mừng đám
cưới Hồng Ánh, rồi lại rút lại, khách viếng thăm
[visit] TV đột nhiên tăng tới con số 800, 1 con số khủng khiếp
vào lúc đó. Và GCC quá ngạc nhiên,
và bèn báo cáo, cũng vào lúc
đó đó!
HồngÁnh, những khi “giải lao” giữa các lần
yêu vẫn tìm tới tôi. (2)
Blog Osin
Viết như thế thì quá
khốn nạn. Viết lại ở đây, thật thấy nhục nhã lây,
'cũng một lũ đực rựa khốn nạn', nhưng chẳng lẽ không nói
tới?
NQT
Gấu quen NTS lần về Hà Nội
đầu tiên, 2001, và sau đó, lần về thứ nhì, 2002,
anh ở Hồng Kông, hình như vậy, vừa về là vội chạy tới
chiếu nhậu ở nhà Bảo Ninh.
Nhậu rất tới, chơi rất được, riêng với
Gấu, còn với người khác, Gấu không biết,
và không có ý kiến.
Hơn nữa, Gấu rất ghét biết
về đời riêng của người khác, ngay cả bạn thân, thí
dụ nhà thơ Joseph Huỳnh Văn, Gấu gần như mù tịt
về anh, mãi khi anh mất, thì mới biết, anh có
họ hàng với Huỳnh Văn Trọng, cố vấn (?) của Tông Tông
Thiệu.
Cũng thế, với NTS, mãi gần
đây, mới biết anh họ hàng, bà con với 1 ông cựu
tổng bí thư VC.
Chơi với nhau OK là được/đủ
rồi.
Nhưng, trong đám bạn bè của anh,
có 1 tay Gấu phải đội ơn, vì nếu không có
anh ta, là Gấu khốn khổ khốn nạn với VC rồi.
Nhân đây, đa tạ thêm
1 lần nữa, vào dịp Giáng Sinh và Năm Mới.
NQT & gia đình.
Được tin, đám cưới giữa Hồng Ánh
và Nguyễn Thanh Sơn đã diễn ra một cách
nội bộ hôm 14-1-2009, tôi mở ngăn kéo, lấy
cái phong bì, rút ra tờ bạc 50 nghìn
đồng, bỏ vào bóp trở lại. Mấy tháng trước,
đọc báo thấy Hồng Ánh trả lời phỏng vấn nói
là sẽ làm đám cưới nay mai, đề phòng
kinh tế vẫn đang trên đà suy thoái, tôi
cẩn thận trích ra một phần ngân khoản, bỏ sẵn vào
phong bì phòng khi được mời. Có lẽ những bài
phỏng vấn trên đây cũng do Nguyễn Thanh Sơn, một chuyên
gia truyền thông đạo diễn, không có những bài
báo gây áp lực dư luận ấy chắc chi đã
có đám cưới vừa rồi.
Sau khi báo chí đăng các
bài trả lời phỏng vấn của Hồng Ánh, nhà
văn Nguyễn Quang Lập gọi điện cho tôi: “Ông Osin ơi,
con Ánh (quý ai, anh Lập vẫn thường gọi thế) nó
bảo tôi mới là người làm mai thằng Sơn cho nó”.
Tôi bảo anh Lập: “Vâng, quý hóa quá,
lâu nay em cứ mang tiếng mãi”. Thoạt đầu, nhìn
cái mặt của Nguyễn Thanh Sơn, tôi đã không
có cảm tình. Đàn ông đàn ang gì
mà ăn nói nhẹ nhàng, da trắng, mắt đã
to lại còn nhìn ai thì cứ nhìn trừng trừng.
Tôi có đọc một số bài phê bình văn
học của “tay” Sơn này. Cứ thấy cả nước đang mê ai là
y như rằng Nguyễn Thanh Sơn chỉ ra hàng loạt vấn đề bất ổn trong
các tác phẩm của họ. Những người Sơn chê, tuy tôi
không có mấy kiến thức văn chương, vẫn biết là tài
năng: Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh… Nghe nói Sơn
là chủ công ty T&A, làm pi-a, pi-iếc gì
đấy, khách hàng toàn là Tây. Nhưng,
Sơn vô Sài Gòn, thấy vẫn ngồi trên cái
xe mà cô Ánh mua, cô Ánh đổ xăng, cô
Ánh làm tài xế… Đã thế, chiều nào cô
Ánh cũng phải đi tập ở California Wow, một khách hàng
của T&A, công ty của Sơn. Nhiều lần tôi bảo Hồng Ánh:
“Dẹp cái thằng này, để anh kiếm cho em một đại gia”.
Tôi đã từng chứng kiến một
số đại gia lăn xả vào tán tỉnh cô đào
tài sắc này. Có lần, một chủ doanh nghiệp
trẻ, được ăn cơm cùng Hồng Ánh, ngồi nhà hàng
máy lạnh mà mồ hồi cứ đổ ra như tắm. Hồng Ánh,
những khi “giải lao” giữa các lần yêu vẫn tìm
tới tôi. Có lần, một tay tán tỉnh, cô
ấy nhờ tôi tư vấn. Tôi chăm chú lắng nghe, rồi
ra giọng cha chú: “Thằng này được. Em vừa xinh đẹp, vừa
nết na, con đường nghệ thuật của em còn dài, cần phải
một người chồng vừa có học lại vừa vững vàng về sự nghiệp”.
Một thời gian sau, cô Ánh nước mắt lưng tròng,
tìm gặp tôi, giọng chán chường và mặt mày
mỏi mệt. Tôi thẳng thắn: “Em bỏ ngay nó cho anh, người
như thế làm sao xứng với em được”. Cô Ánh gật gật
đầu, rồi như sực nhớ ra, những giọt nước mắt thôi rớt trên
đôi má có hai cái lúm đồng tiền:
“Ủa, sao hồi đó, cũng ông này, anh xúi em
yêu bằng được”. Tôi, lập tức bản lĩnh: “Dạo trước, đã
mê nó đứt đuôi rồi cô mới hỏi anh để tìm
đồng minh; giờ cô cũng chán nó tới tận cổ rồi,
cô cần anh đồng lõa. Anh chỉ nói những gì
làm cho cô thôi áy náy chứ, anh lo
thân còn không xong, tư vấn, tư viếc gì”.
Tôi không hiểu sao, cô
Ánh lại để cho cái tay Nguyễn Thanh Sơn khó
ưa ấy giây dưa với mình ngần ấy năm. Sơn học báo
chí ở MGIMO, Nga. Lại còn tu nghiệp một thời gian
ở một tiểu bang bò nhiều hơn người của Mỹ. Sự hiểu biết và
cái gu văn chương nghệ thuật, tôi biết tỏng, bên
ngoài thì ngọt nhạt nhưng bên trong, Sơn coi
Lê Hoàng “không ra cái đ. gì” (theo
cách nói của Bọ Lập). Vậy mà khi Hồng Ánh
diễn vở Những Con Ma Nhà Hát của Lê Hoàng,
Sơn ngồi say sưa xem tổng cộng 11 lần. Hai khán giả trung thành
nhất của vở kịch này là Nguyễn Thanh Sơn và Lê
Hoàng; hơn 1/3 vé của vở kịch đã được Sơn và
Hoàng mua, sau đó mang đi kính biếu. Sơn còn
trình diễn sự nhiệt tình tương tự, ngồi xem Hồng Anh
diễn Sát Thủ Hai Mảnh 14 lần. Lần nào cũng há
hốc mồm ra như các em tuổi teen coi Đẹp Từng Centimet. Tất
nhiên, với những Trăng Rơi Đáy Giếng, Đời Cát
hay Thung Lũng Hoang Vắng… thì khỏi phải bàn.
Cho dù, cách tổ chức đám
cưới lặng lẽ của họ đã giúp tôi tiết kiệm
được 50 nghìn tiền mừng, tôi là tôi không
thích Hồng Ánh lấy chồng, nhất là lấy “cái
tay” Nguyễn Thanh Sơn ấy.
Blog Osin
Note: Thuật ngữ "cái
tay" này, chôm trên TV.
Nhớ, Thảo Trường, khi còn sống, có
lần chỉnh Gấu, về từ
này.
Anh yêu cầu Gấu bỏ từ này, "cái tay sĩ quan... ", lần
viết về 1 sĩ quan VNCH
Thảo Trường rất khó,
trong việc sử dụng chữ.
Khi Gấu để bài của anh trong folder "Quán
Văn Thảo Trường", anh mail, hỏi, tôi có bán văn
bao giờ đâu?
Phải đổi là Góc Thảo Trường
Nhiều người thận trọng nhìn lại
suốt hơn 30 năm, giật mình với cảm giác bên được giải
phóng hóa ra lại là miền Bắc...” - Huy Đức (Osin)
(1) Cái từ "thận trọng",
khó hiểu quá.
NQT
Cái ý của Osin, "... bên
được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc", chôm của…
Gấu và của bạn Gấu, là Thảo Trường.
Chứng cớ:
Khi còn ở Trại Cấm, nhân có
một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng chí
tính cho đi mò tôm, nên đành
phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó xẩy
ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán
bộ đã nói thẳng ra một điều: tại sao các anh không
giải phóng chúng tôi, tại sao các anh
tạo ra tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình thương
của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền Nam, có
thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải
phóng cho chính mình, rồi sau đó, cho
cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam chỉ có công: Thất trận.
(3)
Cho đến năm 1975, tội lớn nhất của
cộng sản là đã thắng trận, và, chiến công
lớn nhất của cộng hòa là thua trận (4)
Sự thực, nguồn của cái ý
tưởng “thận trọng” này, là từ Borges:
Trong 1 bài viết, TV sẽ post
bản tiếng Anh, sau, Borges kể là ngày 14 June
1940, một tay nói tiếng Đức mà tên của người
này, ông không muốn nói ra, tới nhà
ông. Đứng tại cửa, anh ta báo tin động trời: Quân
đội Nazi đã chiếm đóng Paris.
Tôi [Borges] thấy trong tôi lẫn
lộn một mớ cảm xúc, buồn, chán, bịnh.
Thế rồi Borges bỗng để ý tới 1 điều
thật lạ, là, trong cái giọng bề ngoài tỏ
ra vui mừng khi báo tin [30 Tháng Tư, nói
tiếng Bắc Kít, mà không mừng sao, khi Nazi/VC
chiếm đóng Paris/Sài Gòn!], sao nghe ra, lại
có vẻ như rất ư là khiếp sợ, hoảng hốt?
Hà, hà!
Thế rồi anh ta phán tiếp, Nazi/VC
sẽ không tha London. Và không có gì
ngăn cản bước chân của Kẻ Thù Nào Cũng Đánh
Thắng!
Và tới lúc đó,
thì Borges hiểu, chính anh ta cũng quá
khiếp sợ!
Cũng tới lúc đó, Borges hiểu
ra "chân lý": Hitler muốn thua trận: Hitler
wants to be defeated.
Đọc tới đó, thì Gấu nhớ
ra cái bà già nhà quê Bắc
Kít đã từng lén VC cho bạn của Gấu, sĩ quan
cải tạo 13 niên, tí ti đồ ăn, trong 1 lần chuyển trại
tù. Bà lầm bầm, khi nhìn bạn của Gấu nuốt
vội tí cơm, các cháu đánh đấm ra làm
sao mà để thua giặc dữ.
Già này ngày đêm
cầu khẩn các cháu ra giải phóng Đất Bắc
Kít! (5)
Tin Văn bị chôm lia
chia, cái đó là sự thực. Cái kiểu viết "anh hai"
của nó, ảnh hưởng nặng vào nhiều diễn đàn, với những
từ như "khủng, cái cú, cái tay"... .
Rất nhiều tên ăn cắp TV, nhưng viết, nhớ là đọc
đâu đó, hay đọc trên... Thời Tập!
Thơ của ông anh, Gấu chôm từ bàn viết của
ông, chưa từng đăng báo, vậy mà cũng bị chôm:
Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết
Thơ khủng đến như thế làm sao không chôm
cho được!
Ông số 2 chôm câu thơ "những người đã
chết đều có thực", câu này cũng thần sầu, khó
mà tha không chôm!
Antoine SPIRE :
Ông có
đưa ra một tay già, thông tuệ kinh tan-mút,
phán::
Chúng ta cầu nguyện Chúa Cứu
Thế tới, nhưng đâu hẳn như thế, bởi là vì
có những đấng Do Thái, trong bóng tối,
thì thầm với Thượng Đế: Này, đừng có nhập
thế đấy nhé!
George STEINER:
Tôi mô phỏng Hegel. Tay này
không ưa dân Do Thái. Một bữa ông
ta kể chuyện tiếu lâm, Thượng Đế vi hành, gặp một
tên Do Thái, và đề nghị: Mày chọn gì,
giữa 2 món này, hoặc là cứu chuộc, hoặc tờ
nhật báo buổi sáng, hắn ta bèn chọn tờ báo.
Căng lắm đấy, cái câu
chuyện tiếu lâm này. Chúng tôi là 1 dân
tộc bị hớp hồn bởi lịch sử, bởi những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt vĩ
đại… là cái số mệnh của chúng tôi, và
thỉnh thoảng, tôi tự nhủ thầm, có khi còn mỉm cười và
nhủ thầm: Giá mà “Chúa Cứu Thế”, tức anh VC Giải Phóng
Bắc Kít, đừng có tới, thì thật đỡ khổ biết là
chừng nào!
TTT, hẳn là bị ám
ảnh bởi 1 câu chuyện tiếu lâm như trên, thành
thử khi đọc Trầm Tư của 1 tên
tử tù của Hồ Hữu Tường, trong đó,
ông mơ tưởng Đức Phật sẽ có ngày trở lại với
dân Mít, nhà thơ hoảng quá, viết:
Giấc mơ Đức Phật trở lại thì
cũng nát tan như mảnh đồng Bắc Kít chằng chịt
những bờ, và bờ thì nhiều hơn là ruộng.
Ui chao, một khi cánh
đồng liền thành một mảnh, qua Cải Cách Ruộng Đất,
qua tập thể hoá… là Quỉ Đỏ xuất hiện, thay vì
Đức Phật!
Tội nghiệp dân Mít!
Hà, hà!
Sun, Dec 23, 2012
Thu Chao hoi
K/G ông Cà Chớn,
Một mình ông ( là
Bắc Kỳ ) mà dám nói thật, nói thẳng
trên văn đàn là tôi đã phục
ông rồi, tôi biết là ông sẽ có
nhiều người ghét ông lắm ! Mà ông gan
thiệt à nghe !
Có lần tui đi tìm dấu vết cũ,
tui gặp, Cà Chớn ( So Da Huong ) trên Văn , té
ra, khong co Cà Chớn, mà là, Thời Còn Trẻ Tuổi !
Toi khong co may so nay dau ! toi chi tim nhat
tren Net !
Chuc ong va GD giang sinh hanh phuc
Đa Tạ
Chúc bạn & gia đình mọi điều
an lành, nhân dịp GS & NM
Thời
còn trẻ tuổi, sau được in trong tập truyện Những Ngày Ở Sài Gòn,
với cái tên Chuyện
Hai Thành Phố [cái tít chôm
của Dickens]
Đúng ra là, Gấu phát
triển thành 1 truyện ngắn, bây giờ đọc lại, thì
thấy lại cả 1 đoạn đời, của hai trong bẩy đứa, được gọi là
Thất Hiền, bẩy đứa bạn quen nhau qua bạn Chất, em trai nhà
thơ TTT.
Lần gặp lại anh, ở San Jose, khi nghe tin ông
anh nhà thơ mất, Chất nói, trong bẩy đứa, thì
mày với thằng Cẩn là thân nhau nhất, gần như
tách biệt ra.
Quả có thế. Gấu có quá
nhiều kỷ niệm với Phạm Năng Cẩn, vào đúng cái
thời kỳ mới lớn, cả hai đều đã làm ra đồng tiền rồi,
thành thử mỗi lần gặp là 1 ngày hội. Cẩn
khi đó, làm thông ngôn cho Mẽo, ở đâu
mãi địa đầu chiến tuyến. Mỗi lần Sài Gòn có
phim mới, là anh làm một chuyến đi bằng máy bay
về coi, rồi lại trở về đơn vị. Thằng em trai của Gấu, ra trường, được
phái về 1 đơn vị gác phi trường Sóc Trang, máy
bay quân sự sẵn có, về thăm Sài Gòn dài
dài. Mỗi lần về lại đơn vị, thì bèn phôn
liền cho ông anh qua Đài VTD thoại quốc nội, ngay kế
bên Đài VTD thoại quốc tế, building số 5 Phan Đình
Phùng, Sài Gòn. Lần Gấu nghe tin thằng em tử
trận tại Đài, còn sửng sốt, hỏi lại, chết hả, vô
lý quá, nó chưa phôn về cho tôi,
nói đã về tới đơn vị, sao mà đã chết rồi?
Gulag của Solz, cơ bản khác hẳn
những cuốn trước - những hồi ức cá nhân, trong
có những phát hiện có tính xã
hội - không chỉ vì trong đó là hàng
hàng chứng tích, từ những hàng hàng
lớp lang con người, với những cuộc sống khác nhau, từ đó
phản chiếu cả một xã hội, cả một dân tộc; ấn tưọng hơn
nữa, là, Solz đặt để tác
phẩm, với kinh nghiệm của bao nhiêu con người trong có
của riêng ông, vào trong nội dung của lịch sử
dân tộc, tôn giáo, ý hệ của nó,
từ đó, làm bật ra cả một hệ thống kìm kẹp từ
đỉnh đến đáy, sự đồng lõa của toàn thể dân
chúng, của toàn thể một dân tộc, cùng
tham dự vào tội ác, với tất cả những chiều hướng ngang dọc,
cao thấp mà chỉ chế độ Nazi mới tương xứng với nó.
Sự đồng lõa
của toàn thể dân chúng, chỉ có Nazi
mới tương xứng....: Có Thái Dúi, tà
lọt Osin... trong số ‘dân chúng’đó không?
Chắc là còn bé quá, khi Bắc Kít
ăn cướp Miền Nam, nên đếch có tội?
Foreword to the Abridgment
If it were possible for any
nation to fathom another people's bitter experience through a book, how much
easier its future fate would become and how many calamities and mistakes
it could avoid. But it is very difficult. There always is this fallacious
belief: "It would not be the same here; here such things are impossible."
Alas, all the evil of the twentieth century
is possible everywhere on earth.
Yet I have not given up all hope that human
beings and nations may be able, in spite of all, to learn from
the experience of other people without having to live through
it personally. Therefore, I gratefully accepted Professor Ericson's
suggestion to create a one-volume abridgment of my three-volume
work, The Gulag Archipelago, in order to facilitate its reading for
those who do not have much time in this hectic century of ours. I
thank Professor Ericson for his generous initiative as well as for
the tactfulness, the literary taste, and the understanding of Western
readers which he displayed during the work on the abridgment.
ALEKSANDR I. SOLZHENITSYN
Cavendish, Vermont December, 1983
Lời nói đầu cho bản Bản Rút Gọn
Nếu khả hữu cái chuyện,
bất cứ một dân tộc nào cũng có thể cưu
mang kinh nghiệm bi thương cay đắng của 1 dân tộc khác,
tương lai của nó mới dễ dàng làm sao, và
chỉ còn có cái may mắn, mọi khuyết điểm lầm
lẫn chẳng hề xẩy ra.
Những đúng là chuyện cực nhảm,
khó bằng trời. Luôn luôn có niềm tin
cà chớn: “Ở xứ Mít, thí dụ, làm sao
có chuyện đó xẩy ra. Nước Việt Nam là một, vậy
mà tụi Mỹ, Ngụy dám nói xưng xưng là
Bắc Kít là đồ ăn cướp, đồ xâm lăng!”
Than ôi, Con Quỉ Gulag của thế kỷ thứ
20, chỗ nào mà chẳng có.
“Oan ức” gì cái chuyện được đi
tù Cải Tạo?
Tuy nhiên, tôi không hề buông
xuôi mọi hy vọng rằng con người và những quốc gia
có thể, mặc dù mọi chuyện, học được kinh nghiệm
của dân tộc khác mà, 1 cách cá
nhân, không phải sống nó.
Vì thế, tôi cám ơn giáo
sư và chấp nhận đề nghị tạo bản rút gọn bộ sách
gồm ba cuốn của tôi, Quần Đảo Gulag, để tạo sự dễ dàng
khi đọc nó, đối với những độc giả không có
nhiều thời giờ dành cho cái thế kỷ sôi nổi,
[đầy máu và nước mắt] của chúng ta….
SOMETHING ABOUT WRITING
IF
I'M not mistaken, Balzac, for example, wrote novels nonstop until
the moment that pulled him out of the practice of his profession.
Let us just try and roughly imagine the extent of such a faculty for
fantasizing. For Dostoyevsky, as I believe I should know, it may
have been the same. After publishing a string of comparatively very
worthwhile novellas, Gottfried Keller entered the civil service,
which for the next fifteen years kept him from any further continuous
literary work. Adalbert Stifter, who possessed a lively talent for
narrative like an effervescent spring upon which he drew to his heart's
content, held a civil service post in education. Goethe, this giant,
as his life history displays, poeticized himself into, as it were, a
courrlike, that is, administrative position through works that soared
into the ranks of the imperishable. The existence of a writer is determined
by neither success nor acclaim, but rather depends on his desire or power
to tabulate anew again and again. Balzac apparently did this constantly,
Keller not, and undoubtedly there were reasons why he didn't. I believe
the causes as to why some continue to write on and on and others at times
cease their poetic endeavors are, under certain circumstances, too subtle
to be easily defined. External events are capable of giving a career a
certain direction; for example, the character or incidents in the region
of the heart may be worthy of serious consideration. Some writers present
their best work at the beginning of their strivings only to succumb afterwards
to their proclivity, bit by bit, to flatten out, while we know of quite
a few others who strike us as curious because they happen to start inconspicuously
or uncertainly, but nevertheless precisely for this reason acquire in
the course of time more certitude, superior vision, etc. To which type
one gives preference is left to necessity. Every writer is an aggregate
of two people, the citizen and the artist, to which he, more or less fortunately,
resigns himself.
(1930)
Note:
Bài Bạt tuyệt lắm. Tin Văn sẽ đi liền. Tác giả bài
viết, Tom Whalen nhìn ra 1 Walser khác hẳn với cách
nhìn chung, coi ông cùng dòng với Musil,
Broch hay Thomas Mann, thí dụ.
LI-YOUNG LEE
Folding a Five-Cornered Star
So the Corners Meet
This sadness I feel tonight is not my sadness.
Maybe it's my father's.
For having never been prized by his father.
For having never profited by his son.
This loneliness is Nobody's. Nobody's lonely
because Nobody was never born
and will never die.
This gloom is Someone Else's.
Someone Else is gloomy
because he's always someone else.
For so many years, I answered to a name,
and I can't say who answered.
With death for a bedfellow,
how could thinking be anything but restless?
Somebody thinks: God, I turn my hand face down
and You are You and I am me.
I turn my hand face up
and You are the I
and I am your Thee.
What happens when you turn your hand?
Lord, remember me.
I was born in the City of Victory,
on a street called Jalan Industri, where
each morning, the man selling rice cakes went by
pushing his cart, its little steamer whistling,
while at his waist, at the end of a red string,
a little brass bell
shivered into a fine, steady seizure.
This sleeplessness is not my sleeplessness.
It must be the stars' insomnia.
And I am their earthbound descendant.
Someone, Anyone, No one, me, and Someone Else.
Five in a bed, and none of us can sleep.
Five in one body, begotten, not made.
And the sorrow we bear together is none of ours.
Maybe it's Yours, God.
For living so near to your creatures.
For suffering so many incarnations unknown to Yourself.
For remaining strange to lovers and friends,
and then outliving them and all of their names for
You.
For living sometimes for years without a name.
And all of Your spring times disheveled.
And all of Your winters one winter.
from Image
SUJI
KWOCK KIM
Return of the Native
****
for Kang,
born in Sonchon, North Korea
Better not to have been born
than to survive everyone you loved.
There's no one left of those who lived here once,
no one to accuse you, no one to forgive you-
only beggar boys or black-market wives
haggling over croakers and cuttlefish,
hawking scrap-iron and copper-pipes stripped from factories
in the shadow of the statue of the Great Leader.
Only streets emptied of the villagers you knew,
only the sound of steps of those no longer living,
ghosts grown old, grim shadows of what they had once been:
some in handcuffs, some in hoods taken away at midnight,
some roped and dragged into Soviet Tsir trucks
driven to the labor camps that "don't exist."
Every absence has a name, a face, a fate:
but who, besides you, remembers they were ever alive?
You don't know why you were spared,
why you breathe walk drink eat laugh weep-
never speaking of those who had been killed,
as if they had never existed, as if the act of surviving
them
had murdered them.
Forget,jorget! But they want to be remembered.
Better people than you were shot:
do you think your life is enough for them?
For the silence
is never silent: it says We hate you
because you survived. No. We hate you
because you escaped.
The Sphinx found on Egyptian monuments
(called "Androsphinx" by Herodotus,
to distinguish it from the Greek creature) is a recumbent
lion with the head of a man; it is believed to represent
the authority of the pharaoh, and it guarded the tombs
and temples of that land. Other Sphinxes, on the avenues
of Karnak, have the head of a lamb, the animal sacred
to Amon. Bearded and crowned Sphinxes are found on monuments
in Assyria, and it is a common image on Persian jewelry.
Pliny includes Sphinxes in his catalog of Ethiopian
animals, but the only description he offers is that
it has "brown hair and two mammae on the breast."
The Greek Sphinx
has the head and breasts of a woman, the
wings of a bird, and the body and legs of a lion.
Others give it the body of a dog and the tail of a
serpent. Legend recounts that it devastated the countryside
of Thebes by demanding that travelers on the roads
solve riddles that it put to them (it had a human voice);
it devoured those who could not answer. This was the
famous question it put to Oedipus, son of Jocasta: "What
has four feet, two feet, or three feet, and the more feet
it has, the weaker it is?" (1)
Oedipus answered
that it was man, who crawls on four legs
as a child, walks upon two legs as a man, and leans
upon a stick in old age. The Sphinx, its riddle solved,
leapt to its death from a mountaintop.
In 1849 Thomas
De Quincey suggested a second interpretation,
which might complement the traditional one.
The answer to the riddle, according to De Quincey,
is less man in general than Oedipus himself, a helpless
orphan in his morning, alone in the fullness of his manhood,
and leaning upon Antigone in his blind and hopeless
old age.
(1)
This is apparently the oldest version
of the riddle. The years have added the
metaphor of the life of man as a single day, so that
we now know the following version of it: "What animal
walks on four legs in the morning, two legs at midday, and three
in the evening?"
OSVALDO FERRARI. Today we will
talk about beauty. But before we do so, we will transcribe your views
about the place of art and literature in our times as discussed in an
earlier conversation.
JORGE LUIS BORGES. Art and literature ... should try and free
themselves from time. Often, I have been told that art depends on politics
or on history. I think that's untrue. It escapes, in some way, from the
organized causality of history. Whether art happens or doesn't, either
depend on the artist.
FERRARI. Another matter not usually talked or thought about,
apart from the spiritual life, is beauty. It's odd that, these days,
artists or writers do not talk about what is supposedly always their
inspiration or objective, that is, beauty.
BORGES. Perhaps the word has been worn out but not the concept-
because what purpose does art have other than beauty? Perhaps the word
'beauty' is not beautiful though the fact is, of course.
FERRARI. Certainly, but in your writing, your poems, your stories
...
BORGES. I try to avoid what's called 'ugly art'- sounds horrible,
doesn't it? But there have been so many literary movements with horrible
names. In Mexico, for example, there was a literary movement frighteningly
called Stridentism. It finally shut up, which was the best thing it could
do. To aspire to be strident-how awkward, isn't it!
My friend Manuel Maples Arce led that movement against the
great poet Ramon Lopez Velarde. I remember his first book-without any
hint of beauty, it was called 'Inner Scaffolding'. That's very awkward
isn't it? (Laughs) To possess inner scaffolding? I remember
one line of a poem, if it was a poem at all: 'A man with tuberculosis
has committed suicide in all the newspapers'. It's the only line I recall.
Perhaps my forgetfulness is kind-if that was the best line in the book,
on shouldn't expect much from the rest of it. I saw him many years later
in Japan. I think he was the Mexican ambassador there and that had made
him forget not only literature but his literature. But he has remained in
the histories of literature, which collects everything, as the founder
of the Stridentist movement (both laugh). Wanting to be strident-one
of the most awkward of literary desires.
FERRARI. As we are talking about beauty, I would like to consult
you about something that has caught my attention. Plato said that
of all the archetypal and supernatural entities, the only visible one
on earth the only manifest one, is beauty.
BORGES. Yes, made manifest through other things.
FERRARI. Caught by our senses.
BORGES. I'm not sure about that.
FERRARI. That's what Plato said.
BORGES. Well, of course, I suppose that the beauty of a poem
has to appeal to our ears and the beauty of a sculpture has to pass
through touch and sight. But these are mediums and nothing more. I don't
know if we see beauty or if beauty reaches us through forms which could
be verbal or sensual or, as in the case of music, auditory. Walter Pater
said that all the arts aspire to the condition of music. I think that
is because form and content fuse in music. That is, one can tell the plot
of a story, perhaps even give it away, or that of a novel, but one cannot
tell the story of a melody, however straightforward it may be. Stevenson
said, though I think he was mistaken, that a literary character is nothing
but a string of words. Well, it is true, but at the same time it's necessary
that we perceive it as more than a string of words.
We must believe in it.
FERRARI. It must, in some way, be real.
BORGES. Yes. Because if we sense that a character is only a
string of words, then that character has not been well created. For example,
reading a novel, we must believe that its characters live beyond what
the author tells us about them. If we think about any character in a novel
or a play, we have to think that this character, in the moment that we
see him, sleeps, dreams and carries out diverse functions. Because if we
don't, then he would be completely unreal.
FERRARI. Yes. There's a sentence by Dostoyevsky that caught
my eye as much as one by Plato. About beauty, he said, 'In beauty, God
and the devil fight and the battlefield is man's heart.'
BORGES. That's very similar to one by Ibsen, 'That life is
a battle with the devil in the grottoes and caverns of the brain and
that poetry is the fact of celebrating the final judgment about oneself.'
It's quite similar, isn't it?
FERRARI. It is. Plato attributes beauty to a destiny, a mission.
And among us, Murena has said that he considers beauty capable of transmitting
an other-worldly truth.
BORGES. If it's not transmitted, if we do not receive it as
a revelation beyond what's given by our senses, then it's useless. I
believe that feeling is common. I have noticed that people are constantly
capable of uttering poetic phrases they do not appreciate. For example,
my mother commented on the death of a very young cousin to our cook from
Cordoba. And the cook said, quite unaware that it was literary, 'But Senora,
in order to die, you only need to be alive.' You only need to be alive! She
was unaware that she had uttered a memorable sentence. I used it later in
a story: 'You only need to be alive'-you do not require any other conditions
to die, that's the sole one. I think people are always uttering memorable
phrases without realizing it. Perhaps the artist's role is to gather such
phrases and retain them. George Bernard Shaw says that all his clever expressions
are the ones he had casually overheard. But that could be another clever feature
of Shaw's modesty.
FERRARI. A writer would be, in that case, a great coordinator
of other people's wit.
BORGES. Yes, let's say, everyone's secretary-a secretary for
so many masters that perhaps what matters is to be a secretary and not
the inventor of the sayings.
FERRARI. An individual memory of a collective.
BORGES. Yes, exactly that.
Bạn chỉ cần còn sống,
và nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ đụng 1 cuộc chiến khác,
khủng khiếp cũng chẳng kém: Văn Chương.
Bạn chỉ cần, chỉ cần,
chỉ cần.... còn sống!
Đám tinh anh Ngụy chết vì câu này.
Chúng chỉ cần còn sống, và tìm đủ mọi cách
để.... bỏ chạy cuộc chiến.
Lũ Triết Mít, sở dĩ chúng chọn Triết, vì
cứ học thuộc lòng cours của Thầy, là đậu, là được
hoãn dịch, là thoát chết.
Rõ ràng là, đám này không
viết được 1 cái gì cho ra hồn, là do phần đạo hạnh
của chúng có 1 vết chàm to tổ bố, làm sao
viết?
Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh. Đạo Hạnh có vết chàm
làm sao có Mỹ?
Rồi đám bỏ cuộc chiến bằng con đường du học, cũng Mắm
Sốt Kít!
Ferrari:
Dos phán, trong cái đẹp Chúa và Quỉ uýnh
lộn và chiến trường là trái tim của con người
Borges. Giống câu của Ibsen, Đời là cuộc chiến với
quỉ, ở hang cùng ngõ hẻm của cục não của con người
và thơ là sự lên ngôi của Phán Quyết
Chót của 1 con người về chính nó.
Đúng thế. Plato gán cái đẹp, cho số phần,
cho nhiệm vụ. Và giữa chúng ta, Murena phán, cái
đẹp có thể chuyên chở một sự thực “khác”
Trong cuốn tiểu luận nho nhỏ trên,
đa số là những phê bình, nhận định, điểm
sách, có hai bài viết về tuổi thơ, phải
nói là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ
post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã
mất”, The Lost Childhood, viết về những cuốn sách
mà chúng ta đọc khi còn con nít.
“Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản ứng
của con người, ở đây, là ba nhà văn hách
xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của họ, và
bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu
thấy mình giống như một kẻ đi tìm gặp một
thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc, và, tìm
hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất bỏ
được gánh nặng tuổi thơ…
Có
một người con gái rất trẻ
hỏi một người phụ nữ lớn tuổi
Đàn ông yêu như thế nào
họ yêu có khác mình không?
Người
phụ nữ ngẫm nghĩ
Tình yêu của đàn ông à?
Lạ lắm
nói thế nào cho đúng nhỉ
Thế
này nhé
Đó là một ngày
bỗng dưng
có một người đàn ông ở đâu đến
một tay cầm bó đuốc
tay kia gõ gõ lên cánh cửa
hồn mình
ngọn đuốc
cháy phừng phừng
tưởng như không có cách nào
dập tắt được
Anh
ta quơ quơ ngọn đuốc
linh hồn mình bắt cháy
thành than
Anh ta ghé xuống
sưởi cả thân thể ấm áp của riêng anh
xong
bỏ đi
quên ngay ngọn lửa
Và
đàn bà
thì muôn thủa
tiếc ngọn lửa đã đốt cháy hồn mình
thu những tàn tro
phủ lên những mảnh than còn sót lại
cố che chắn giữ cho đốm lửa âm ỉ
tự sưởi một phần đời
Cho
dù có một ngọn lửa khác đốt lên
hong ấm lại nàng
những mảnh than đầu tiên
vẫn không bao giờ tắt
Đó
là sự khác biệt về tình yêu
giữa đàn ông và đàn bà.
TMT
Note:
Bài thơ, đăng trên DM, có 1 lỗi đánh
máy, GCC chờ hoài, coi có ai nhận ra.
Nô là Nô.
Thơ bị coi rẻ là vậy.
Một cái dấu phảy thôi, mà có
thế giới, chết vì nó, như Cioran đã từng mơ
tưởng.
GCC sợ rằng, chính tác
giả của bài thơ cũng coi rẻ nó.
NMG phán về GCC, ông
ưa cầu toàn, vì cái tật, vừa gửi text đi, là
đã gửi tiếp text revised liền tù tì theo rồi.
Hồi GCC còn quan hệ thân
thiết với đám bạn văn VC, có 1 em nhận xét,
vừa nhận 1 bài viết của anh, đã có liền bài
revised, chỉ khác bài trước, đúng 1 cái
dấu phảy!
Hà, hà!
Gọi là
gì, xứ của anh?
Sau núi, sau năm?
Tôi biết, gọi là gì
Chuyện mùa đông, nó được gọi
Nó được gọi, chuyện mùa hè
Ba năm mẹ già (1) cũng đừng trông, nó
là thế
Thế nó là
Nó lang thang khắp nơi
Như ngôn ngữ
(1) Người
đi, ừ nhỉ người đi thực
Ba năm mẹ già cũng đừng trông
Thâm Tâm: Tống Biệt Hành
Là
cái gì, chuyện 1 bản văn (hay bất cứ cái chi
chi) cưỡng lại cố gắng của chúng ta khi làm cho nó
có nghĩa?
Về câu hỏi này, những bản viết của George
Steiner có vẻ như chỉ đúng hướng cho chúng ta.
Câu hỏi phơi bày cho chúng ta, tới cái
kinh nghiệm cơ bản của người dịch thuật, mà người ta có
thể tóm gọn, và nói, đây là thứ kinh
nghiệm có trước tất cả mọi kinh nghiệm, kinh nghiệm về không-căn
cước, hay về cái cá thể tối giản, hết còn đơn giản
được nữa, của mọi hiện hữu, đặc biệt là về con người và
ngôn ngữ của nó. Kinh nghiệm này thì vừa
đạo hạnh, vừa mở, nghĩa là không bao giờ chấm dứt.
Một bên thì cố gắng làm cho bên
kia trở thành thông suốt, ở bên trong ngôn
ngữ, khung văn hóa của riêng nó, nhưng bên
kia không thể nào bị khách hoá, đối tượng
hóa, theo cái kiểu này, bởi vì nó
thuộc về thế giới của riêng nó, và không
thể nào bị đánh gốc, bật rễ ra khỏi nếu không dùng
bạo lực. Cổ đại Latinh hiểu rõ điều này, khi gắn kết
dịch thuật với những chiến thắng thành phố, bắt nô lệ, và
khuân của cải về nhà – nói ngắn gọn, sự hình
thành đế quốc.
Cái
em nhà quê tuy lớn lên ở ngoài này,
đâu có hiểu rằng là, khi dịch ba thứ văn thơ ăn
cướp của VC, là cũng góp phần kiện toàn Cái
Ác Bắc Kít.
[Sorry DTBT. NQT]
Không phải tự nhiên
mà TV lại giới thiệu những tác giả như W.G. Sebald.
Cũng thế, phản ứng của 1 anh bạn văn VC ở Hà Nội,
sao cứ lải nhải hoài về Lò Thiêu, mắc mớ gì
đến Mít.
Hay của 1 độc giả TV, mi bị THNM rồi, nhìn đâu
cũng thấy VC.
May mà có em BHD, không thì
mi biến thành quỉ VC từ khuya rồi!
Cũng thế, không phải tự
nhiên “em” DTBT, ưa mơ mộng, thích vượt khoảng trống
dịch thơ LTMD, người đẹp của HPNT, thí dụ.
Trong bài phỏng vấn, do khả năng chắc cũng hơi
hạn hẹp của cả hai, cho nên chẳng người nào đề cập đến
sự nguy hiểm của dịch dọt.
Nếu không bị đám
khốn xúm lại đánh, [ngay khi Chợ Cá vừa xuất
hiện. Trận đòn hội chợ này có sự tiếp tay của
Sến. Em giả đò thương hại, khi có vài độc giả lên
tiếng bênh Gấu, sao anh không chịu đích thân
trả lời, hết xí oát rồi hả…], thì Gấu đã
tiếp tục loạt bài về dịch cho talawas.
SCN lúc đầu rất mừng, liền sau khi đọc bài
đầu Gấu gửi. Em viết mail, trước giờ, viết sâu sắc, nhưng bài
này, Dịch
Là Cướp, cho thấy khía cạnh
tức cười…. Gấu đã tính đi 1 loạt bài cho CC.
Cái tít của Sến, của Gấu dài thòng.
SCN rất có tài đặt tít. Thật gọn,
thật nổi. Cái tít “Miếng Cơm Manh Chữ” cũng của Sến
Nay nhân cơ hội, viết
tiếp.
Trước hết, giới thiệu bài của Gerald L. Bruns
Về Cái Khó, On Difficulty: Steiner, Heidegger, and
Paul Celan
Trong Ðọc Steiner, Reading George Steiner.
Cuốn này của NTV cho
GCC, ngay những ngày mới ra hải ngoại, khi thấy GCC mê Steiner
quá!
Anh cho biết, đọc Steiner từ Việt Nam, trước 1975, tại
Sài Gòn, cuốn Ngôn ngữ và Câm
lặng, nhưng không bị choáng như GCC.
Và kết luận, mi phải có Cái Ác
Bắc Kít, và nó phải thật đậm đặc đến nỗi, vừa
gặp… Cái Ác Nazi và Lò Thiêu,
là nó bùng bổ ra.
Cốm là 1 đặc sản của
Mít, nó đâu có từ đương đương để mà dịch
qua tiếng Anh?
Cũng thế, những từ “phanh”, lốp [xe], xà phòng
của Tây mũi lõ, mà dân Mít mượn.
Ðâu chỉ 1 từ cốm. Những từ áo dài,
cái nhà, nước mắm, con gái… mũi lõ chỉ
nội nghe đọc lên, là đã thèm nhỏ nước miếng
rồi.
Vậy mà dám dịch là “green rice”,
thì đúng là hiếp dâm… cốm!
Em này do sống ở ngoài này, thành
ra chưa từng nhìn thấy cái gọi là green rice,
thứ gạo hẩm, lên men xanh, bốc mùi hôi, mà
nhờ VC Bắc Kít giải phóng Miền Nam, dân Miền Nam
mới nhìn thấy và được thưởng thức.
Em cũng bày đặt mê tiếng thơ át tiếng
bom, thành ra mới dịch thơ của người đẹp và con thú
LTMD, mới dịch cái gì gì “Đạn bom rơi chẳng sợ
đâu/ Chỉ e sương ướt mái đầu lá chanh", mà
DTBT dịch “We are not frightened by bullets and bombs in the air/Only
by dew wetting our lime-scented hair”, “Tình Sầu” thành
“Meditations on Love”… thật tội nghiệp cho chữ nghĩa Việt Nam quá
chừng!!! [Trích 1 cái còm của một độc giả trên
DM].
Ðây là ăn phải Kít WJC.
Hay có thể, cũng nhắm đường về rồi.
*
GERALD L. BRUNS
On Difficulty: Steiner, Heidegger,
and Paul Celan
what is it called, your country
behind the mountain, behind
the year? I know what it's called.
Like the winter's tale,
it is called,
it's called like the summer's tale, your mother's threeyearland,
that's what it was,
what it is, it wanders off everywhere,
like language.
Gọi là gì, xứ của
anh?
Sau núi, sau năm?
Tôi biết, gọi là gì
Chuyện mùa đông, nó được gọi
Nó được gọi, chuyện mùa hè
Ba năm mẹ già (1) cũng đừng trông, nó
là thế
Thế nó là
Nó lang thang khắp nơi
Như ngôn ngữ
(1) Người đi, ừ nhỉ người đi
thực
Ba năm mẹ già cũng đừng trông
Thâm Tâm: Tống Biệt Hành
ALEXIS RHONE FANCHER
When I turned fourteen,
my mother's sister took me
to lunch and said:
***
soon you'll have breasts. They'll mushroom on your
smooth chest like land mines.
A boy will show up, a schoolmate, or the gardener's son.
Pole-cat around you. All brown-eyed persistence.
He'll be everything your parents hate, a smart aleck,
a dropout, a street racer on the midnight prowl.
Even your best friend will call him a loser.
But this boy will steal your reason, have you
writing his name inside a scarlet heart, entwined
with misplaced passion and a bungled first kiss.
He'll bivouac beneath your window, sweet-talk you
until you sneak out into his waiting complications.
Go ahead, tempt him with your new-found glamour.
Tumble into the backseat of his Ford at the top of Mulholland,
flushed with stardust, his mouth in a death-clamp on your
nipple,
his worshipful fingers scatting sacraments on your clit.
Soon he will deceive you with your younger sister,
the girl who once loved you most in the world.
from Ragazine
From
The Best American Poetry 2016
Note:
Đọc song song với Đuốc Tình
cái
giá "một nghìn bốn trăm tỉ đồng" khiến mình
nghĩ đến những sự tốn kém khổng lồ và ngu xuẩn
khác của nhân loại. thờ hồ chí minh thực
ra cũng chỉ ngớ ngẩn ngang với thờ siddharta hay jesus mà
thôi. thậm chí là không ngớ ngẩn bằng.
chúng ta đều biết rằng siddhartha thực ra là một gã
chán đời, liệt dương do chơi gái quá nhiều,
nhưng vì vẫn muốn tìm sự thoả mãn nên phải
quay ra cổ suý sự "diệt dục." còn jesus thì
rõ ràng là bị chứng vĩ cuồng nặng, và chắc
là phải hơi "thần kin...
Note:
HCM là người đương thời. Những gì ông
ta làm, đương thời kiểm chứng được, và lịch sử
càng ngày càng cho thấy, HCM là 1
tên tráo trở, lưu manh, mạt hạng. Sự kiện, ông
ta xoá thư viết bằng tiếng Tàu, đúng văn phạm
của đệ tử là Hoàng Văn Hoan, thay bằng 1 lá
thư viết sái văn phạm, do chính HVH kể, được kể lại trong
cuốn Hồ Sơ Đệ Tứ, là 1 thí dụ về tính lưu manh
mạt hạng của HCM.
Trong khi đó, Jesus là
thuộc 1 thời quá xa vời, thành ra những gì
nhân loại biết về Jesus, với tín hữu Ky Tô,
là phép lạ, với 1 tên vô đạo, thì
là ngớ ngẩn…
Những tín hữu Ky Tô,
khi họ tin vào đạo của họ, là cho họ chứ đâu
phải cho Jesus.
Nhờ niềm tin mà Czeslaw Milosz,
Joseph Brodsky, chỉ kể hai trường hợp, sống sót
hoả ngục Đỏ.
Viết như thế này, thì
đúng là tên khốn nạn, cực kỳ khốn nạn,
và nó còn chứng tỏ, đây là
do nền giáo dục vô thần của Miền Bắc gây nên.
Hậu quả sẽ rất là khủng khiếp.
Còn dài dài
những tên khốn như tên này.
NQT
Khoan nói đến tính
tôn giáo, bạn thử chỉ cho GCC, 1 tên
nhà văn Bắc Kít, mà trong văn của nó,
có cái gọi là tâm linh?
Khi mới viết, Phạm Hải Anh, khi còn
là 1 học sinh, viết từ 1 mái nhà Hà
Nội, có cái chất này, sau mất dần.
Sến? Cực độc, cực kỳ vô lễ,
thí dụ, rũ bụi cũng không thèm làm
quen
Tâm linh, tôn giáo,
không. Ngay cái tầm thường, “nhân hậu”,
cũng đếch có luôn.
Bắc Kít rất mê văn chương
Nga. Giỏi tiếng Nga không chỉ có nghĩa, bởi
vì đó là con đường tiến thân của
họ. Nhưng có 1 sự khác biệt rất “cơ bản” giữa cõi
văn Nga, và cõi văn Bắc Kít. Phải mãi
sau này, khi quá mê văn học Nga, khi ra được
hải ngoại, và có điều kiện đọc, thì Gấu mới
hiểu ra được, “mặc dù” Cái Ác Á Châu,
văn học Nga vẫn sống sót, chính là nhờ niềm
tin Ky Tô ở nơi họ.
Cái chết của Bắc Kít,
chính là ở chỗ này, mặc dù - lại
mặc dù – bốn ngàn năm văn hiến, Bắc Kít
không có niềm tin tôn giáo.
Lịch sử Nga là một
lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm
sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì
đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi
dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái
gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng
ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành
ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là,
Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là
cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào
khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa
Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian.
Đọc nó, Gấu bèn nhớ
tới Hồ Hữu Tuờng và giấc mơ Đức Phật sẽ trở lại với
xứ Mít của ông, trong Trầm Tư của 1
tên tội tử hình.
Nên nhớ, HHT là người
Miền Nam.
Bắc Kít không hề, không
thể có 1 giấc mơ như vậy.
Không phải tự nhiên mà
TTT, khi viết về Trầm Tư, đã nhắc tới giấc mơ của
HHT và liên hệ nó, với đồng bằng Bắc Kít,
bờ nhiều hơn ruộng.
tôi rất ghét
jolie. đã xấu lại còn ngu. mồm nhìn như cái gạt
tàn. tha về nhà một đống trẻ con, chỉ vì muốn được
tôn làm thánh. cứ tưởng thế là hay, nhưng thực
ra là rất ích kỷ. các nghiên cứu khoa học đã
chứng minh rằng càng tiếp xúc nhiều với trẻ con thì
đàn ông càng dễ liệt dương, và chán đời.
chúc mừng brad. hãy như brad, hoặc chính xác
hơn là không thể không như brad, nếu ở địa vị của chàng.
Note: Tên Bắc Kít
này, não cũng bị thiến một mẩu.
Bữa trước, lướt net, đọc, thấy hắn cũng đi 1 đường về Jolie, "cứ
nghĩ mình là Thánh Teresa"!
Theo GCC, có cái phần Thánh, của
Mẹ Teresa, ở Jolie, nếu bạn coi 1 số phim của Jolie, thí
dụ A Mighty Heart (2007), hay In the Land of Blood and Honey,
which depicted a love story set during the Bosnian
War, nhưng không có cái gọi là
Flesh, mà mọi thằng đàn ông phải lặn xuống
đó để gặp nhân loại, ở Mẹ Teresa.
Nhặt những đứa trẻ mồ côi
về nuôi, mà là rất ích kỷ? Tiếp xúc
con nít nhiều, liệt dương? Jolie, xấu, ngu, miệng như cái
gạt tàn?
Tên khốn này "có vẻ" rất nhơ bẩn,
khi viết về phụ nữ?
Giống y chang tên Lăng Băm, sống thì núp
váy đàn
bà, mở miệng ra là nói nhơ bẩn về đàn bà.
Cái chất này ở mọi tên Bắc Kít đều có, do nó, mà
ra 1 ông bố Bắc Kít tàn bạo, ở trong MCNK,
thí dụ.
Hay ông bố BHD, của GCC!
Ông bố của Kafka!
Playboy
Sept 2016
Playboy
Oct 2016
Thịt [tươi, sống]
Every man must
descend into the flesh to
meet mankind.
Mọi thằng đàn ông đều phải
lặn vô đó,
để gặp... Chúa
Playboy
June 2016
[Đó: Nơi
chốn âm u và ẩm ướt, cái cửa mở ra mọi siêu
hình học và tôn giáo, nơi Thượng
Đế thường xuyên ẩn nấp...]
-G.K Chesterton, 1910
Có
thể nói, câu của Chesterton, trên đây,
là nói về Jolie!
Miệng rộng như cái gạt tàn!
UI chao lại nhớ câu nói cửa miệng của Bắc Kít,
đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà!
Search Tin Văn, ra đoạn sau đây về "thánh nữ" Jolie.
Tra nguồn, thì từ Gió-O, trích
từ 1 trang net nào khác
…Angeline Jolie và Brad Pitt,
sau khi đi đến tận một quốc gia ở Nam Phi để sinh con, đã
cho những tờ báo lá cải này đăng bức hình
của con gái cùng với hình Brad Pitt đi theo
Angelina Jolie như một con chó con, chỉ thiếu có cái
đuôi ngoắc ngoắc, trông bỉ mặt nam nhi hết sức.
Tại sao những tờ báo này không
biết rằng càng săn đuổi, những tên tuổi nổi tiếng
ở Hollywood càng
làm cao, càng giả bộ chạy trốn?
Chuyện săn đuổi là chuyện kiếm cơm. Báo
lá cải nào mà chẳng sống nhờ săn đuổi.
Tuy nhiên, riêng với Jolie, có
lẽ còn vì lý do khác nữa.
Cô đào này thiện tâm chẳng
thua gì công nương Diana.
Không biết nhà biếm văn nổi tiếng có
biết điều đó không?
Một tờ báo Tây còn lấy làm
sợ hãi cho anh chàng chỉ thiếu một cái đuôi
ngoắc ngoắc: Dám làm một "thánh nữ" mang bầu?
Hãy coi chừng cái mạng!
Nhân chuyện con nít,
Gấu mới đọc 1 bài viết về những đứa trẻ mồ côi của sự
tiến bộ, bất giác nhớ lại cái thời còn
con
nít ở xứ Bắc Kít, giả như không có 1 bà
cô làm me Tây, được ra Hà Nội ăn học rồi
nên người, thì không biết số phận của mình
ra sao.
Trên tờ Guardian, 23-29 Sept, 2016, có
bài viết về Le Carré. Carré nhắc đến Thầy của
ông, là Greene, nhắc đến cái gánh nặng
tuổi thơ ở nơi nhà văn.
GG tells us that childhood is the credit balance of
the writer. By the measure at least, I was born a millionaire.
Trong cuốn
tiểu luận nho nhỏ trên, đa số là những phê bình,
nhận định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi
thơ, phải nói là tuyệt cú mèo. Tin Văn
sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood,
viết về những cuốn sách mà chúng ta đọc khi
còn con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu,
tuyệt hơn, phản ứng của con người, ở đây, là ba nhà
văn hách xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của
họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng
này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống
như một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc,
và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu
đó hất bỏ được gánh nặng tuổi thơ…
Trong khi Hungary
và các quốc gia cựu CS tại khu vực Trung Âu phản
đối dữ dội kế hoạch phân bổ người tỵ nạn theo hạn ngạch của EU,
thì truyền thông quốc tế cho hay, Cộng hòa Czech
đã tiếp nhận 8 (tám) người tỵ nạn, nâng tổng số người
tỵ nạn mà nước này cưu mang trên cơ sở chương trình
tái định cư EU lên tới... 12 người. http://nhipcauthegioi.hu/…/Cong-hoa-Czech-NHAN-NGUOI-TY-NAN…
Note: Trên
Guardian, số cuối tuần, có 1 bài về
Bà Tông Tông Đức, về vấn đề này, tuyệt.
Cứ như
là/Đúng như là, Đức Quốc tự phát minh
ra nó sau cuộc chiến, hoàn tất thống nhất, đây là
thời điểm quyết định, xác định.
Ui chao, đọc mà thèm!
Mít phải thành công!
Bạn phải tưởng tượng ra 1 em
văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài
Gòn, và khóc, thì mang theo 1 cái
máy camera, và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.
Vào ngày
21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka
- một người đàn ông với cái camera, nửa đêm
nhận được cú phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô
Viết đã vượt biên giới vô Czechoslovakia. Cùng
lúc, là những phi cơ vận tải với những binh đoàn
nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo.. hạ cánh
xuống phi trường Ruzyne, ngoại vi Prague. Ðây là
1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh
sĩ thuộc Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK,
và lời bảo đảm của thượng cấp, chuyến đi này không
phải là "xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp
ứng lời kêu gọi “giải phóng” MN của MTGP!
Mùa Xuân
Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú
đặt cọc cho mớ võ khí nặng sau cùng đã
đào mồ chôn Ðế Quốc Xô Viết.
Tôi rời Quân
đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó là
ban đêm. Chúng tới ga Belorussky Rail Terminal, và đi
bộ dọc theo phố Tverskaya Street nhắm hướng Kremlin. Chúng tôi
đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung
hăng. Chúng tôi gặp một ông già, một
cựu binh từ Ðệ Nhị Thế Chiến.
-Sao tụi mi la lớn thế?
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi tôi vừa giải phóng Prague.
Ông già quạt lại:
-Câm miệng, thằng ngu. Mi không
biết cả những gì mà mi đang nói đó.
Và đó đúng là
một lời phán lương thiện nhất về cuộc xâm lăng
Prague mà tôi đã từng nghe được.
-Ðảng không
dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng
ông cách ăn cướp.
Note: Bài
viết này, tờ Người Nữu Ước hết cho đọc free.
May quá, Tin Văn đã chôm rồi!
On August 21, 1968, in Prague,
Josef Koudelka-a man with a camera, received a middle-of-the-night-phone
call from a friend.
Soviet tanks had crossed the border into Czechoslovakia.
Simultaneously, transport planes were delivering paratroopers,
light tanks, and other artillery to Ruzyne airport, on the outskirts
of Prague-part of a force that would eventually comprise more than
two hundred and fifty thousand Warsaw Pact soldiers, each equipped with
a Kalashnikov and the assurance of his commanders that their mission
was not an invasion but a response to a Czech invitation to a "liberation."
This was how the Prague Spring ended: the down payment on the heavy
equipment that would ultimately dig the Soviet Union's grave.
Koudelka spent the next week
in the streets, breaching barricades, climbing aboard tanks,
and witnessing the peaceful outrage and incredulousness of his
compatriots, the sporadic violence of the invaders (more than
a hundred Czech citizens died), and the peculiar bewilderment of
those invaders. The resulting images established his reputation
as one of the most gifted photographers of his time. Friends smuggled
his film out of the country, and facilitated its publication. Still,
it would be sixteen years-until the death of Koudelka's father, who
had remained in Czechoslovakia after his son immigrated to London-before
he considered it safe for the work to be identified as his. And it
would be forty-three years-until earlier this month-before all the
photographs could be seen by anyone in Moscow with some free time and
fare for the Metro.
Three years ago, 'Invasion 68 Prague," an exhibition
organized by the Aperture Foundation, opened, in Chelsea. It has
since travelled to five countries. The show in Moscow, reconfigured
for the Lumiere Brothers Center for Photography, had been more than
a year in the planning, yet it seemed to catch Koudelka- white-haired,
live-wired, a hopeful skeptic in perpetual motion-in his own state
of mild incredulousness. "I never believed this exhibition could be in
Moscow," he said. ''1' d like the young people who come to see it to see
their own faces in the faces of these young Russians, who were their fathers
or grandfathers, and to do everything in order to never be invaders."
In several photographs, this metaphor repeats-unarmed
citizens eye to eye, at times debating, with soldiers who, even
as they grip their weapons, appear disarmed by circumstance. "These
soldiers were a little bit younger than me," Koudelka continued, "and
I felt that it could have been me in their place. I lived in the same
system. I could have been awakened one night, put on a plane and then
on a tank with a machine gun in my hands. We talked with the Russian
soldiers and they started to understand. But a soldier is a soldier. He
has to obey orders."
Among the luminaries in the crowd was Natalya Gorbanevskaya,
the Polish-Russian poet, whose decision, four days into the invasion,
to participate in a protest in Red Square earned her twenty-six months
in a Soviet psychiatric prison.
Meanwhile, an unheralded attendee was Boris Valentinovich
Shmelyov, a Moscow pensioner who had heard about Koudelka's show
from Josef Pazderka, a Czech journalist and editor of an oral
history of the invasion, “Invaze 1968. Rusky Pohled" ("Invasion
1968. The Russian View"), published this year. Two days after the
opening, the two of them returned to the gallery for a quiet second
look. In the summer of 1968, Shmelyov, then twenty, was a paratrooper,
based in Lithuania. He arrived in Prague during the first wave of transport
flights. Like Koudelka, he owned a camera, which he used to photograph
his fellow-soldiers and, on occasion surreptitiously, his commanders.
The camera was confiscated, but he hid the film inside a radio. Several
Shmelyov photographs illustrate his chapter in "Invaze 1968."
The first image in the gallery that he approached
was among Koudelka's bleakest: bloodstained pavement, flowers,
a sign declaring that on that spot a Soviet soldier had shot and
killed a fourteen-year-old boy. 'When I saw that the other day,
I remembered having seen it before," Shmelyov said. As he proceeded
through the exhibit, he recognized archetypes. The flat gaze of
a solitary soldier, holding a rifle, wearing a helmet. 'This is
a country boy," Shmelyov said. "He's afraid, he doesn't know what to
do, and he knows it."
A Czech in a black leather jacket confronts a soldier
standing atop a tank. Two other soldiers are either clambering
from the hatch or escaping inside. Dense black smoke rises from
burning vehicles nearby. The man in the jacket spreads its lapels,
exposing his chest, perhaps daring his opposite to shoot. 'They're
defending the tank," Shmelyov said. "They're responsible for it and
might be punished for letting it burn. They're chaotic and scared."
He continued, "I left the Army in December, 1969.
I returned to Moscow by train. It was nighttime. We arrived at
Belorussky Rail Terminal and walked along Tverskaya Street in the
direction of the Kremlin. We were drunk and boisterous. We saw an old
man, a veteran, an officer from the Second World War. Why do you shout?'
he said to us. One of the fellows with me said to him, 'Get lost, old
man. I was liberating Prague.' The old man replied, 'Shut up, you idiot.
You don't know what you're talking about.' And that was the most honest
appraisal of the Prague invasion that I ever heard."
-Mark Singer
Note: Ðọc bài này
thì lại phải đọc bài thơ của TTT, mới đủ bộ!
Hãy cho anh khóc
bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim, em một trái tim
Chúng kéo đầy đường, xe tăng, đại
bác...
Khúc cuối bài viết,
đọc, GCC lại nhớ đến bạn văn VC Bảo Ninh, và cái xen nhân
vật của anh bị 1 đấng ăn mày Hà Nội xin đểu:
-Ðảng không dạy mi cách ăn xin
hử?
GCC trả lời thay tay cái
bang Hà Lội:
-Không! Ðảng chỉ dạy cách ăn cướp!
Bài này,
nữa, nằm trong loạt bài viết song song với BL
Buổi sáng mùa đông
ngây ngất, trưa còn xa.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên
vỉa hè nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp.
Bếp Lửa
It is a mistake to think of Oliver
Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens
learn how to write realistically of human beings; at the beginning
he invented life... these characters in Oliver Twist are simply
parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called
"the cold wet shelterless midnight streets of London."
Graham Greene: The Young Dickens
Thật lầm lẫn khi coi Oilver Twist là một câu chuyện hiện
thực. Chỉ muộn màng trong nghề Dickens mới đành phải
học, làm thế nào viết về những con người một cách
hiện thực; lúc thoạt vào nghề, ông phịa ra cuộc
đời... những nhân vật trong Oliver Twist giản dị
chỉ là những phần của một khung cảnh lớn được bịa đặt ra, mà,
trong lời mở đầu của chính tác giả, ông gọi là
"những con phố nửa đêm không nơi trú ẩn, ướt, lạnh
của London".
G. Greene: Dickens trẻ
Tôi tin rằng, những người Hà Nội bây
giờ, đọc Bếp Lửa, sẽ nghĩ, đây
là một chuyện phịa, theo nghĩa, không hiện thực!
Tôi tự hỏi, đoạn văn trên có
ảnh hưỏng tôi không, bởi vì chắc chắn tôi
đã đọc Bếp Lửa, trước khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn.
"Hà Nội... tiếng khóc nức nở của một
cô gái đi chợ bán rau muống sớm, bị Tây
hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy
một thân hình rũ rượi, một dòng nước nhờn lẫn
máu chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ quạng tìm cách
che bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc. Tiếng rên
rỉ của một người đàn ông ăn mặc khác thường bị trúng
đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa đường phố, đứa bé bật khóc
nức nở, không phải sợ hãi, không phải…"
Những ngày thì ở Sài Gòn,
nhưng những kỷ niệm, thì là của Hà Nội. Chính
vì vậy, mà một ông bạn mới quen sau này,
ở hải ngoại, khi đọc xong tập truyện đầu tay của Gấu, đã lắc
đầu: Treo đầu dê bán thịt chó!
Về cái vụ cô gái bán
rau muống bị Tây hiếp, Gấu nghe ông cậu, cậu Hồng,
cùng tuổi Gấu, con Bà Trẻ, lúc đó cũng
trọ họ ở Hà Nội, nơi nhà chị Giậu, vợ ông Hiếu
Chân, tại Bạch Mai, kể lại. Thực sự Gấu không tận mắt
chứng kiến.
Người đàn ông bị giết nằm ngay bên
đường xe điện cũng nghe kể lại.
Cộng, kỷ niệm thực với hồi ức đọc, ra đoạn văn của
Gấu, chắc thế.
Nhưng bị thằng bé đánh giầy chơi mất
chiếc mũ dạ, là có thật. Đến bây giờ, về già,
lâu lâu trong giấc mơ, vẫn còn trở lại:
[Khúc này
Hải Âu mê lắm, hà, hà!]
Nhà tôi ở Bạch Mai,
gần ngay bên đường xe điện... Một lần trốn vé xe, tôi
cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng
để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói,
nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua
vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc
béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm
cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc
bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh
mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn
chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc
đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú.
Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một
đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi
hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh
giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát
thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng
tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên,
và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn
tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn
tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào
thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người
soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó
đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường
nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám
nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi
nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó
nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn
tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi
thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu
tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng
thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh,
chỉ sợ nó nhận ra tôi. Những con dã tràng
*
Đoạn văn tả cuộc nói chuyện
giữa ông Chính và Tâm, và nói
rộng ra, toàn thể chương I của Bếp Lửa, đã tiên đoán,
sửa soạn cho mọi biến động diễn ra sau đó. Tất cả những nhân
vật quan trọng đều xuất hiện, và nhất là, hồn ma
của một bà mẹ, cũng xuất hiện. Nhưng không thể thiếu
nhân vật, tuy thứ yếu, nhưng đóng vai xúc tác,
không có là phản ứng hóa học không
thể xẩy ra. Nhân vật xuất hiện chỉ một lần rồi bỏ đi vĩnh viễn,
bởi đã hoàn tất phần số của nó: Mưa.
Mưa Hà Nội.
Tác giả, miêu tả những xúc động
của hai nhân vật, hai thế hệ "gần nhau nhất cũng không
thể hiểu nhau", bằng âm thanh, cường độ của trận mưa.
Chi tiết là Thượng Đế ở trong
văn chương là như vậy.
Bạn nào đã từng xem
phim OK Corral, chắc là còn nhớ,
trước khi xẩy ra trận thanh toán, nhân vật chính
ra thăm thú nơi mình có thể chết. Như tình
cờ, anh ta châm ngọn đèn dầu trên chiếc xe. Khi
trận đấu súng xẩy ra, anh ta bắn vô cây đèn,
chiếc xe bốc cháy, đám người ẩn sau nó phải
chạy ra.
Trong phim Shane, hình ảnh
con chó từ từ rời khỏi chỗ, nhường sàn gỗ cho hai
tay đấu súng.
Mưa trong Giã Từ Vũ Khí
của Hemingway.
Bùn trong Bẩy Hiệp Sĩ, Seven
Samourai...
Với bậc thầy, cái sự sửa soạn
mới là cần thiết, mới là quan trọng.
Trong Kim Dung, Lãnh Nguyệt Bảo
Đao, cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa Miêu Nhược Lan và
Hồ Phỉ, xẩy ra, khi ông bố Miêu Nhân Phượng bế
con gái chạy theo vợ, bỏ đi theo trai, đuổi kịp tại Thương Gia
Bảo khi tất cả mọi người bị cơn mưa cầm chân. Cô bé
khát sữa mẹ, khóc ngất, bà mẹ rời tình
nhân, đi vài bước tới tính cho con bú, nhưng
tàn nhẫn quay ngược lại, ngồi xuống kế bên đống lửa,
kế bên anh bồ đẹp trai. Thằng oắt Hồ Phỉ cáu quá,
chạy ra mắng, tại sao lại có người đàn bà tàn
nhẫn như thế, Miêu Nhân Phượng nhìn, nản quá,
bèn bế con trở về, tha cho cả hai.
Sau đó, trong lần gặp sau cùng, cô
nói với anh: Tôi sẽ không như mẹ tôi đâu.
Như thể, cô nhìn thấy và còn
nhớ hoài, cảnh tượng lần đầu gặp nhau tại TGB.
Cuộc gặp gỡ giữa cô bé còn nằm
trong nôi, với người yêu còn là thằng
nhóc tì làm Hai Lúa nhớ đến bài
ca dao sau đây.
Sao Vua chín cái nằm kề, Thương
Em từ thuở Mẹ về với Cha. Sao
Cày ba cái nằm ngang, Thương
Em từ thuở Mẹ mang trong lòng. Sao
Vua chín cái nằm chồng, Thương
Em từ thuở Mẹ bồng trên tay. Sao
Cày ba cái nằm xoay, Thương
Em từ thuở Em hay khóc nhè.
Và nhớ luôn cả vẻ mặt
của ông bạn thân, và còn là
người đưa thư, khi thấy thằng bạn mình mê BHD:
-Làm sao mà mày có thể
mê nó? Tao đã từng thấy nó ỉa đùn,
từ trên đầu cầu thang chảy xuống tới mãi mấy bực bên
dưới hồi nhà nó còn ở đường PDP.
Nhưng cái kỷ niệm sau đây,
nhờ NTV mà Gấu nhớ lại được, thì thật là
tuyệt vời, chưa kể cái kỷ niệm, lần cả hai đứa xém
chết vì lên xóm
John
Le Carré, Gấu cũng tự mình khám phá
ra, cũng một cú tự sướng, lần ghé tiệm Xuân
Thu, kế bên Quán Chùa, tình cờ cầm lên
cuốn L’espion
qui venait du froid, Gián điệp về từ miền lạnh, vừa
đọc đến ‘du froid’ một phát, là lạnh run người, con vai-rớt
Bắc Kít, bật nhỏm dậy, bao nhiêu sợi nắng, sợi mưa
Sài Gòn cũng chịu thua, hà, hà, đúng
là tâm trạng đó, cú mặc khải đó,
khi Gấu bập vô cuốn truyện.
Rồi mò tới Gọi người đã chết, bản
tiếng Tây, loại sách bỏ túi đóng dấu
IC, giá tiền bằng giá tại gốc,10 đồng, tiền ông
Diệm, đọc thì đọc, nhưng không cảm.
Phải tới khi vô nhà tù quốc
tế Bangkok, nhờ bản tiếng Anh, của một tay thanh niên người
Mã Lai, nằm kế bên, thì mới thấm đòn, và
nhận ra, đây mới là cuốn hiển hách nhất của Le
Carré.
Ui chao,
bạn đọc đoạn sau đây, khi Smiley bị vợ bỏ, ông bạn
VC người Đức tên Dieter thì lại tha thứ cho anh, không
thèm làm thịt, và gieo mình xuống sông
Tà Mi tự trầm, rồi nghĩ đến những thân phận PXA, thí
dụ, bị chính cái Miền Bắc của anh bỏ rơi, sau khi
vắt sạch, chết không nổi, cứ ngắc nga ngắc ngoải, vì địa
ngục chật quá rồi, và cỡ như anh, Diêm Vương
cũng lắc đầu không dám nhận, hay nghĩ đến thân phận
thằng cha Gấu, cũng sắp đi rồi, mà đi về đâu, về đâu…
hà, hà?
Smiley put this on one
side and turned to the next letter. Just for a moment he did
not recognize the handwriting; just for a moment he looked bleakly
at the Swiss stamp and the expensive hotel writing paper. Suddenly
he felt slightly sick, his vision blurred and there was scarcely strength
enough in his fingers to tear open the envelope. What did she want?
If money, she could have all he possessed. The money was his own, to
spend as he wished; if it gave him pleasure to squander it on Ann,
he would do so. There was nothing else he had to give her - she had
taken it long ago. Taken his courage, his love, his compassion, carried
them jauntily away in her little jewel case to fondle occasionally
on odd afternoons when the time hung heavy in the Cuban sun, to dangle
them perhaps before the eyes of her newest lover, to compare them even
with similar trinkets which others before or since had brought her. My darling George. I want to make you an
offer which no gentleman could accept. I want to come back to
you. I'm staying at the Baur-au-Lac
at Zurich till the end of the month.
Let me know. Ann Smiley picked up the
envelope and looked at the back of it: 'Madame Juan Alvida'. No,
no gentleman could accept that offer. No dream could survive the daylight
of Ann's departure with her saccharine Latin and his orange-peel
grin. Smiley had once seen a news film of Alvida winning some race
in Monte
Carlo. The most repellent thing
about him, he remembered, had been the hair on his arms. With
his goggles and the motor oil and that ludicrous laurel-wreath
he had looked exactly like an anthropoid ape fallen from a tree.
He was wearing a white tennis shirt with short sleeves, which had
somehow remained spotlessly clean throughout the race, setting off
those black monkey arms with repulsive clarity. That was Ann: Let me
know. Redeem your life, see whether it can be lived again and let
me know. I have wearied my lover, my lover has wearied me, let me
shatter your world again: my own bores me. I want to come back to
you ... I want, I want ... Smiley got up, the letter
still in his hand and stood again before the porcelain group. He remained
there several minutes, gazing at the little shepherdess. She was so beautiful. * Đoạn hai tay kẻ thù
bạn cũ đụng độ trên cầu, trên sông Ta Mì,
cũng thật là tuyệt cú mèo: Anh ta [Dieter] đi rồi,
bầy mình ra, như một sự hy sinh của con người cho sương mù
London và dòng nước khùng điên, đen
ngòm ở bên dưới... [He was gone, offered
like a human sacrifice to the Lodon fog and the foul black river
lying beneath it.] Chắc là đành
phải 'như một cú hi sinh con người', và lụi cụi dịch
hết cuốn truyện này thôi !
- Mỗi người, ông và
nàng, cầm một đầu tấm thảm. Nàng ngửa mặt ra phía
sau, vung cao hai tay như trên một cây đu, nàng
quay đầu để tránh bụi bay mù, nàng nheo mắt
và cười ha hả phải không? Phải vậy không ông?
Tôi biết thói quen của nàng quá mà?
Sau đó hai người đi lại phía nhau, gấp tấm thảm lại
thoạt đầu gập đôi, sau đó gập tư, và trong lúc
làm việc đó, nàng luôn miệng nói
đùa và nô giỡn chứ gì? Phải vậy không
ông? Phải vậy không ông? Bác sĩ Zhivago [VN thư quán] Đây có
lẽ là đoạn tuyệt vời nhất, ít ra là với Gấu,
của cuốn tiểu thuyết. Anh chàng VC Nga,
Người Thép, Strelnikov, bị Đảng săn lùng làm thịt,
trở về căn nhà ngày nào của mình, gặp Zhivago.
Hai người đàn ông tranh nhau nói về người đàn
bà. Câu văn trên
Gấu đọc, là nhớ liền, không làm sao quên
được. Có một cái
gì đó, ở trong câu văn, một hình ảnh
nào đó, làm Gấu nhớ hoài. Chỉ tới khi về già,
Gấu mới hiểu. Gấu đã từng tưởng tượng ra cảnh này.
Bạn
đọc Tin Văn thử đoán coi?
Chắc là thua. Đọc đoạn trên, là Gấu nhớ đến lần
nhờ một anh bạn đem thư cho BHD, anh ta vô nhà, mải
nói chuyện với ông anh của BHD, quên mẹ thằng
Gấu ở ngoài, khi ra về, thấy Gấu thật là tang thương
xơ xác trên chiếc xe đạp, chờ như chờ từ ngàn
ngàn kiếp!
Để chữa... quên, anh ta còn lầu bầu, tao bị em của
mày sai như nô lệ, anh V, giúp em khiêng
cái giường!
Chả là em mới dọn nhà.
Ui chao, cứ nghĩ đến cảnh được phục vụ em, mà thèm!
(1)
(1)
Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè
Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi. Cú trước
khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra đi.
Một ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali,
thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn
bèn đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng
thêm bực mình. Và bèn mail trả lời ông
bạn, cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu,
sẵn bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương
cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình,
nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho
một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông
Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao
biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi
vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả
lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử...
tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán
của mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm
thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu
dặn, vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho
tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải
trò chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên
ngoài, khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều,
tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên
chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê lương
không thể nào tưởng tượng được.
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là
đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn
đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...
chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn
cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó
không thèm cất đi, mà lại để ngay trên
bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà,
từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay,
khiêng cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ ông via
của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì
em của mày coi tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng
cái giường cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm
thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược,
mặt mày méo xệch?
Sướng chưa! Kỷ niệm
Note:
Thi sĩ Hà Tuệ còn là thính giả đầu
tiên nghe thơ TTT được phổ nhạc, ở trong nhà tù
VC
Đầu năm 78 ở Lào Kay
lần đầu tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ
tôi viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê
ngoại sống, không còn ở Sài Gòn nữa"),
tôi như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩ
viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và
gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không
còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi
bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền: Trong Đất Trời Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa
Xuân 1998].
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong
nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh
lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào
đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song
tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá
heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình minh anh kêu khẽ
cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng
tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối
thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền Thơ Ở Đâu Xa
Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi
sĩ Ý.
Ghi chú của người sao lục:
Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua
thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo,
đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa
bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả [Thính giả?] đầu tiên của bài
thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham, như tác
giả Nắng Hồng Phương Nam cho biết.
Trong đất trời nhau, là từ
thơ Mai Thảo: Trong đất trời nhau mình vẫn gần. Biết tin
anh đi xa, là để chỉ Mai Thảo đã vượt thoát.
Quê ngoại là hải ngoại.
... Hôn thụy, ngủ mê, như Gấu tôi
được biết, là chữ của Tô Thuỳ Yên, khi chuyển
từ "coma" [hôn mê] sang tiếng Việt. Trong một lần hai
anh em ngồi Quán Chùa, TTT tâm đắc với từ này,
và gật gù, 'luý' dịch từ này, hay thật!
Nhưng phải đợi đến đầu năm 87 ở Lao Kay, lần đầu tiên
nhận được tin nhà, biết Mai Thảo đã vượt thoát,
Thanh Tâm Tuyền mới chợt tỉnh giấc hôn thụy, và
chúng ta mới thấy hết ý của lời khen của TTT dành
cho bạn mình là Tô Thuỳ Yên [luý
dịch hay thật!].
Một lời khen biến thành một lời tiên tri,
cho số phận của ba nhà thơ.
- Mai Thảo, chắc chắn là nhận ra được lời nhắn
gọi của bạn mình [Trong thơ tui có thơ anh], nên
đã trở lại với thơ, nhờ vậy chúng ta có Ta Thấy
Hình Ta Những Miếu Đền.
- Tô Thuỳ Yên tiếp tục làm thơ,
và có Ta Về.
- Thanh Tâm Tuyền, có Thơ Ở Đâu
Xa.
Toàn bài thơ là từ "chợt tỉnh
giấc hôn thụy", mà ra:
Sáng nay, thức giấc, nhà giam
Nhớ thơ làm hồi trẻ
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh
lẽo.
Cũng qua cơn hạn khác thường...
Note: Bài thơ này, Gấu mê
nhất, trong Thơ Ở Đâu Xa
Em, em có hay kẻ tội đồ
biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng
tối sâu thẳm
Hello. Ong TRU.
Khi nao qua Cali, mua ve may bay chua?
Nho la xuong fi truong John Wayne nhe !
Chưa, nhưng cỡ đầu tháng 11, qua, sure
Tks
NQT
Nguyễn Quốc Trụ
Dương Nghiễm Mậu:
Thật chững
chạc, thật cảm động
Dương Nghiễm Mậu, ký
họa của Tạ Tỵ
Nhớ đó là một
buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé thăm một diễn đàn
bạn. Người bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi
kéo ghé ngồi hút thuốc lá thấy
ở bên cạnh mình một cái sọt rác
đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và
liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt lên những tờ bản thảo
bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận
đáy cái sọt rác ấy là bản thảo một truyện
ngắn.
-Bỏ đi tất cả đấy à?
-Ừ đã đọc rồi bỏ không đăng.
-Moa lấy đi được không?
-Để làm gì vậy?, người bạn ngạc nhiên
hỏi.
-Mặc moa, tôi nói và cất cẩn
thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn
bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó
nguyên văn không sửa một dấu phẩy trên tờ
Sáng Tạo số đang làm.
(Mai Thảo, Chân Dung nhà văn).
Trong thế giới văn chương, những
trường hợp như trên không nhiều, nhưng cũng không
phải là quá hiếm hoi. Bel Kauffman, tác
giả cuốn Lại lên cầu thang đưa xuống En remontant
l'escalier qui mène en bas, kể lại, một bữa bà
đưa con đi coi xiếc, trên đường đi, bà mua cho
con một trái bóng bay. Đứa bé từ lúc
đó, chỉ mải mê phiêu lưu cùng chiếc
bong bóng bay trên trời, chẳng thèm để ý
đến những chú voi khổng lồ đang diễn trò. Và
bà chợt nhận ra, đứa con đã nhìn thấy nhiều hơn
là những đứa trẻ khác đang cùng ngồi trong rạp.
Trường hợp En remontant cũng thật ly kỳ: tiền thân của
nó là mấy mẩu giấy học trò, trong một giỏ
bỏ giấy vụn, tại một trường tiểu học tại New York; một ông
Mai Thảo nào đó tò mò lượm lên, rồi
được một nhà xuất bản New York đăng (1962). Cuộc phiêu
lưu của mấy mẩu giấy vụn chưa chịu ngưng ở đó: nó
biến thành những chiếc bóng bay, khi một nhà
xuất bản lớn tình cờ đọc mẩu chuyện nho nhỏ, và
đã đề nghị tác giả viết lại, từ bốn trang giấy
vụn.
Đề tài
trong En remontant (theo tờ Thời Mới, Temps Nouveaux, một
tạp chí tiếng Pháp của Liên-xô)
có thể tóm gọn: giữa Sự Thực và Tình
Thương, cái nào hơn? Câu trả lời: Tình
Thương.
Trí nhớ
thường lầm lạc, có khi còn do cố ý, hoặc
tiềm ẩn, hoặc hiển nhiên; đây là một trong
những bản năng của con người, luôn luôn muốn tái
tạo quá khứ, cho những nhu cầu hiện tại. Trong Chân
Dung nhà văn, cùng bài về Dương Nghiễm
Mậu, Mai Thảo viết... kỷ niệm với mỗi người mỗi khác,
(với) Thanh Tâm Tuyền, (là) căn gác xép
ám khói ở Tòa soạn Dân Chủ (của Vũ
Ngọc Các, thập niên 1960), hắn hỏi xin một điếu
thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ. Trong
khi đó, qua bài viết của Thanh Tâm Tuyền trên
tạp chí Thơ (số Mùa Xuân 1998), nhà thơ
nhận ra bạn mình ngay lần gặp mặt đầu tiên, sau khi
nhận được một bản thảo đánh máy... Liếc nhìn
dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình
kinh ngạc...
Còn điều
này nữa, cơ duyên truyện đầu tay, nhiều khi tự
nó đã là một giai thoại. Như sau đây,
tôi viết lại theo trí nhớ. Qua kể lại của Simone
de Beauvoir, Sartre trong khi viết Buồn Nôn, La Nausée,
lúc nào cũng cảm thấy có “cua bò
trên lưng”! Gửi bản thảo tới nhà xuất bản Gallimard,
bị chê: phần đầu ảnh hưởng Dostoevsky... một cuốn tiểu
thuyết bình dân! Sartre thời gian đó, suốt
ngày chầu chực ở văn phòng nhà xuất bản;
một bữa ông đang ngáp gió, thấy một ông
vô, trong khi nói chuyện với bè bạn, ông
này lấy thuốc lá, loay hoay tìm hộp quẹt,
Sartre nhanh nhẩu tới làm cử chỉ đẹp. Ông này
hỏi, xin lỗi ông là ai, Sartre tự giới thiệu. Hóa
ra là Jean Paulhan, ông chủ tiệm. Phần tiếp theo,
chắc các bạn đoán ra được...
Trường hợp Dương
Nghiễm Mậu, giả sử Mai Thảo không buồn tay, có
thể chúng ta vẫn có một Dương Nghiễm Mậu, nhưng
thiếu Rượu Chưa Đủ, thì thật là
một vô cùng thiếu sót. Bởi vì đây
là một truyện ngắn, như một loài chim hiếm quí,
khi nó xuất hiện, văn chương sẽ... không còn
như trước nữa!
Trong kho chuyện
cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông,
đánh lên không nghe, nhưng lại ngân
lên ở một nơi khác. Rượu Chưa Đủ bản thân
nó cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ
một miền đất khác (1), âm thanh của nó như
được nén lại, ra tới nơi quê người, mới thực sự
rền rĩ. Ở đây, chúng ta như mường tượng ra bức địa
đồ tỉ lệ xích 1/1 của Borges, mà người Việt cố
mang ra ngoài để vá víu lại, cho nó
như xưa. Chúng ta càng nghe rõ âm thanh
của tiếng chuông lạ này, khi đọc Mai Thảo, viết về
đoạn kết Rượu Chưa Đủ:
Bao năm rồi không
đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện,
chỉ nhớ cái anh chàng nào đó, với
bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở
Rượu Chưa Đủ một kết thúc tuyệt hay. Đoạn
tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em
cùng mồ côi cha mẹ từ sớm (một ẩn dụ về một Hà-nội?,
người viết bài này thêm vô). Hai anh
em đi lang thang một ngày trong thành phố không
có một đồng xu nhỏ (những ngày đầu di cư của họ
Dương?). Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, anh dẫn em
vào công viên, yên lặng lấy đất đắp
thành những mô hình sông núi,
thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò
chơi đắp hình sông núi với em để có được
cùng em, dù một cách rất tội nghiệp, buồn rầu
một ý niệm về một điểm tựa, về nguồn gốc. Thật chững chạc
và thật cảm động. Đó là truyện ngắn thứ
nhất của Dương Nghiễm Mậu. Một công viên vắng lặng...
Hình ảnh con đường văn chương Mậu mở ra và đi trên
đó một mình... Những mô hình sông
núi quê hương. Đứa trẻ mồ côi, nghiêm chỉnh
sớm hiểu biết, ý thức trong truyện chính là
Dương Nghiễm Mậu, đã đắp xong, rất hoàn chỉnh, những
mô hình sông núi cho cõi văn cõi
viết của mình... Và Mai Thảo kết luận: Cuối cùng
là đứa trẻ mồ côi trong truyện ngắn đầu tay của Dương
Nghiễm Mậu sự thực không bao giờ mồ côi. Mồ côi
là những kẻ khác kia.
Hay khi đọc Thanh
Tâm Tuyền viết về Đêm Giã Từ:
Đấy là
một truyện không cốt truyện. Sự hấp dẫn bắt đọc là
ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói bắt lắng nghe
- theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành phố
bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm trong
giấc kín bưng triền miên của nó -, ở sự dồn
đẩy khôn nguôi của chữ nghĩa tưởng chừng không
sao dứt tạo thành những vận tiết mê mải tới chốn
nhòa tắt tiếng...
Năm di cư thứ
hai mươi (1974), khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến
những đứa con tư sinh ở cả hai miền lúc ấy...
Khi từ Phú
Thọ ra, ghé lại Hà-nội đợi giờ tầu về Nam, lúc
chiều tối đứng trên thềm ga Hàng Cỏ, trông
xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm
bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối
năm tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai 'Nhìn
xuống vực thẳm... dưới ấy', câu của Anh vẳng ngân
như một câu thơ. (Câu văn là một câu
gắn liền trong mạch văn, tách khỏi mạch không ít
thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách khỏi
mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng
nó gợi nhắc).
Cái nền
thiếu vắng, những mô hình sông núi
tưởng tượng, tiếng chuông ngân ở một nơi khác:
mồ côi là những kẻ khác, nhưng Rượu Chưa
Đủ, Đêm Giã Từ, Bếp Lửa... mãi mãi vẫn
chỉ là những đứa con tư sinh của một miền đất.
Hình ảnh
con đường Mậu mở ra và đi trên đó một mình...,
câu này chỉ có thể coi như một nghi vấn,
thay vì một khẳng định. Nói một cách khác,
không có vụ di cư, không có tờ Sáng
Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu Chưa Đủ
"chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình
ảnh khác nữa để tự khẳng định, để hoàn tất: chúng
bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh của một miền
đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một
"dị bản", của một Thanh Tâm Tuyền quá trí thức,
quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh
Tâm Tuyền "khác", khô, cứng, thật chững chạc,
nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn Đình Toàn,
lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là
mặt trời, một bên là bóng đêm, chúng
bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị
Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một
dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền).
Đêm Lãng Quên, truyện ngắn được
Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những
tác giả Miền Nam, thoát thai từ một truyện ngắn
của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn
nhớ tên, viết về ông già gác dan, (gác
ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối
cùng bị gã con trai nện cho sặc máu mũi,
gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét
cô bồ: lột cái xú-chiêng ra, ném lên
mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc
tình hối hả... làm ông lão tỉnh dậy,
thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía
bên kia Địa Ngục (Chiến Tranh)... Hãy so sánh
với Đêm Lãng Quên, về một già muốn
làm con ong hút nhị từ cô gái....
Chất hung bạo trong thơ Thanh Tâm Tuyền tràn lan
ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự
tắt nghẹn, hết hơi, của những bóng dáng đàn
bà, không còn đủ hơi sức, để kéo
lê, thân xác của chính họ: Cái Chết,
Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng
của Thần Chết, của Chiến Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau
đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối quyết liệt, bởi
những con người đứng bên lề...
Dân làng
sau đó, tới nơi chuông ngân, làm lễ thỉnh
tiếng chuông trở về, từ đó, nó bình thường
như mọi quả chuông khác.
Nguyễn Quốc Trụ
_____
Chú thích: (1) Dương Nghiễm Mậu vào
Nam năm 1954.
"Cho dù ở bất cứ đâu, viết bằng bất cứ ngôn
ngữ nào, nhà văn của Lò Thiêu vẫn chỉ là
một cô hồn phiêu bạt, mong tìm nơi nương náu,
ở nơi đâu nếu không là trong tiếng nước người..."
Imre Kertész
Nhớ, là, khi Nguyễn Tiến Văn, đọc bản thảo bài
viết, lần anh ghé nhà, thời gian “còn lưu vong”,
thú quá, gật gù, cái giai thoại chuông
đánh không kêu, tất nhiên, nhưng quá
tất nhiên, là cái chi tiết, tách nó
ra khỏi toàn bài, cho nó cái lưu vong, cái đồng
vọng Lò Thiêu, và cầu mong, lại được "bình thường", như mọi quả
chuông khác:
Medium
có nghĩa là bà đồng, kẻ trung gian. Đồng vọng lò thiêu, là
theo nghĩa này: Call for the Dead
THE MEDIUM
This round table belonged to
a woman
who used to summon ghostly visitors
And transmit their cryptic messages
To her guests holding hands in a circle,
Their faces dimly lit by a candle,
Hoping to see their loved one
appear,
Or at least hear the familiar voice
Greet them once again, divulge a secret
From beyond the grave,
Make someone in the room cover their ears,
Another one break into sobs,
While beyond the thick drawn
curtains,
The snowflakes are starting to fall
On this cold, dark and silent night,
Each one determined to bury something
No matter how small, no matter how big.
Charles Simic: The
Lunatic
Cô Đồng
Cái bàn tròn
thuộc về người đàn bà
Làm cái nghề gọi hồn người chết
Và chuyển những “mails”, “messages”, những dấu hiệu
ngoằn ngoèo trên mặt cát, trong cái nia
Tới khách hàng của bà, ngồi xúm
quanh, tay cầm tay, thành 1 vòng tròn
Mặt họ mờ mờ dưới ánh đèn cầy
Hy vọng thấy người thân
yêu ngày nào xuất hiện
Hay ít ra, nghe được tiếng nói quen thuộc
Chào mừng họ, bật mí cho họ về 1 bí mật
ở bên kia nấm mồ
Làm người nào đó trong phòng bịt
tai
Một người khác sụt sùi
Trong khi, quá những bức
màn dầy, bên ngoài
Tuyết bắt đầu rơi
Xuống đêm, lạnh, tối, và im ắng,
Mỗi người quyết định chôn một điều gì đó
Cho dù nhỏ cỡ nào, bự ra sao.
Thơ trong The Lunatic, bài nào
cũng thần sầu, đúng cái ý của Brodsky, với bậc
đại thi sĩ, đọc thơ của họ, là biết liền, thuộc vào thời
nào trong đời của họ. Khác hẳn thơ lũ chó, hà,
hà!
Thơ, văn như kít mà cứ làm hoài,
in hoài!
Tập này, Gấu chơi sạch rồi, có bạn nào ở
trong nước, tính in thơ Simic, thì ới 1 tiếng. Bịa ra 1 cái nick,
như tên khốn Lăng Băm đã từng làm, là qua
mặt nhà nước liền tù tì.
Vả chăng thơ thì vốn khinh bỉ chính trị, thời đại, đúng
ý Borges, nên cho nghệ thuật thoát ra khỏi thời
gian, dù thời gian có năn nỉ cỡ nào.
Our life stories are scary and droll,
Like masks children wear on Halloween
As they go from door to door
Holding the little ones by the hand
In some neighborhood long torn down,
Where people ate their dinners
In angry silence or quarreling loudly,
When there was a knock on the door,
A soft knock a shy boy makes
Dressed in a costume his mother made.
What's this you're wearing, kid?
And where did you get that mask?
That made everyone laugh here
While you stood staring at us,
As if you knew already we were history.
Chuyện
Chuyện đời chúng ta,
hai hãi và hài hài
Như mặt nạ con nít mang ngày Hội Ma
Khi chúng đi từ nhà này qua nhà
khác
Đứa lớn dắt đứa bé
Trong một lối xóm, hoang tàn,
từ hồi nảo hồi nào
Khi mọi người dùng bữa tối
Trong im lặng giận dữ, hay cãi nhau ỏm tỏi
Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ
Như khều khều, gãi gãi,
Của 1 đứa bé cả thẹn
Mặc bộ đồ má nó may
Mi mặc thứ chi kỳ quá, thằng cu Tí?
Và, tiện thể, mi lấy ở đâu ra cái
mặt nạ đó?
Làm mọi người bật cười hô hố
Trong khi bạn đứng nhìn chúng tôi
Như thể bạn biết,
từ thuở "xưa rồi Diễm ơi",
chúng ta là... chuyện
Note: GCC dùng Ipod chôm
bài thơ trên, tính không mua. nhưng lật
lật, thấy được quá, bèn...
I came here
in my youth,
A wind toy on a string.
Saw a street in hell and one in paradise.
Saw a room with a light in it so ailing
It could’ve been leaning on a cane.
Saw an old man in a tailor shop
Kneel before a bride with pins between
his lips.
Saw the President swear on the Bible
while snow fell around him.
Saw a pair of lovers kiss in an empty
church
And a naked man run out of a building
waving a gun and sobbing.
Saw kids wearing Halloween masks
Jump from one roof to another at sunset.
Saw a van full of stray dogs look
back at me.
Saw a homeless woman berating God
And a blind man with a guitar singing:
“Oh Lord remember me,
When these chains are broken set my
body free.”
—Charles Simic
Charles Simic has been Poet Laureate
of the United States. His most recent books are The Lunatic (poetry)
and The Life of Images (prose).
Four wheels good, two wheels better
Driving in Vietnam is becoming even more of a nightmare
A proliferation of cars threatens to clog the country’s
big cities
Thịt [tươi, sống]
Every man must descend into the flesh
to
meet mankind.
Mọi thằng đàn ông đều phải lặn vô đó, để gặp...
Chúa
[Đó: Nơi chốn âm u và ẩm ướt, cái
cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo,
nơi Thượng Đế thường xuyên ẩn nấp...]
-G.K
Chesterton, 1910
Study of Flesh and Gold, by William Merritt Chase
1888
Vàng [Gold] bay mấy lá năm hồ hết
Hờ hững ai xui Thiếp [Flesh] phụ Chàng!
The Sphinx found
on Egyptian monuments (called "Androsphinx" by Herodotus,
to distinguish it from the Greek creature) is a recumbent
lion with the head of a man; it is believed to represent the
authority of the pharaoh, and it guarded the tombs and temples
of that land. Other Sphinxes, on the avenues of Karnak, have
the head of a lamb, the animal sacred to Amon. Bearded and crowned
Sphinxes are found on monuments in Assyria, and it is a common
image on Persian jewelry. Pliny includes Sphinxes in his catalog
of Ethiopian animals, but the only description he offers is
that it has "brown hair and two mammae on the breast."
The Greek Sphinx has the head and breasts of a woman,
the wings of a bird, and the body and legs of a lion. Others
give it the body of a dog and the tail of a serpent. Legend
recounts that it devastated the countryside of Thebes by demanding
that travelers on the roads solve riddles that it put to them
(it had a human voice); it devoured those who could not answer.
This was the famous question it put to Oedipus, son of Jocasta:
"What has four feet, two feet, or three feet, and the more feet it
has, the weaker it is?" (1)
Oedipus answered that it was man, who crawls on four
legs as a child, walks upon two legs as a man, and leans
upon a stick in old age. The Sphinx, its riddle solved, leapt
to its death from a mountaintop.
In 1849 Thomas De Quincey suggested a second interpretation,
which might complement the traditional one. The answer
to the riddle, according to De Quincey, is less man in general
than Oedipus himself, a helpless orphan in his morning, alone
in the fullness of his manhood, and leaning upon Antigone in his blind
and hopeless old age.
(1)
This is apparently
the oldest version of the riddle. The years have added
the metaphor of the life of man as a single day, so that
we now know the following version of it: "What animal walks
on four legs in the morning, two legs at midday, and three in
the evening?"
une fois achevée, l'oeuvre écrite
témoigne de la dissolution de l'auteur
Que l'histoire de la subjectivité en
Occident ait toujours été la chronique d'une disparition
annoncée, d'une disparition qui n'en finit pas de se
produire, semble se confirmer définitivement. Pour l'heure,
il ne s' agit que d'une chronique qui va de Montaigne a Blanchot,
sans que, bien sur, il faille forcément en déduire que
cette histoire ne se déroule qu'en France. II n'y a pas longtemps,
Jose Luis Pardo disait au sujet des excellents travaux menés
par Christa et Peter Burger sur la disparition du sujet : «
Sur ce point, l'histoire ne commence pas avec la naissance du sujet
ni ne se termine avec sa mort ; c'est l'histoire de la facon dont la
tendance du sujet occidental à s' affirmer soi-même comme
fondement le conduit à une étrange volonté d'annihilation
de soi, et de la facon dont ces tentatives suicidaires sont, à leur tour, des tentatives d'affirmation
du moi.»
Nous sommes done confrontés à
1'histoire d'une disparition ambigue et qui n'en finit pas de
se produire. Parce que, en ce bas monde, personne n'a encore
disparu et, en même temps, tout le monde l'a fait. Le premier
a s'en aller fut Dieu, joyeusement enterré par Nietzsche.
Pourtant il est bien là, tout a fait vivant, remuant la queue,
ranimant le feu de la Maison Blanche. Quant à l'homme, on a
dit de lui qu'il embolterait le pas à Dieu et que lui aussi s'effacerait,
on a annoncé amaintes et maintes reprises «1a mort du
sujet », il n'êmpeche qu'aujourd'hui, l'histoire des lettres
occidentales, la passion de disparaitre, se produit à l'intérieur
du sujet en même temps que ses plus retentissantes manifestations
d' affirmation. Écrire pour disparaitre, dirait Blanchot, qui
est celui qui a réflechi à ce problerne jusqu'au vertige
; il s' est promné avec l' écriture de la disparition à
l'extrême bord de l'abime, conscient que tout, absolument tout,
s'effacera. Lui-même s'effaca, disparut des accessoires actuels
du monde littéraire et fut conscient de l'horreur d' écrire
pour être photographié. Quoique, comme dit Antoni Mora,
« affirmer spontanément que Blanchot fut un écrivain
secret suffit à compromettre cette hypothèse ».Nous
sommes confrontés à ce secret discutable et bruyant qui
dit que «d'abord nous pensons, ensuite nous existons», et qui
aurait fait rire Montaigne avec compassion. Montaigne consacra sa vie à
l'interminable processus de l'acquisition de l'expérience dans
son propre moi, tandis que Descartes découvrit dans le moi abstrait,
universel, le fondement d'un savoir sur. Tout s'effacera, même
ce savoir, conduit jusqu'à ses demières extrémittés
par Blanchot avec une phrase lapidaire qui, elle aussi, s'effacera:
«Je suis, je suis seulement parce que j'ai fait du néant
mon pouvoir, parce que je puis ne pas être (1), » Nous
en arrivons ainsi à L'Avventura, le film d'Antoniont
qui, it y a deux mois et avec tous les honneurs (honneurs qui, eux aussi,
vont devoir s'effacer), réapparut en France en DVD aux Editions
Montparnasse, un film qui illustre magistralement - il s'agit d'une
oeuvre essentielle de l'art contemporain -la disparition d'un personnage
principal du récit qui nous a été raconté
jusque-là. L'Avventura relate l'histoire de jeunes amis
qui, naviguant dans les Iles Éoliennes, voient disparaitre l'un
des leurs sur le récif de Lisca Blanca. Au fur et à
mesure qu'avance la recherche d'Anna, la disparue, on se rend compte
que ce n'est pas exactement la disparition de la jeune fille qui compte
le plus, mais la sensation de vide, de hasard et d'errance qui tire
les fils de la vie de quelques personnages en train de chercher la disparue
et qui, en realité, se cherchent eux-mêmes, tout comrne
ils tentent de trouver le Dieu que Nietzsche n'avait pas réussi
à connaitre. Pour ma part, it me semble que dans L'Avventura
résonnent comme jamais n'ont résonné
les mots de Blanchot, l'héritier de Montaigne, quand il nous
dit que l’oeuvre écrite produit et manifeste l'existence de
l'écrivain, mais que, finie, elle ne témoigne plus que
de sa dissolution, de sa disparition, de sa défection et, pour
le dire sans ménagernent, de sa mort dont, par ailleurs, il ne
reste jamais de preuve définitive .•
Traduit de l'espagnol par Andre Gabastou
(l) L'Espace littéraire. Maurice
Blanchot, éd. Gallimard, col. Polio essais, p. 215.
Bốc phét mà phán,
thì cả 1 bài viết thần sầu trên đây,
chỉ để vinh danh, chỉ 1 câu văn của GCC:
Viết, một cách nào
đó, là.... chết:
une fois achevée, l'oeuvre écrite
témoigne de la dissolution de l'auteur: một khi hoàn
tất, tác phẩm chứng kiến tác giả của nó
tan rã ra!
Viết, một cách nào đó,
là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối
tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan
Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết,
trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng,
bên kia nhà cô bé, một tiệm sách
theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng
vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những
chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm
xuyết của một Hà-nội trong một Sài-gòn sau
được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi
sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh
đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm
nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".
Một tiệm sách có tấm
bảng hiệu, vừa níu kéo một chút quá khứ, vừa
làm lan can cho căn gác lửng, và là chỗ tôi
thường đứng tỳ tay nhìn xuống đường, nhìn buổi chiều, đợi chờ
cô bé trở về nhà trên đường đón em học trường
mẫu giáo Aurore ở gần ngã tư Cao Thắng-Phan Đình Phùng.
Ngay ngã tư có tiệm Thanh Xuân, nơi hân
hạnh được cô bé tới chụp hình cho cuốn học
bạ, nhờ vậy tôi cũng được ăn theo, tấm hình sau được
họa sĩ Ngọc Dũng thương tình chuyển thành phác
họa, khi cả bọn xúm quanh anh thuở còn đi học cứ
ba tháng hè kéo nhau tới nhà anh T.
ăn bám bà cụ. Kỷ niệm độc nhất đánh dấu những
buổi chiều hạnh phúc, báo trước cuộc chia ly kéo
dài...
Khi gặp lại, cô bé đã
đậu tú tài phần một, được ông bố khắc
nghiệt cho đi thăm Đà Lạt. Mỗi sáng thứ bẩy, tôi
theo chuyến xe đò sớm nhất vượt quãng đường mấy trăm
cây số, rồi chiều chủ nhật trở về cho kịp thứ hai đi làm,
trong đầu đầy ấp hình ảnh Đà Lạt với quán cà
phê Tùng, tiếng hát Sylvie Vartan, "J'attendrai
que ma vie recommence"... bóng dáng cô bé
xuất hiện nơi đầu con dốc, tha thẩn bên hồ, thấp thoáng
xa gần giữa vườn thông, trước ống kính máy chụp
hình tôi mượn của một người bạn Phi làm cùng
sở. Khi đó tuy ông Diệm không còn, nhưng
Miền Bắc chắc còn đang lo đấu tố, thanh trừng địa chủ nên
bỏ qua cho hạnh phúc nhỏ bé của chúng tôi.
Note: Truyện ngắn này, sáng
tác những ngày ở trại tị nạn Thái Lan.
Gửi đăng trên tờ Làng Văn ở Toronto.
Cô bạn có đọc, như sau đó
cho biết, và nói, tôi cứ nghĩ là
anh ở Sài Gòn, viết, gởi ra hải ngoại,
đăng!
In 1997 Horst Faas and Tim Page
published Requiem, a homage to the
135 photographers who died while covering the wars in Indochina
and Vietnam. The work of Larry Burrows, who photographed the
war in Vietnam from 1962 until he died in a helicopter shot down
on the border with Laos in 1971, was central to that undertaking.
Vietnam, a more extensive selection of his work, enables
us to see his achievement more extensively and to define
it more clearly.
Burrows was
born in London in 1926. He left school at sixteen and got
a job in Life magazine's London bureau, where he printed
thousands of pictures by Robert Capa and others. It would be
hard to exaggerate the effect of this apprenticeship on his subsequent
career. Capa practically invented the genre of combat photography
and defined the standards by which it would be judged. If your-
pictures aren't good enough, he was fond of saying, thats because
you're not close enough. Burrows took Capa at his word. In Vietnam
a colleague decided that Burrows was either the bravest man in the
world or the most short-sighted. Tales of that myopic bravery are
legion, and Burrows himself thought 'the best thing that happens
. . . is when someone turns around and says, "Well, you've taken your
chances with the rest of us. '" Like other photographers in Vietnam
Burrows fell into- the habit of edging right up to death, but whereas
Page and Sean Flynn (son of Errol) were swash-buckling, wild, stoned,
Burrows was distinguished by his patience and meticulous calm. It
is possible to detect these qualities in the formal elegance of the
work. While Capa said he would 'rather have a strong image that is
technically bad than vice-versa', Burrows was obsessed with making strong,
technically perfect images. Looking at his best photos reminds me of
some documentary footage I once saw of men coming suddenly under fire
in Bosnia. Everyone hit the dirt. It took a while to take in what was
so strange and unnerving about this footage. Then I realized that the
camera recording it all had remained absolutely steady
This unflinching
quality is seen to dramatic effect in a black-and- white'
photo-essay published in Life in April 1963. Burrows was
photographing a Marine helicopter' squadron, focusing on James
Farley, a fresh-faced twenty-one-year-old gunner. In the course
of what was expected to be a routine mission the squad comes
under heavy fire. One of the helicopters goes down and Farley's
chopper lands nearby, attempting to rescue the crew. By the time
they are airborne again two badly wounded men are sprawled on
the floor of the helicopter. One of them dies. The resulting photos
have all the cramped panic and horror of Snowdon's death in Catch-22.
But what makes them into a perfect story is the shot of Farley
back at base, sobbing, aged by more than a decade in the course of
a dozen photographs.
That was
the luxury of working for Life: an absence of deadlines
and the freedom to construct a narrative around photographs
rather than taking them to illustrate breaking news. Burrows
used these freedoms to similar effect in the color sequence
on Operation Prairie (1966), which culminates in the famous
image of the wounded black sergeant apparently reaching towards
his white comrade, also wounded. On the one hand it's an unadulterated
image of the chaos, mud and blood of the aftermath of combat.
But it is also a classic Life-like image in
that it is, simultaneously, a statement of fact (this really happened)
and, precisely by virtue of the unimpeachable quality : its evidence,
an illustration of a larger truth (in this case the equality of suffering
and tenderness between races) which might not : true at all. What we
have, in other words, is a vivid example of e camera's unique capability:
not the creation of a myth but its depiction.
It would
be a mistake, therefore, to see images like this as proof
the photographer's anti-war stance. At that time, in fact, Burrows
was still, in his own words, 'rather a hawk'. It was only later,
in 1969, that he attained A Degree of Disillusion. That was the title
of another photo-essay, belatedly focusing on the impact of the
war on the Vietnamese' as Philip Jones Griffiths had done throughout
his time there. By then Burrows said the faces all over Vietnam
were 'more tired' and 'dazed' than he had ever known. In Roger Mattingly's
well-known 1971 portrait that fatigue can be seen in Burrows' own
face. He looks exactly like one of the combat-numbed grunts he
had so often pictured: a sign of how the gap between photographer
and his subjects was shrinking, lethally. This is suggested still
more powerfully by Henri Huets picture in ReqUiem of Burrows helping
to carry a wounded soldier, whipped back by a chopper's downdraught.
Burrows' thick- framed spectacles make him instantly recognizable,
which is slightly odd given that the photo is so like one by him,
thereby forcing the viewer to concede that a Burrows image is not
as instantly recognizable as is often claimed. Indeed, to this observer,
Huet's images and Burrows' are often almost interchangeable. Since
the two photographers died together on that helicopter flight on the
Laos border this is not inappropriate. But the images in the pages of
Vietnam also have much in common with those in Page's Nam (1983). Page
was spectacularly high on the 'glamour' of war; according to his epitaph
in Life, on the other hand, when Burrows looked at war 'what he saw was
people'. Except, it turns out, his coverage of 'The Air War' shows Burrows
to be just as intoxicated by the psychedelic technology of American
fire- power as Page was. Two almost identically framed shots, taken
at the same moment, in 1969, in Cholon - one in color by Burrows, the
other in black-and-white by Griffiths - of a blood-drenched woman with
a soldier kneeling over her, staring nine hundred yards into the distance,
crop up in both Vietnam and Vietnam Inc. (the Welshman's camera can be
seen in the bottom right-hand comer of Burrows' picture). *
This is not
to diminish Burrows' individual talent or achievement.
It is simply to recognize the accuracy of Sontag's judgement
from the '70s, namely that 'the very success of photojournalism
lies in the difficulty of distinguishing one superior photographer's
work from another, except insofar as he or she has monopolized
a particular subject' - and in Vietnam they were all shooting
the same subject. Similarly, Burrows has always been praised
for his humanity and compassion when, if you think about it,
what would really set a photographer apart would be the ability to
photograph injury, suffering and death with a lack of compassion,
even, possibly, with a touch of glee. No, Burrows is a great photographer
less because of what distinguishes him as an artist than because
of what he has in common with his colleagues and subjects. And
I think that those trademark spectacles of his enable us to view
his legend (in the cartographic sense) more clearly:
It's a classic sixth-form debate:
whether to take photographs of the injured or to try
to help them. Burrows repeatedly took photographs of wounded
men being helped by their comrades, even when they were themselves
wounded. He was drawn to such scenes because they dramatized
that ethical dilemma so clearly as to simultaneously resolve
it. Looking at photos like this it is striking how often one
or more of the people doing the helping are wearing spectacles
like Burrows'. Maybe it's just a coincidence (though that in itself
is almost meaningless in a medium that is about visual coincidences)
but it is difficult not to regard these bespectacled helpers as the
active representatives of Burrows's own seared conviction: that
showing the wound was also a way of tending to it.
2002
* Actually, they are even more
similar than I thought: although Jones Griffiths' image
is printed in black-and-white in Vietnam Inc., it was shot
in color.
Note: Kinh Cầu, trước
Tin Văn có post, lấy từ trang báo điện
tử của Dirck Halstead, nhưng sau bị cấm, trang báo cũng
cấm luôn.
Nghe nói, nó được
về VN, thêm hình ảnh nhiếp ảnh viên
VC.
Cũng được.
Tin Văn post bài này,
nhân nhớ bạn cũ Sawada, và cái lần
anh mò lên nhà Gấu, ở hẻm Nguyễn Huỳnh
Đức, Phú Nhuận, nhân có hình cần
gửi gấp.
Bạn phải tưởng tượng ra 1 em
văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn,
và khóc, thì mang theo 1 cái máy camera,
và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.
Vào ngày
21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka - một người
đàn ông với cái camera, nửa đêm nhận được cú
phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô Viết đã vượt biên
giới vô Czechoslovakia. Cùng lúc, là những phi
cơ vận tải với những binh đoàn nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo..
hạ cánh xuống phi trường Ruzyne, ngoại vi Prague. Ðây là
1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh sĩ
thuộc Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK, và
lời bảo đảm của thượng cấp, chuyến đi này không phải là
"xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp ứng lời kêu
gọi “giải phóng” MN của MTGP!
Mùa Xuân
Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú đặt cọc cho
mớ võ khí nặng sau cùng đã đào mồ chôn
Ðế Quốc Xô Viết.
Tôi rời
Quân đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó
là ban đêm. Chúng tới ga Belorussky Rail Terminal, và
đi bộ dọc theo phố Tverskaya Street nhắm hướng Kremlin. Chúng tôi
đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung hăng. Chúng
tôi gặp một ông già, một cựu binh từ Ðệ Nhị Thế
Chiến.
-Sao tụi mi la lớn thế?
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi tôi vừa giải phóng Prague.
Ông già quạt lại:
-Câm miệng, thằng ngu. Mi không biết cả những gì
mà mi đang nói đó.
Và đó đúng là một lời phán lương
thiện nhất về cuộc xâm lăng Prague mà tôi đã
từng nghe được.
-Ðảng không
dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng ông cách
ăn cướp.
Đêm, vẫn đêm đêm,
như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như
tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất,
mi một mình trở lại Sài-gòn, quán
Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô
Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì
như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới
sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt
đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa
làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi
bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh
croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn
chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại
giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường
Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên
giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học
Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám
đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì
cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh
rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích
bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che
giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn
Đình Toàn làm canh xì.
Note:
Gấu viết truyện ngắn “Những Ngày Ở Saigon” đúng
thời gian nằm dưỡng thương do xực hai trái mìn
Claymore của VC ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh. Do làm
cho UPI nên dưỡng thương ngay tại Đài Liên
Lạc VTD, số 5 Phan Đình Phùng.
Nhân Trần Công
Quốc, 1 trong Thất Hiền đưa vợ đi làm [bà
vợ là nữ điện thoại viên ở Đài] bèn
nhờ anh đưa bản thảo cho ông anh TTT, khi ghé nhà
thăm bà cụ. Ông anh đăng liền trên Nghệ
Thuật số 9, và gọi điện thoại, nhắn, khi nào hết
dưỡng thương thì xuống tòa soạn lãnh tiền
nhuận bút.
Gấu vào làng
văn như thế đó.
Viết cho Văn, là do
gặp NDT tại tiệm phở số 44 PDP, dưới chân Đài,
phía bên kia Đài Phát Thanh Sài
Gòn. Anh đến bàn, tự giới thiệu, và đề nghị
viết cho Văn. Truyện ngắn đầu tiên viết cho Văn, là
Thời Gian, 1 trong Tứ Tấu Khúc. Bà vợ NDT là
người đầu tiên đọc nó, trong dạng bản thảo. Lần gặp đầu
tiên, khi NDT đưa tới nhà giới thiệu [nhà anh ở
ngay dưới chân Đài Liên Lạc VTD, trong 1 chung cư
thuộc Bưu Điện, khu Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao], bà
nói, anh đúng là văn sĩ mê gái!