Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày/Sách & Báo Mới
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1

Cali, No-2012
Bobin
Ghiền
TTT in Ký Ức Sơ Sài
Rain
Paris Review 60 năm
Sổ Đọc
Thảm họa dịch
Nostalgie de la boue
Ám ảnh phố phường
Câu hỏi hắc búa
Viết lại Truyện Kiều
Thơ vô ngôn
Hope in thin shell
Nhìn lại TLVD
Mit Crisis
Borges by Greene
NQT @ talawas
Tiểu thuyết là gì?
1968-Khe Sanh
Sarajevo Siege 1992
Paris tắm
Mit Critic
Ghiền
Cô Gái Chơi Cờ
Pamuk:
Cơn giận dữ của những kẻ bị trầm luân
Viết nhỏ by PTH
Anh Môn by The Economist
Cavafy by Vargas Llosa
Opium-Marx
20 năm VH Miền Nam
Granta Sex
The Good vs The Chtistian
Iceberg
Gatsby
Simic: What if
PCT triết gia
Season Elegy
Truyện ngắn bất khả
NHT by Nhật Tuấn
Steps
Lost_Intel
Chia tay
Youth
Fleeing by Cao Hành Kiện
Loneliness by CHK
To Young Poets by AZ
NHQ và HTXHCN
Bolano: Trong Ngoặc
Borges's Còm
Hà Nội Gió
Tạp Chí ST by CTC
Graham Greene Dangerous Edge
Đọc lại Agatha Christie
Message to 21th Century
Memory Trap
How to write a sentence
Bùi Ngọc Tuấn
Ôi chao giọng Huế
Lapham Kẻ Lạ
Inner Worlds
LMH case
Bịp
Lolita loathsome brillance
Kafka Poet
Once upon a sea
Images Life by Simic
Borges by Cioran
Centaur Question by P_Levi
Ars Erotica
Keo_LMH
A Place in the Country
Love-Letter by Durrell
Bad Words Praise
Imaginary Beings Book
Love Stories
Thôi bỏ đi Tám
Surf Tin Văn
Nơi cuộc chiến bắt đầu
Thông điệp I. Berlin
Mit vs Lò Thiêu
Why Lawers Love Shakespeare
Karl Popper on Democracy
Nhã Ca @ Cornell
NL vs Camus
HNB Case
Naipaul on Borges
Viết bằng tiếng nước người
Kể lại 1 đời
Trần Trọng Kim
Ngôn ngữ & Tư tưởng

Kafka in 21 Century
Vu Lan 2016
Đảo xa
House of the Dead
Solex vs Áo Dài
LMH Hanoi









 



Last Page

Đọc & Viết

Đọc/Viết mỗi ngày

“Một con chuột cố bám víu vào hàng rào B40 ở một nơi nào đó trong sự kiện “Sài Gòn thất thủ” tối qua.
Ðúng là một khoảnh khắc lịch sử!
Một chi tiết câm lặng nhưng đầy biểu cảm mà bạn có thể chú thích với bất cứ caption nào.

Chú chuột nổi tiếng trên mạng

Thay vì biển máu, thì là biển nước!
Cám ơn VC!

My Old Saigon

*

Chất kể lại, hồi nhỏ nhà tớ ở gần hồ Trúc Bạch. Ông cụ tớ, một bữa đạp xuồng dạo chơi trên mặt hồ, không may xuồng lật. Khi đó ông cụ mới 29 tuổi, bà cụ 24. Bà cụ giao tụi tớ cho bà ngoại ở Đáp Cầu, và lo buôn bán xuôi ngược. Cụ vô tận trong Nam, tình cờ gặp bà cô tớ, thế là cụ đem hai thằng vô Nam nhờ bà cô trông coi giùm.
Hình trên chụp ở vuờn Bờ Rô.
Bạn hàng cùng với cụ hồi đó có bà C, bà Th. cậu biết rồi.

Lần đầu đọc Cuối Đường, Gấu cứ thắc mắc, liệu tự truyện, và tác giả đã có lần ở Sài Gòn?
Như vậy, cũng như trong Cuối Đường, những sự kiện như được mô tả trong Bếp Lửa đều dựa trên đời sống thực.
Chị Ng, bà xã bạn Chất nói, tụi này đã từng gặp cô Thanh Tuyền.
Cô Thanh cũng có nguyên mẫu ở ngoài đời.
Chị Ng nói thêm: Tui không đọc được từ màn ảnh PC, anh Chất phải in ra cho tui đọc, nhưng chẳng thấy những chi tiết sự kiện nào liên quan tới anh Chất hết. Không lẽ anh không viết gì về những mối tình của anh Chất, giống như mấy anh em khác trong... Thất Hiền?
Chất cuời: Đảng trưởng thì phải gương mẫu cho anh em noi theo đó mà sống chứ! Cậu nhớ không, hồi đó tớ còn có nickname là Ông Thánh!

&

Gấu đậu Tú đụp năm 1958, kỳ 2. Rớt kỳ 1, trước khi lao vào học, bà cụ Chất cho cả ba đứa đi Nha Trang nghỉ mát. Bốn đứa: Chất, Quốc, Gấu và Hải, con bà Cảnh, anh cô bé Khanh. Truyện ngắn đầu tay Những con dã tràng được thai nghén từ gió biển cát Nha Trang:
Villa trông ra biển....
Chất không ưa truyện này. Còn bà cụ phán, thằng này bịnh!
Chắc là do những dòng sau đây:
Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó.

Chỉ đến khi Gấu trình diện Những ngày ở Sài Gòn, bạn Chất mới gật đầu: Được!

Tên khốn Lang Băm, Thầy Đạo làm sao có cái bằng Toán, như trên!
Khi Gấu qua hai cửa ải Tú Tài, chưa tên nào học xong Trung Học Đệ Nhất Cấp!




A Critic at Large October 10, 2016 Issue
Karl Marx, Yesterday and Today
The nineteenth-century philosopher’s ideas may help us to understand the economic and political inequality of our time.
Mác, Hôm Qua và Hôm Nay
Xừ lủy vưỡn chưa lầm, vưỡn còn đúng, và có
thể giúp chúng ta làm thịt lũ con hoang của xừ lủy, là lũ Mít Bắc Kít!
By Louis Menand
http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today
He is not wrong yet.


Charlemagne

A tale of two ethics

Why many Germans think impractical idealism is immoral

Chuyện hai đạo hạnh

Tại sao nhiều người Đức coi chủ nghĩa
lý tưởng không thực tế là vô hạnh, vô đạo đức, đồi bại.

Note: Tà Lọt, Osin và đồng bọn "có lẽ" nên đọc bài này. Tin Văn sẽ có bản tiếng Mít liền

THE phrases “ethic of conviction” and “ethic of responsibility” mean little to most English-speakers. In Germany the equivalent terms—Gesinnungsethik and Verantwortungsethik—are household words. Pundits drop them casually during television talk shows. Hosts use them as conversation-starters at dinner parties. The concepts draw on the opposition between idealism and pragmatism that runs through politics everywhere. But they also capture a specific moral tension that is “very German”, says Manfred Güllner, a sociologist and pollster. Anyone interested in understanding German politics, on anything from the euro to refugees, would do well to get a handle on them.

The terms come from the sociologist Max Weber, who used them in a speech he gave in January 1919 to a group of leftist students at a Munich bookstore. Germany had just lost the first world war. The Kaiser had abdicated, the country was in the throes of revolution and Munich was about to become the capital of a short-lived “Bavarian Soviet Republic”. Armed with only eight index cards, Weber gave a talk that would become a classic of political science. (“Politics as a Vocation” was published in English only after the second world war.) The lecture ranged broadly through history, but its main purpose was to curb the Utopian romanticism then gripping the ideologues fighting over the direction of the new Germany, including those sitting in front of him.

Weber described an “abysmal opposition” between two types of ethics. Those following their convictions wish to preserve their own moral purity, no matter what consequences their policies may have in the real world. “If an action of good intent leads to bad results, then, in the actor’s eyes, not he but the world, or the stupidity of other men, or God’s will who made them thus, is responsible for the evil.” By contrast, someone guided by responsibility “takes account of precisely the average deficiencies of people…(H)e does not even have the right to presuppose their goodness and perfection.” This sort of politician will answer for all the consequences of his actions, even unintended ones. Weber left no doubt about his sympathies. Ethicists of conviction, he said, were “in nine out of ten cases windbags”.

The prevailing view today, like Weber’s in 1919, is that “Germany has a surfeit of Gesinnungsethik,” says Wolfgang Nowak, who served as an adviser to Gerhard Schröder when he was chancellor. The postwar yearning of Germans to atone for their nation’s Nazi past through extravagant moral posing exacerbates the tendency. In general, the ethic of conviction is most prevalent among leftists and Protestants, and slightly less so among conservatives and Catholics, says Mr Güllner.

Thus the Social Democrats, who view themselves as crusaders for social justice, often give the impression that they are not only “unable but unwilling” to govern, lest they bear actual responsibility, Mr Güllner thinks. That may explain why there has been a Social Democratic chancellor for only 20 years since 1949, compared with 47 years under the Christian Democrats. Many of Germany’s most strident pacifists, meanwhile, are Lutherans. Margot Käßmann, the church’s former leader, dreams of Germany having no army at all. She disavows force even to prevent or stop a genocide.

But an ethic of conviction also runs through the centre-right, which since the 1950s has approached the European project as an end in itself, a way for Germany to become post-national and dissolve its guilt along with its sovereignty. In the process, Germans deliberately overlooked the fact that most other Europeans never shared this goal. Once the euro crisis erupted, many conservatives opposed bail-outs out of an ethic of conviction, argues Thilo Sarrazin, a controversial pundit. They wanted to decry rule-breaking by crisis countries as inherently bad—even at the cost of letting the currency zone unravel.

The ethic of responsibility holds that such stances are not merely impractical but wrong, and that what will not work cannot be moral. Those governing Germany have mostly been of this camp. In the 1980s millions of Germans marched against the modernisation of NATO’s nuclear arsenal, but Chancellor Helmut Schmidt let the missiles deploy, accepting the grim logic of deterrence. (His reward from his fellow Social Democrats was largely disdain.) In the euro crisis, Angela Merkel reluctantly agreed to bail-outs in order to hold the currency zone together.

Transports of joy

That is what makes Mrs Merkel’s historic opening of Germany’s borders to refugees on September 4th, 2015 so remarkable. “She galloped away with an ethic of conviction,” says Konrad Ott, a professor of philosophy and author of a book on migration and morality. At the time this aligned her with a euphoric “welcome culture”, as ordinary Germans volunteered to help refugees and the press celebrated the country’s humanitarian example. Mrs Merkel refused to put a numerical limit on accepting human beings in dire need, a position she still maintains.

But as predicted by ethicists of responsibility (in whose ranks Mrs Merkel is usually found), the mood soon turned. Other Europeans accused Germany of “moral imperialism”, the flip side of Gesinnungsethik. And many Germans felt that too much was being asked of their society. Some, in a development that would not have surprised Weber, turned xenophobic.

The history of the past year can thus be seen as Mrs Merkel’s attempt to return to an ethic of responsibility without betraying her convictions. This includes biting her tongue as she deals with an increasingly authoritarian Turkey, whose cooperation she needs to reduce the migrant flows, and other moral compromises. Max Weber would have found her dilemma compelling. Even someone with an ethic of responsibility, he said, sometimes “reaches the point where he says: ‘Here I stand; I can do no other.’ That is something genuinely human and moving.”

“Nếu để ông Cù Huy Hà Vũ tự do ngôn luận, có lẽ ông khó lòng thu hút được sự chú ý của giới bloggers, báo chí và khó lòng trở thành một nhân vật được đề cập trong một bài feature của tờ New York Times. Nếu để ông Cù Huy Hà Vũ tự do kiện tụng có lẽ người dân sẽ thấy Chính quyền tự tin và mạnh mẽ. Và có lẽ, nếu thả ngay ông Cù Huy Hà Vũ sau cái hôm ở khách sạn, hình ảnh một người đàn ông 50s bụng phệ sẽ được nhớ lâu hơn, và khó có thể bị thay thế bởi hình ảnh một tiến sỹ Cù Huy...

Continue Reading

Note: Khi đấng này, Osin, Tà Lọt, viết cuốn sách của xừ lủy, và được thiên hạ quan tâm, Tin Văn đã lai rai ba sợi về sách và người rồi. Nhưng sự kiện, độc giả TV quan tâm đến hắn, mới thú, và cho thấy, đạo hạnh của hắn khiến thiên hạ tởm: Khi post lại 1 cái stt của hắn, trên Tin Văn, về vụ hắn tính đi 1 cái phong bì mừng đám cưới Hồng Ánh, rồi lại rút lại, khách viếng thăm [visit] TV đột nhiên tăng tới con số 800, 1 con số khủng khiếp vào lúc đó. Và GCC quá ngạc nhiên, và bèn báo cáo, cũng vào lúc đó đó!

Hồng Ánh, những khi “giải lao” giữa các lần yêu vẫn tìm tới tôi. (2)

Blog Osin

Viết như thế thì quá khốn nạn. Viết lại ở đây, thật thấy nhục nhã lây, 'cũng một lũ đực rựa khốn nạn', nhưng chẳng lẽ không nói tới?
NQT

Gấu quen NTS lần về Hà Nội đầu tiên, 2001, và sau đó, lần về thứ nhì, 2002, anh ở Hồng Kông, hình như vậy, vừa về là vội chạy tới chiếu nhậu ở nhà Bảo Ninh.
Nhậu rất tới, chơi rất được, riêng với Gấu, còn với người khác, Gấu không biết, và không có ý kiến.

Hơn nữa, Gấu rất ghét biết về đời riêng của người khác, ngay cả bạn thân, thí dụ nhà thơ Joseph Huỳnh Văn, Gấu gần như mù tịt về anh, mãi khi anh mất, thì mới biết, anh có họ hàng với Huỳnh Văn Trọng, cố vấn (?) của Tông Tông Thiệu.

Cũng thế, với NTS, mãi gần đây, mới biết anh họ hàng, bà con với 1 ông cựu tổng bí thư VC.

Chơi với nhau OK là được/đủ rồi.
Nhưng, trong đám bạn bè của anh, có 1 tay Gấu phải đội ơn, vì nếu không có anh ta, là Gấu khốn khổ khốn nạn với VC rồi.

Nhân đây, đa tạ thêm 1 lần nữa, vào dịp Giáng Sinh và Năm Mới.
NQT & gia đình.

http://www.tanvien.net/Ghi_2/hong_anh.html

Osin Case

Viết bên lề "Bên Thắng Nhục"

Hồng Ánh Lấy Chồng

    Được tin, đám cưới giữa Hồng Ánh và Nguyễn Thanh Sơn đã diễn ra một cách nội bộ hôm 14-1-2009, tôi mở ngăn kéo, lấy cái phong bì, rút ra tờ bạc 50 nghìn đồng, bỏ vào bóp trở lại. Mấy tháng trước, đọc báo thấy Hồng Ánh trả lời phỏng vấn nói là sẽ làm đám cưới nay mai, đề phòng kinh tế vẫn đang trên đà suy thoái, tôi cẩn thận trích ra một phần ngân khoản, bỏ sẵn vào phong bì phòng khi được mời. Có lẽ những bài phỏng vấn trên đây cũng do Nguyễn Thanh Sơn, một chuyên gia truyền thông đạo diễn, không có những bài báo gây áp lực dư luận ấy chắc chi đã có đám cưới vừa rồi.

    Sau khi báo chí đăng các bài trả lời phỏng vấn của Hồng Ánh, nhà văn Nguyễn Quang Lập gọi điện cho tôi: “Ông Osin ơi, con Ánh (quý ai, anh Lập vẫn thường gọi thế) nó bảo tôi mới là người làm mai thằng Sơn cho nó”. Tôi bảo anh Lập: “Vâng, quý hóa quá, lâu nay em cứ mang tiếng mãi”. Thoạt đầu, nhìn cái mặt của Nguyễn Thanh Sơn, tôi đã không có cảm tình. Đàn ông đàn ang gì mà ăn nói nhẹ nhàng, da trắng, mắt đã to lại còn nhìn ai thì cứ nhìn trừng trừng. Tôi có đọc một số bài phê bình văn học của “tay” Sơn này. Cứ thấy cả nước đang mê ai là y như rằng Nguyễn Thanh Sơn chỉ ra hàng loạt vấn đề bất ổn trong các tác phẩm của họ. Những người Sơn chê, tuy tôi không có mấy kiến thức văn chương, vẫn biết là tài năng: Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh… Nghe nói Sơn là chủ công ty T&A, làm pi-a, pi-iếc gì đấy, khách hàng toàn là Tây. Nhưng, Sơn vô Sài Gòn, thấy vẫn ngồi trên cái xe mà cô Ánh mua, cô Ánh đổ xăng, cô Ánh làm tài xế… Đã thế, chiều nào cô Ánh cũng phải đi tập ở California Wow, một khách hàng của T&A, công ty của Sơn. Nhiều lần tôi bảo Hồng Ánh: “Dẹp cái thằng này, để anh kiếm cho em một đại gia”.

    Tôi đã từng chứng kiến một số đại gia lăn xả vào tán tỉnh cô đào tài sắc này. Có lần, một chủ doanh nghiệp trẻ, được ăn cơm cùng Hồng Ánh, ngồi nhà hàng máy lạnh mà mồ hồi cứ đổ ra như tắm. Hồng Ánh, những khi “giải lao” giữa các lần yêu vẫn tìm tới tôi. Có lần, một tay tán tỉnh, cô ấy nhờ tôi tư vấn. Tôi chăm chú lắng nghe, rồi ra giọng cha chú: “Thằng này được. Em vừa xinh đẹp, vừa nết na, con đường nghệ thuật của em còn dài, cần phải một người chồng vừa có học lại vừa vững vàng về sự nghiệp”. Một thời gian sau, cô Ánh nước mắt lưng tròng, tìm gặp tôi, giọng chán chường và mặt mày mỏi mệt. Tôi thẳng thắn: “Em bỏ ngay nó cho anh, người như thế làm sao xứng với em được”. Cô Ánh gật gật đầu, rồi như sực nhớ ra, những giọt nước mắt thôi rớt trên đôi má có hai cái lúm đồng tiền: “Ủa, sao hồi đó, cũng ông này, anh xúi em yêu bằng được”. Tôi, lập tức bản lĩnh: “Dạo trước, đã mê nó đứt đuôi rồi cô mới hỏi anh để tìm đồng minh; giờ cô cũng chán nó tới tận cổ rồi, cô cần anh đồng lõa. Anh chỉ nói những gì làm cho cô thôi áy náy chứ, anh lo thân còn không xong, tư vấn, tư viếc gì”. 

    Tôi không hiểu sao, cô Ánh lại để cho cái tay Nguyễn Thanh Sơn khó ưa ấy giây dưa với mình ngần ấy năm. Sơn học báo chí ở MGIMO, Nga. Lại còn tu nghiệp một thời gian ở một tiểu bang bò nhiều hơn người của Mỹ. Sự hiểu biết và cái gu văn chương nghệ thuật, tôi biết tỏng, bên ngoài thì ngọt nhạt nhưng bên trong, Sơn coi Lê Hoàng “không ra cái đ. gì” (theo cách nói của Bọ Lập). Vậy mà khi Hồng Ánh diễn vở Những Con Ma Nhà Hát của Lê Hoàng, Sơn ngồi say sưa xem tổng cộng 11 lần. Hai khán giả trung thành nhất của vở kịch này là Nguyễn Thanh Sơn và Lê Hoàng; hơn 1/3 vé của vở kịch đã được Sơn và Hoàng mua, sau đó mang đi kính biếu. Sơn còn trình diễn sự nhiệt tình tương tự, ngồi xem Hồng Anh diễn Sát Thủ Hai Mảnh 14 lần. Lần nào cũng há hốc mồm ra như các em tuổi teen coi Đẹp Từng Centimet. Tất nhiên, với những Trăng Rơi Đáy Giếng, Đời Cát hay Thung Lũng Hoang Vắng… thì khỏi phải bàn.

    Cho dù, cách tổ chức đám cưới lặng lẽ của họ đã giúp tôi tiết kiệm được 50 nghìn tiền mừng, tôi là tôi không thích Hồng Ánh lấy chồng, nhất là lấy “cái tay” Nguyễn Thanh Sơn ấy.

Blog Osin

Note: Thuật ngữ "cái tay" này, chôm trên TV.
Nhớ, Thảo Trường, khi còn sống, có lần
chỉnh Gấu, về từ này.
Anh yêu cầu Gấu bỏ từ này,
"cái tay sĩ quan... ", lần viết về 1 sĩ quan VNCH
Thảo Trường rất khó, trong việc sử dụng chữ.
Khi Gấu để bài của anh trong folder "Quán Văn Thảo Trường", anh mail, hỏi,
tôi có bán văn bao giờ đâu?
Phải đổi là Góc Thảo Trường

Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn 30 năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc...” - Huy Đức (Osin) (1)
Cái từ "thận trọng", khó hiểu quá.
NQT

Cái ý của Osin, "... bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc", chôm của… Gấu và của bạn Gấu, là Thảo Trường.
Chứng cớ:
Khi còn ở Trại Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng chí tính cho đi mò tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó xẩy ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ đã nói thẳng ra một điều: tại sao các anh không giải phóng chúng tôi, tại sao các anh tạo ra tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình thương của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền Nam, có thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho chính mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam chỉ có công: Thất trận. (3)

Cho đến năm 1975, tội lớn nhất của cộng sản là đã thắng trận, và, chiến công lớn nhất của cộng hòa là thua trận
 
(4)

Sự thực, nguồn của cái ý tưởng “thận trọng” này, là từ Borges:

Trong 1 bài viết, TV sẽ post bản tiếng Anh, sau, Borges kể là ngày 14 June 1940, một tay nói tiếng Đức mà tên của người này, ông không muốn nói ra, tới nhà ông. Đứng tại cửa, anh ta báo tin động trời: Quân đội Nazi đã chiếm đóng Paris.
Tôi [Borges] thấy trong tôi lẫn lộn một mớ cảm xúc, buồn, chán, bịnh.
Thế rồi Borges bỗng để ý tới 1 điều thật lạ, là, trong cái giọng bề ngoài tỏ ra vui mừng khi báo tin [30 Tháng Tư, nói tiếng Bắc Kít, mà không mừng sao, khi Nazi/VC chiếm đóng Paris/Sài Gòn!], sao nghe ra, lại có vẻ như rất ư là khiếp sợ, hoảng hốt?

Hà, hà!

Thế rồi anh ta phán tiếp, Nazi/VC sẽ không tha London. Và không có gì ngăn cản bước chân của Kẻ Thù Nào Cũng Đánh Thắng!

Và tới lúc đó, thì Borges hiểu, chính anh ta cũng quá khiếp sợ!
Cũng tới lúc đó, Borges hiểu ra "chân lý": Hitler muốn thua trận: Hitler wants to be defeated.

Đọc tới đó, thì Gấu nhớ ra cái bà già nhà quê Bắc Kít đã từng lén VC cho bạn của Gấu, sĩ quan cải tạo 13 niên, tí ti đồ ăn, trong 1 lần chuyển trại tù. Bà lầm bầm, khi nhìn bạn của Gấu nuốt vội tí cơm, các cháu đánh đấm ra làm sao mà để thua giặc dữ.
Già này ngày đêm cầu khẩn các cháu ra giải phóng Đất Bắc Kít! (5) 

Tin Văn bị chôm lia chia, cái đó là sự thực. Cái kiểu viết "anh hai" của nó, ảnh hưởng nặng vào nhiều diễn đàn, với những từ như "khủng, cái cú, cái tay"... .
Rất nhiều tên ăn cắp TV, nhưng viết, nhớ là đọc đâu đó, hay đọc trên...  Thời Tập!
Thơ của ông anh, Gấu chôm từ bàn viết của ông, chưa từng đăng báo, vậy mà cũng bị chôm:

Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết

Thơ khủng đến như thế làm sao không chôm cho được!

Ông số 2 chôm câu thơ "những người đã chết đều có thực", câu này cũng thần sầu, khó mà tha không chôm!


Antoine SPIRE :

Ông có đưa ra một tay già, thông tuệ kinh tan-mút, phán::
Chúng ta cầu nguyện Chúa Cứu Thế tới, nhưng đâu hẳn như thế, bởi là vì có những đấng Do Thái, trong bóng tối, thì thầm với Thượng Đế: Này, đừng có nhập thế đấy nhé!

George STEINER: 
Tôi mô phỏng Hegel. Tay này không ưa dân Do Thái. Một bữa ông ta kể chuyện tiếu lâm, Thượng Đế vi hành, gặp một tên Do Thái, và đề nghị: Mày chọn gì, giữa 2 món này, hoặc là cứu chuộc, hoặc tờ nhật báo buổi sáng, hắn ta bèn chọn tờ báo.

Căng lắm đấy, cái câu chuyện tiếu lâm này. Chúng tôi là 1 dân tộc bị hớp hồn bởi lịch sử, bởi những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt vĩ đại… là cái số mệnh của chúng tôi, và thỉnh thoảng, tôi tự nhủ thầm, có khi còn mỉm cười và nhủ thầm: Giá mà “Chúa Cứu Thế”, tức anh VC Giải Phóng Bắc Kít, đừng có tới, thì thật đỡ khổ biết là chừng nào!

TTT, hẳn là bị ám ảnh bởi 1 câu chuyện tiếu lâm như trên, thành thử khi đọc Trầm Tư của 1 tên tử tù của Hồ Hữu Tường, trong đó, ông mơ tưởng Đức Phật sẽ có ngày trở lại với dân Mít, nhà thơ hoảng quá, viết:

Giấc mơ Đức Phật trở lại thì cũng nát tan như mảnh đồng Bắc Kít chằng chịt những bờ, và bờ thì nhiều hơn là ruộng.

Ui chao, một khi cánh đồng liền thành một mảnh, qua Cải Cách Ruộng Đất, qua tập thể hoá… là Quỉ Đỏ xuất hiện, thay vì Đức Phật!
Tội nghiệp dân Mít!
Hà, hà!


Sun, Dec 23, 2012
Thu Chao hoi
K/G ông Cà Chớn,

Một mình ông ( là Bắc Kỳ ) mà dám nói thật, nói thẳng trên văn đàn là tôi đã phục ông rồi, tôi biết là ông sẽ có nhiều người ghét ông lắm ! Mà ông gan thiệt à nghe !
Có lần tui đi tìm dấu vết cũ, tui gặp, Cà Chớn ( So Da Huong ) trên Văn , té ra, khong co Cà Chớn, mà là, Thời Còn Trẻ Tuổi !
Toi khong co may so nay dau ! toi chi tim nhat tren Net !
Chuc ong va GD giang sinh hanh phuc

Đa Tạ
Chúc bạn & gia đình mọi điều an lành, nhân dịp GS & NM

Số Mây Mùa Thu, tôi cũng tìm thấy trên Net

NQT

Thời còn trẻ tuổi, sau được in trong tập truyện Những Ngày Ở Sài Gòn, với cái tên Chuyện Hai Thành Phố [cái tít chôm của Dickens]

Đúng ra là, Gấu phát triển thành 1 truyện ngắn, bây giờ đọc lại, thì thấy lại cả 1 đoạn đời, của hai trong bẩy đứa, được gọi là Thất Hiền, bẩy đứa bạn quen nhau qua bạn Chất, em trai nhà thơ TTT.
Lần gặp lại anh, ở San Jose, khi nghe tin ông anh nhà thơ mất, Chất nói, trong bẩy đứa, thì mày với thằng Cẩn là thân nhau nhất, gần như tách biệt ra.
Quả có thế. Gấu có quá nhiều kỷ niệm với Phạm Năng Cẩn, vào đúng cái thời kỳ mới lớn, cả hai đều đã làm ra đồng tiền rồi, thành thử mỗi lần gặp là 1 ngày hội. Cẩn khi đó, làm thông ngôn cho Mẽo, ở đâu mãi địa đầu chiến tuyến. Mỗi lần Sài Gòn có phim mới, là anh làm một chuyến đi bằng máy bay về coi, rồi lại trở về đơn vị. Thằng em trai của Gấu, ra trường, được phái về 1 đơn vị gác phi trường Sóc Trang, máy bay quân sự sẵn có, về thăm Sài Gòn dài dài. Mỗi lần về lại đơn vị, thì bèn phôn liền cho ông anh qua Đài VTD thoại quốc nội, ngay kế bên Đài VTD thoại quốc tế, building số 5 Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Lần Gấu nghe tin thằng em tử trận tại Đài, còn sửng sốt, hỏi lại, chết hả, vô lý quá, nó chưa phôn về cho tôi, nói đã về tới đơn vị, sao mà đã chết rồi?

Viết bên lề "Bên Thắng Nhục"

Gulag của Solz, cơ bản khác hẳn những cuốn trước - những hồi ức cá nhân, trong có những phát hiện có tính xã hội - không chỉ vì trong đó là hàng hàng chứng tích, từ những hàng hàng lớp lang con người, với những cuộc sống khác nhau, từ đó phản chiếu cả một xã hội, cả một dân tộc; ấn tưọng hơn nữa, là, Solz đặt để tác phẩm, với kinh nghiệm của bao nhiêu con người trong có của riêng ông, vào trong nội dung của lịch sử dân tộc, tôn giáo, ý hệ của nó, từ đó, làm bật ra cả một hệ thống kìm kẹp từ đỉnh đến đáy, sự đồng lõa của toàn thể dân chúng, của toàn thể một dân tộc, cùng tham dự vào tội ác, với tất cả những chiều hướng ngang dọc, cao thấp mà chỉ chế độ Nazi mới tương xứng với nó.

Sự đồng lõa của toàn thể dân chúng, chỉ có Nazi mới tương xứng....: Có Thái Dúi, tà lọt Osin... trong số ‘dân chúng’đó không? Chắc là còn bé quá, khi Bắc Kít ăn cướp Miền Nam, nên đếch có tội?

*

Foreword to the Abridgment

If it were possible for any nation to fathom another people's bitter experience through a book, how much easier its future fate would become and how many calamities and mistakes it could avoid. But it is very difficult. There always is this fallacious belief: "It would not be the same here; here such things are impossible."
Alas, all the evil of the twentieth century is possible everywhere on earth.
Yet I have not given up all hope that human beings and nations may be able, in spite of all, to learn from the experience of other people without having to live through it personally. Therefore, I gratefully accepted Professor Ericson's suggestion to create a one-volume abridgment of my three-volume work, The Gulag Archipelago, in order to facilitate its reading for those who do not have much time in this hectic century of ours. I thank Professor Ericson for his generous initiative as well as for the tactfulness, the literary taste, and the understanding of Western readers which he displayed during the work on the abridgment.

ALEKSANDR I. SOLZHENITSYN
Cavendish, Vermont December, 1983

Lời nói đầu cho bản Bản Rút Gọn

Nếu khả hữu cái chuyện, bất cứ một dân tộc nào cũng có thể cưu mang kinh nghiệm bi thương cay đắng của 1 dân tộc khác, tương lai của nó mới dễ dàng làm sao, và chỉ còn có cái may mắn, mọi khuyết điểm lầm lẫn chẳng hề xẩy ra.
Những đúng là chuyện cực nhảm, khó bằng trời. Luôn luôn có niềm tin cà chớn: “Ở xứ Mít, thí dụ, làm sao có chuyện đó xẩy ra. Nước Việt Nam là một, vậy mà tụi Mỹ, Ngụy dám nói xưng xưng là Bắc Kít là đồ ăn cướp, đồ xâm lăng!”
Than ôi, Con Quỉ Gulag của thế kỷ thứ 20, chỗ nào mà chẳng có.
“Oan ức” gì cái chuyện được đi tù Cải Tạo?
Tuy nhiên, tôi không hề buông xuôi mọi hy vọng rằng con người và những quốc gia có thể, mặc dù mọi chuyện, học được kinh nghiệm của dân tộc khác mà, 1 cách cá nhân, không phải sống nó.
Vì thế, tôi cám ơn giáo sư và chấp nhận đề nghị tạo bản rút gọn bộ sách gồm ba cuốn của tôi, Quần Đảo Gulag, để tạo sự dễ dàng khi đọc nó, đối với những độc giả không có nhiều thời giờ dành cho cái thế kỷ sôi nổi, [đầy máu và nước mắt] của chúng ta….


* *

    SOMETHING ABOUT WRITING

IF I'M not mistaken, Balzac, for example, wrote novels nonstop until the moment that pulled him out of the practice of his profession. Let us just try and roughly imagine the extent of such a faculty for fantasizing. For Dostoyevsky, as I believe I should know, it may have been the same. After publishing a string of comparatively very worthwhile novellas, Gottfried Keller entered the civil service, which for the next fifteen years kept him from any further continuous literary work. Adalbert Stifter, who possessed a lively talent for narrative like an effervescent spring upon which he drew to his heart's content, held a civil service post in education. Goethe, this giant, as his life history displays, poeticized himself into, as it were, a courrlike, that is, administrative position through works that soared into the ranks of the imperishable. The existence of a writer is determined by neither success nor acclaim, but rather depends on his desire or power to tabulate anew again and again. Balzac apparently did this constantly, Keller not, and undoubtedly there were reasons why he didn't. I believe the causes as to why some continue to write on and on and others at times cease their poetic endeavors are, under certain circumstances, too subtle to be easily defined. External events are capable of giving a career a certain direction; for example, the character or incidents in the region of the heart may be worthy of serious consideration. Some writers present their best work at the beginning of their strivings only to succumb afterwards to their proclivity, bit by bit, to flatten out, while we know of quite a few others who strike us as curious because they happen to start inconspicuously or uncertainly, but nevertheless precisely for this reason acquire in the course of time more certitude, superior vision, etc. To which type one gives preference is left to necessity. Every writer is an aggregate of two people, the citizen and the artist, to which he, more or less fortunately, resigns himself.
(1930)

Note: Bài Bạt tuyệt lắm. Tin Văn sẽ đi liền. Tác giả bài viết, Tom Whalen nhìn ra 1 Walser khác hẳn với cách nhìn chung, coi ông cùng dòng với Musil, Broch hay Thomas Mann, thí dụ.

* &

LI-YOUNG LEE

Folding a Five-Cornered Star
So the Corners Meet

This sadness I feel tonight is not my sadness.

Maybe it's my father's.
For having never been prized by his father.
For having never profited by his son.

This loneliness is Nobody's. Nobody's lonely
because Nobody was never born
and will never die.

This gloom is Someone Else's.
Someone Else is gloomy
because he's always someone else.
For so many years, I answered to a name,
and I can't say who answered.

Mister Know Nothing? Brother Inconsolable?
Sister Every Secret Thing? Anybody? Somebody?

Somebody thinks:

With death for a bedfellow,
how could thinking be anything but restless?
Somebody thinks: God, I turn my hand face down
and You are You and I am me.


I turn my hand face up
and You are the I
and I am your Thee.


What happens when you turn your hand?

Lord, remember me.
I was born in the City of Victory,
on a street called Jalan Industri, where
each morning, the man selling rice cakes went by
pushing his cart, its little steamer whistling,
while at his waist, at the end of a red string,
a little brass bell
shivered into a fine, steady seizure.

This sleeplessness is not my sleeplessness.
It must be the stars' insomnia.
And I am their earthbound descendant.

Someone, Anyone, No one, me, and Someone Else.
Five in a bed, and none of us can sleep.
Five in one body, begotten, not made.
And the sorrow we bear together is none of ours.
Maybe it's Yours, God.
For living so near to your creatures.
For suffering so many incarnations unknown to Yourself.
For remaining strange to lovers and friends,
and then outliving them and all of their names for You.
For living sometimes for years without a name.
And all of Your spring times disheveled.
And all of Your winters one winter.

from Image

   
SUJI KWOCK KIM

Return of the Native
****
for Kang,
born in Sonchon, North Korea
Better not to have been born
than to survive everyone you loved.
There's no one left of those who lived here once,
no one to accuse you, no one to forgive you-
only beggar boys or black-market wives
haggling over croakers and cuttlefish,
 
hawking scrap-iron and copper-pipes stripped from factories
in the shadow of the statue of the Great Leader.
Only streets emptied of the villagers you knew,
only the sound of steps of those no longer living,
ghosts grown old, grim shadows of what they had once been:
some in handcuffs, some in hoods taken away at midnight,
some roped and dragged into Soviet Tsir trucks
driven to the labor camps that "don't exist."
Every absence has a name, a face, a fate:
but who, besides you, remembers they were ever alive?
You don't know why you were spared,
why you breathe walk drink eat laugh weep-
never speaking of those who had been killed,
as if they had never existed, as if the act of surviving them
had murdered them.
Forget,jorget! But they want to be remembered.
Better people than you were shot:
do you think your life is enough for them?
For the silence
is never silent: it says We hate you
because you survived. No. We hate you
because you escaped.

from Ploughshares

Imaginary Beings Book

The Sphinx

The Sphinx found on Egyptian monuments (called "Androsphinx" by Herodotus, to distinguish it from the Greek creature) is a recumbent lion with the head of a man; it is believed to represent the authority of the pharaoh, and it guarded the tombs and temples of that land. Other Sphinxes, on the avenues of Karnak, have the head of a lamb, the animal sacred to Amon. Bearded and crowned Sphinxes are found on monuments in Assyria, and it is a common image on Persian jewelry. Pliny includes Sphinxes in his catalog of Ethiopian animals, but the only description he offers is that it has "brown hair and two mammae on the breast."
    The Greek Sphinx has the head and breasts of a woman, the wings of a bird, and the body and legs of a lion. Others give it the body of a dog and the tail of a serpent. Legend recounts that it devastated the countryside of Thebes by demanding that travelers on the roads solve riddles that it put to them (it had a human voice); it devoured those who could not answer. This was the famous question it put to Oedipus, son of Jocasta: "What has four feet, two feet, or three feet, and the more feet it has, the weaker it is?" (1)
    Oedipus answered that it was man, who crawls on four legs as a child, walks upon two legs as a man, and leans upon a stick in old age. The Sphinx, its riddle solved, leapt to its death from a mountaintop.
    In 1849 Thomas De Quincey suggested a second interpretation, which might complement the traditional one. The answer to the riddle, according to De Quincey, is less man in general than Oedipus himself, a helpless orphan in his morning, alone in the fullness of his manhood, and leaning upon Antigone in his blind and hopeless old age.

(1)
This is apparently the oldest version of the riddle. The years have added the metaphor of the life of man as a single day, so that we now know the following version of it: "What animal walks on four legs in the morning, two legs at midday, and three in the evening?" 

Đọc/Viết mỗi ngày

Borges Conversations

You Only Need To Be Alive:

Art Should Free Itself from Time

OSVALDO FERRARI. Today we will talk about beauty. But before we do so, we will transcribe your views about the place of art and literature in our times as discussed in an earlier conversation.
JORGE LUIS BORGES. Art and literature ... should try and free themselves from time. Often, I have been told that art depends on politics or on history. I think that's untrue. It escapes, in some way, from the organized causality of history. Whether art happens or doesn't, either depend on the artist.
FERRARI. Another matter not usually talked or thought about, apart from the spiritual life, is beauty. It's odd that, these days, artists or writers do not talk about what is supposedly always their inspiration or objective, that is, beauty.
BORGES. Perhaps the word has been worn out but not the concept- because what purpose does art have other than beauty? Perhaps the word 'beauty' is not beautiful though the fact is, of course.
FERRARI. Certainly, but in your writing, your poems, your stories ...
BORGES. I try to avoid what's called 'ugly art'- sounds horrible, doesn't it? But there have been so many literary movements with horrible names. In Mexico, for example, there was a literary movement frighteningly called Stridentism. It finally shut up, which was the best thing it could do. To aspire to be strident-how awkward, isn't it!
My friend Manuel Maples Arce led that movement against the great poet Ramon Lopez Velarde. I remember his first book-without any hint of beauty, it was called 'Inner Scaffolding'. That's very awkward isn't it? (Laughs) To possess inner scaffolding? I remember one line of a poem, if it was a poem at all: 'A man with tuberculosis has committed suicide in all the newspapers'. It's the only line I recall. Perhaps my forgetfulness is kind-if that was the best line in the book, on shouldn't expect much from the rest of it. I saw him many years later in Japan. I think he was the Mexican ambassador there and that had made him forget not only literature but his literature. But he has remained in the histories of literature, which collects everything, as the founder of the Stridentist movement (both laugh). Wanting to be strident-one of the most awkward of literary desires.
FERRARI. As we are talking about beauty, I would like to consult you about something that has caught my attention. Plato said that of all the archetypal and supernatural entities, the only visible one on earth the only manifest one, is beauty.
BORGES. Yes, made manifest through other things.
FERRARI. Caught by our senses.
BORGES. I'm not sure about that.
FERRARI. That's what Plato said.
BORGES. Well, of course, I suppose that the beauty of a poem has to appeal to our ears and the beauty of a sculpture has to pass through touch and sight. But these are mediums and nothing more. I don't know if we see beauty or if beauty reaches us through forms which could be verbal or sensual or, as in the case of music, auditory. Walter Pater said that all the arts aspire to the condition of music. I think that is because form and content fuse in music. That is, one can tell the plot of a story, perhaps even give it away, or that of a novel, but one cannot tell the story of a melody, however straightforward it may be. Stevenson said, though I think he was mistaken, that a literary character is nothing but a string of words. Well, it is true, but at the same time it's necessary that we perceive it as more than a string of  words. We must believe in it.
FERRARI. It must, in some way, be real.
BORGES. Yes. Because if we sense that a character is only a string of words, then that character has not been well created. For example, reading a novel, we must believe that its characters live beyond what the author tells us about them. If we think about any character in a novel or a play, we have to think that this character, in the moment that we see him, sleeps, dreams and carries out diverse functions. Because if we don't, then he would be completely unreal.
FERRARI. Yes. There's a sentence by Dostoyevsky that caught my eye as much as one by Plato. About beauty, he said, 'In beauty, God and the devil fight and the battlefield is man's heart.'
BORGES. That's very similar to one by Ibsen, 'That life is a battle with the devil in the grottoes and caverns of the brain and that poetry is the fact of celebrating the final judgment about oneself.' It's quite similar, isn't it?
FERRARI. It is. Plato attributes beauty to a destiny, a mission. And among us, Murena has said that he considers beauty capable of transmitting an other-worldly truth.
BORGES. If it's not transmitted, if we do not receive it as a revelation beyond what's given by our senses, then it's useless. I believe that feeling is common. I have noticed that people are constantly capable of uttering poetic phrases they do not appreciate. For example, my mother commented on the death of a very young cousin to our cook from Cordoba. And the cook said, quite unaware that it was literary, 'But Senora, in order to die, you only need to be alive.' You only need to be alive! She was unaware that she had uttered a memorable sentence. I used it later in a story: 'You only need to be alive'-you do not require any other conditions to die, that's the sole one. I think people are always uttering memorable phrases without realizing it. Perhaps the artist's role is to gather such phrases and retain them. George Bernard Shaw says that all his clever expressions are the ones he had casually overheard. But that could be another clever feature of Shaw's modesty.
FERRARI. A writer would be, in that case, a great coordinator of other people's wit.
BORGES. Yes, let's say, everyone's secretary-a secretary for so many masters that perhaps what matters is to be a secretary and not the inventor of the sayings.

FERRARI. An individual memory of a
collective.
BORGES. Yes, exactly that.

Bạn chỉ cần còn sống, và nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ đụng 1 cuộc chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém: Văn Chương.

Bạn chỉ cần, chỉ cần, chỉ cần....  còn sống!
Đám tinh anh Ngụy chết vì câu này. Chúng chỉ cần còn sống, và tìm đủ mọi cách để....  bỏ chạy cuộc chiến.
Lũ Triết Mít, sở dĩ chúng chọn Triết, vì cứ học thuộc lòng cours của Thầy, là đậu, là được hoãn dịch, là thoát chết.
Rõ ràng là, đám này không viết được 1 cái gì cho ra hồn, là do phần đạo hạnh của chúng có 1 vết chàm to tổ bố, làm sao viết?
Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh. Đạo Hạnh có vết chàm làm sao có Mỹ?
Rồi đám bỏ cuộc chiến bằng con đường du học, cũng Mắm Sốt Kít! 

Ferrari: Dos phán, trong cái đẹp Chúa và Quỉ uýnh lộn và chiến trường là trái tim của con người
Borges. Giống câu của Ibsen, Đời là cuộc chiến với quỉ, ở hang cùng ngõ hẻm của cục não của con người và thơ là sự lên ngôi của Phán Quyết Chót của 1 con người về chính nó.
Đúng thế. Plato gán cái đẹp, cho số phần, cho nhiệm vụ. Và giữa chúng ta, Murena phán, cái đẹp có thể chuyên chở một sự thực “khác”


Trong cuốn tiểu luận nho nhỏ trên, đa số là những phê bình, nhận định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi thơ, phải nói là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết về những cuốn sách mà chúng ta đọc khi còn con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản ứng của con người, ở đây, là ba nhà văn hách xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc, và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất bỏ được gánh nặng tuổi thơ…

L' Appel Du Mort

Lướt TV

http://www.tanvien.net/Ky/Hay_doi_hay_dien.html

Ðuốc Tình

Có một người con gái rất trẻ
hỏi một người phụ nữ lớn tuổi
Đàn ông yêu như thế nào
họ yêu có khác mình không?

Người phụ nữ ngẫm nghĩ
Tình yêu của đàn ông à?
Lạ lắm
nói thế nào cho đúng nhỉ

Thế này nhé
Đó là một ngày
bỗng dưng
có một người đàn ông ở đâu đến
một tay cầm bó đuốc
tay kia gõ gõ lên cánh cửa hồn mình
ngọn đuốc
cháy phừng phừng
tưởng như không có cách nào dập tắt được

Anh ta quơ quơ ngọn đuốc
linh hồn mình bắt cháy
thành than
Anh ta ghé xuống
sưởi cả thân thể ấm áp của riêng anh
xong
bỏ đi
quên ngay ngọn lửa

Và đàn bà
thì muôn thủa
tiếc ngọn lửa đã đốt cháy hồn mình
thu những tàn tro
phủ lên những mảnh than còn sót lại
cố che chắn giữ cho đốm lửa âm ỉ
tự sưởi một phần đời

Cho dù có một ngọn lửa khác đốt lên
hong ấm lại nàng
những mảnh than đầu tiên
vẫn không bao giờ tắt

Đó là sự khác biệt về tình yêu
giữa đàn ông và đàn bà.

TMT

Note:
Bài thơ, đăng trên DM, có 1 lỗi đánh máy, GCC chờ hoài, coi có ai nhận ra.
Nô là Nô.
Thơ bị coi rẻ là vậy.
Một cái dấu phảy thôi, mà có thế giới, chết vì nó, như Cioran đã từng mơ tưởng.

GCC sợ rằng, chính tác giả của bài thơ cũng coi rẻ nó.

NMG phán về GCC, ông ưa cầu toàn, vì cái tật, vừa gửi text đi, là đã gửi tiếp text revised liền tù tì theo rồi.

Hồi GCC còn quan hệ thân thiết với đám bạn văn VC, có 1 em nhận xét, vừa nhận 1 bài viết của anh, đã có liền bài revised, chỉ khác bài trước, đúng 1 cái dấu phảy!
Hà, hà!

Gọi là gì, xứ của anh?
Sau núi, sau năm?
Tôi biết, gọi là gì
Chuyện mùa đông, nó được gọi
Nó được gọi, chuyện mùa hè
Ba năm mẹ già (1) cũng đừng trông, nó là thế
Thế nó là
Nó lang thang khắp nơi
Như ngôn ngữ

(1) Người đi, ừ nhỉ người đi thực
Ba năm mẹ già cũng đừng trông
Thâm Tâm: Tống Biệt Hành

Là cái gì, chuyện 1 bản văn (hay bất cứ cái chi chi) cưỡng lại cố gắng của chúng ta khi làm cho nó có nghĩa?
Về câu hỏi này, những bản viết của George Steiner có vẻ như chỉ đúng hướng cho chúng ta. Câu hỏi phơi bày cho chúng ta, tới cái kinh nghiệm cơ bản của người dịch thuật, mà người ta có thể tóm gọn, và nói, đây là thứ kinh nghiệm có trước tất cả mọi kinh nghiệm, kinh nghiệm về không-căn cước, hay về cái cá thể tối giản, hết còn đơn giản được nữa, của mọi hiện hữu, đặc biệt là về con người và ngôn ngữ của nó. Kinh nghiệm này thì vừa đạo hạnh, vừa mở, nghĩa là không bao giờ chấm dứt.
Một bên thì cố gắng làm cho bên kia trở thành thông suốt, ở bên trong ngôn ngữ, khung văn hóa của riêng nó, nhưng bên kia không thể nào bị khách hoá, đối tượng hóa, theo cái kiểu này, bởi vì nó thuộc về thế giới của riêng nó, và không thể nào bị đánh gốc, bật rễ ra khỏi nếu không dùng bạo lực. Cổ đại Latinh hiểu rõ điều này, khi gắn kết dịch thuật với những chiến thắng thành phố, bắt nô lệ, và khuân của cải về nhà – nói ngắn gọn, sự hình thành đế quốc.

Cái em nhà quê tuy lớn lên ở ngoài này, đâu có hiểu rằng là, khi dịch ba thứ văn thơ ăn cướp của VC, là cũng góp phần kiện toàn Cái Ác Bắc Kít. 
[Sorry DTBT. NQT]

Không phải tự nhiên mà TV lại giới thiệu những tác giả như W.G. Sebald.
Cũng thế, phản ứng của 1 anh bạn văn VC ở Hà Nội, sao cứ lải nhải hoài về Lò Thiêu, mắc mớ gì đến Mít.
Hay của 1 độc giả TV, mi bị THNM rồi, nhìn đâu cũng thấy VC.
May mà có em BHD, không thì mi biến thành quỉ VC từ khuya rồi!

Cũng thế, không phải tự nhiên “em” DTBT, ưa mơ mộng, thích vượt khoảng trống dịch thơ LTMD, người đẹp của HPNT, thí dụ.
Trong bài phỏng vấn, do khả năng chắc cũng hơi hạn hẹp của cả hai, cho nên chẳng người nào đề cập đến sự nguy hiểm của dịch dọt.

Nếu không bị đám khốn xúm lại đánh, [ngay khi Chợ Cá vừa xuất hiện. Trận đòn hội chợ này có sự tiếp tay của Sến. Em giả đò thương hại, khi có vài độc giả lên tiếng bênh Gấu, sao anh không chịu đích thân trả lời, hết xí oát rồi hả…], thì Gấu đã tiếp tục loạt bài về dịch cho talawas.
SCN lúc đầu rất mừng, liền sau khi đọc bài đầu Gấu gửi. Em viết mail, trước giờ, viết sâu sắc, nhưng bài này
, Dịch Là Cướp, cho thấy khía cạnh tức cười…. Gấu đã tính đi 1 loạt bài cho CC.
Cái tít của Sến, của Gấu dài thòng.
SCN rất có tài đặt tít. Thật gọn, thật nổi. Cái tít “Miếng Cơm Manh Chữ” cũng của Sến

Nay nhân cơ hội, viết tiếp.
Trước hết, giới thiệu bài của Gerald  L. Bruns
Về Cái Khó, On Difficulty: Steiner, Heidegger, and Paul Celan
Trong Ðọc Steiner, Reading George Steiner.

*

Cuốn này của NTV cho GCC, ngay những ngày mới ra hải ngoại, khi thấy GCC mê Steiner quá!
Anh cho biết, đọc Steiner từ Việt Nam, trước 1975, tại Sài Gòn, cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng, nhưng không bị choáng như GCC.
Và kết luận, mi phải có Cái Ác Bắc Kít, và nó phải thật đậm đặc đến nỗi, vừa g
p… Cái Ác Nazi và Lò Thiêu, là nó bùng bổ ra.

Cốm là 1 đặc sản của Mít, nó đâu có từ đương đương để mà dịch qua tiếng Anh?
Cũng thế, những từ “phanh”, lốp [xe], xà phòng của Tây mũi lõ, mà dân Mít mượn.
Ðâu chỉ 1 từ cốm. Những từ áo dài, cái nhà, nước mắm, con gái… mũi lõ chỉ nội nghe đọc lên, là đã thèm nhỏ nước miếng rồi.
Vậy mà dám dịch là “green rice”, thì đúng là hiếp dâm… cốm!
Em này do sống ở ngoài này, thành ra chưa từng nhìn thấy cái gọi là green rice, thứ gạo hẩm, lên men xanh, bốc mùi hôi, mà nhờ VC Bắc Kít giải phóng Miền Nam, dân Miền Nam mới nhìn thấy và được thưởng thức.
Em cũng bày đặt mê tiếng thơ át tiếng bom, thành ra mới dịch thơ của người đẹp và con thú LTMD, mới dịch cái gì gì “Đạn bom rơi chẳng sợ đâu/ Chỉ e sương ướt mái đầu lá chanh", mà DTBT dịch “We are not frightened by bullets and bombs in the air/Only by dew wetting our lime-scented hair”, “Tình Sầu” thành “Meditations on Love”… thật tội nghiệp cho chữ nghĩa Việt Nam quá chừng!!! [Trích 1 cái còm của một độc giả trên DM].
Ðây là ăn phải Kít WJC.
Hay có thể, cũng nhắm đường về rồi.
*

GERALD L. BRUNS

On Difficulty: Steiner, Heidegger, and Paul Celan

*

what is it called, your country
behind the mountain, behind the year?
I know what it's called.
Like the winter's tale, it is called,
it's called like the summer's tale,

your mother's threeyearland, that's what it was,
what it is,

it wanders off everywhere, like language.

Gọi là gì, xứ của anh?
Sau núi, sau năm?
Tôi biết, gọi là gì
Chuyện mùa đông, nó được gọi
Nó được gọi, chuyện mùa hè
Ba năm mẹ già (1) cũng đừng trông, nó là thế
Thế nó là
Nó lang thang khắp nơi
Như ngôn ngữ

(1) Người đi, ừ nhỉ người đi thực
Ba năm mẹ già cũng đừng trông
Thâm Tâm: Tống Biệt Hành



ALEXIS RHONE FANCHER

When I turned fourteen,
my mother's sister took me
to lunch and said:


***

soon you'll have breasts. They'll mushroom on your
smooth chest like land mines.

A boy will show up, a schoolmate, or the gardener's son.
Pole-cat around you. All brown-eyed persistence.

He'll be everything your parents hate, a smart aleck,
a dropout, a street racer on the midnight prowl.

Even your best friend will call him a loser.
But this boy will steal your reason, have you

writing his name inside a scarlet heart, entwined
with misplaced passion and a bungled first kiss.

He'll bivouac beneath your window, sweet-talk you
until you sneak out into his waiting complications.

Go ahead, tempt him with your new-found glamour.
Tumble into the backseat of his Ford at the top of Mulholland,

flushed with stardust, his mouth in a death-clamp on your nipple,
his worshipful fingers scatting sacraments on your clit.
Soon he will deceive you with your younger sister,
the girl who once loved you most in the world.

from Ragazine

From The Best American Poetry 2016
Note: Đọc song song với Đuốc Tình


http://tanvien.net/new_daily_poetry/Akhmatova_half_century.html

cái giá "một nghìn bốn trăm tỉ đồng" khiến mình nghĩ đến những sự tốn kém khổng lồ và ngu xuẩn khác của nhân loại. thờ hồ chí minh thực ra cũng chỉ ngớ ngẩn ngang với thờ siddharta hay jesus mà thôi. thậm chí là không ngớ ngẩn bằng. chúng ta đều biết rằng siddhartha thực ra là một gã chán đời, liệt dương do chơi gái quá nhiều, nhưng vì vẫn muốn tìm sự thoả mãn nên phải quay ra cổ suý sự "diệt dục." còn jesus thì rõ ràng là bị chứng vĩ cuồng nặng, và chắc là phải hơi "thần kin...

See More
122 Likes31 Comments2 Shares

Note: HCM là người đương thời. Những gì ông ta làm, đương thời kiểm chứng được, và lịch sử càng ngày càng cho thấy, HCM là 1 tên tráo trở, lưu manh, mạt hạng. Sự kiện, ông ta xoá thư viết bằng tiếng Tàu, đúng văn phạm của đệ tử là Hoàng Văn Hoan, thay bằng 1 lá thư viết sái văn phạm, do chính HVH kể, được kể lại trong cuốn Hồ Sơ Đệ Tứ, là 1 thí dụ về tính lưu manh mạt hạng của HCM.
Trong khi đó, Jesus là thuộc 1 thời quá xa vời, thành ra những gì nhân loại biết về Jesus, với tín hữu Ky Tô, là phép lạ, với 1 tên vô đạo, thì là ngớ ngẩn…
Những tín hữu Ky Tô, khi họ tin vào đạo của họ, là cho họ chứ đâu phải cho Jesus.
Nhờ niềm tin mà Czeslaw Milosz, Joseph Brodsky, chỉ kể hai trường hợp, sống sót hoả ngục Đỏ.
Viết như thế này, thì đúng là tên khốn nạn, cực kỳ khốn nạn, và nó còn chứng tỏ, đây là do nền giáo dục vô thần của Miền Bắc gây nên.
Hậu quả sẽ rất là khủng khiếp.
Còn dài dài những tên khốn như tên này.
NQT

Khoan nói đến tính tôn giáo, bạn thử chỉ cho GCC, 1 tên nhà văn Bắc Kít, mà trong văn của nó, có cái gọi là tâm linh?
Khi mới viết, Phạm Hải Anh, khi còn là 1 học sinh, viết từ 1 mái nhà Hà Nội, có cái chất này, sau mất dần.
Sến? Cực độc, cực kỳ vô lễ, thí dụ, rũ bụi cũng không thèm làm quen
Tâm linh, tôn giáo, không. Ngay cái tầm thường, “nhân hậu”, cũng đếch có luôn.

Bắc Kít rất mê văn chương Nga. Giỏi tiếng Nga không chỉ có nghĩa, bởi vì đó là con đường tiến thân của họ. Nhưng có 1 sự khác biệt rất “cơ bản” giữa cõi văn Nga, và cõi văn Bắc Kít. Phải mãi sau này, khi quá mê văn học Nga, khi ra được hải ngoại, và có điều kiện đọc, thì Gấu mới hiểu ra được, “mặc dù” Cái Ác Á Châu, văn học Nga vẫn sống sót, chính là nhờ niềm tin Ky Tô ở nơi họ.
Cái chết của Bắc Kít, chính là ở chỗ này, mặc dù - lại mặc dù – bốn ngàn năm văn hiến, Bắc Kít không có niềm tin tôn giáo.

Steiner, trong 1 bài viết tuyệt hảo, đã chỉ ra điều này: http://www.tanvien.net/Notes_2/under_eastern_eyes.html:

Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian.


Đọc nó, Gấu bèn nhớ tới Hồ Hữu Tuờng và giấc mơ Đức Phật sẽ trở lại với xứ Mít của ông, trong Trầm Tư của 1 tên tội tử hình.
Nên nhớ, HHT là người Miền Nam.
Bắc Kít không hề, không thể có 1 giấc mơ như vậy.
Không phải tự nhiên mà TTT, khi viết về Trầm Tư, đã nhắc tới giấc mơ của HHT và liên hệ nó, với đồng bằng Bắc Kít, bờ nhiều hơn ruộng.

tôi rất ghét jolie. đã xấu lại còn ngu. mồm nhìn như cái gạt tàn. tha về nhà một đống trẻ con, chỉ vì muốn được tôn làm thánh. cứ tưởng thế là hay, nhưng thực ra là rất ích kỷ. các nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng càng tiếp xúc nhiều với trẻ con thì đàn ông càng dễ liệt dương, và chán đời. chúc mừng brad. hãy như brad, hoặc chính xác hơn là không thể không như brad, nếu ở địa vị của chàng.

Note: Tên Bắc Kít này, não cũng bị thiến một mẩu.
Bữa trước, lướt net, đọc, thấy
hắn cũng đi 1 đường về Jolie, "cứ nghĩ mình là Thánh Teresa"!

Theo GCC, có cái phần Thánh, của Mẹ Teresa, ở Jolie, nếu bạn coi 1 số phim của Jolie, thí dụ A Mighty Heart (2007), hay In the Land of Blood and Honey, which depicted a love story set during the Bosnian War, nhưng không có cái gọi là Flesh, mà mọi thằng đàn ông phải lặn xuống đó để gặp nhân loại, ở Mẹ
Teresa.
Nhặt những đứa trẻ mồ côi về nuôi, mà là rất ích kỷ? Tiếp xúc con nít nhiều, liệt dương? Jolie, xấu, ngu, miệng như cái gạt tàn?
Tên khốn này "có vẻ" rất nhơ bẩn, khi viết về phụ nữ?
Giống y chang tên Lăng Băm, sống thì núp váy đ
àn bà, mở miệng ra là nói nhơ bẩn về đàn bà.
Cái chất này ở mọi tên Bắc Kít
đều có, do nó, mà ra 1 ông bố Bắc Kít tàn bạo, ở trong MCNK, thí dụ.
Hay ông bố BHD, của GCC!
Ông bố của Kafka!
&

Playboy Sept 2016

*

Playboy Oct 2016

*

Thịt [tươi, sống]
Every man must descend into the flesh to
meet mankind.
Mọi thằng đàn ông đều phải lặn
vô đó, để gặp...  Chúa

*

Playboy June 2016
[Đó: Nơi chốn âm u và ẩm ướt, cái cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo, nơi Thượng Đế thường xuyên ẩn nấp...]
-G.K Chesterton, 1910
Có thể nói, câu của Chesterton, trên đây, là nói về Jolie!
Miệng rộng như cái gạt tàn!
UI chao lại nhớ câu nói cửa miệng của Bắc Kít, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà!
Search Tin Văn, ra đoạn sau đây về "thánh nữ" Jolie.
Tra nguồn, thì từ Gió-O, trích từ 1 trang net nào khác

http://www.tanvien.net/J_10/15.html


…Angeline Jolie và Brad Pitt, sau khi đi đến tận một quốc gia ở Nam Phi để sinh con, đã cho những tờ báo lá cải này đăng bức hình của con gái cùng với hình Brad Pitt đi theo Angelina Jolie như một con chó con, chỉ thiếu có cái đuôi ngoắc ngoắc, trông bỉ mặt nam nhi hết sức.
Tại sao những tờ báo này không biết rằng càng săn đuổi, những tên tuổi nổi tiếng ở Hollywood càng làm cao, càng giả bộ chạy trốn?

BBT

Chuyện săn đuổi là chuyện kiếm cơm. Báo lá cải nào mà chẳng sống nhờ săn đuổi.
Tuy nhiên, riêng với Jolie, có lẽ còn vì lý do khác nữa.
Cô đào này thiện tâm chẳng thua gì công nương Diana.
Không biết nhà biếm văn nổi tiếng có biết điều đó không?
Một tờ báo Tây còn lấy làm sợ hãi cho anh chàng chỉ thiếu một cái đuôi ngoắc ngoắc: Dám làm một "thánh nữ" mang bầu? Hãy coi chừng cái mạng! 

Nhân chuyện con nít, Gấu mới đọc 1 bài viết về những đứa trẻ mồ côi của sự tiến bộ, bất giác nhớ lại cái thời còn con nít ở xứ Bắc Kít, giả như không có 1 bà cô làm me Tây, được ra Hà Nội ăn học rồi nên người, thì không biết số phận của mình ra sao.



Trên tờ Guardian, 23-29 Sept, 2016, có bài viết về Le Carré. Carré nhắc đến Thầy của ông, là Greene, nhắc đến cái gánh nặng tuổi thơ ở nơi nhà văn.
GG tells us that childhood is the credit balance of the writer. By the measure at least, I was born a millionaire.

*

Trong cuốn tiểu luận nho nhỏ trên, đa số là những phê bình, nhận định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi thơ, phải nói là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết về những cuốn sách mà chúng ta đọc khi còn con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản ứng của con người, ở đây, là ba nhà văn hách xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc, và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất bỏ được gánh nặng tuổi thơ…

Khiem Do liked this.

Trong khi Hungary và các quốc gia cựu CS tại khu vực Trung Âu phản đối dữ dội kế hoạch phân bổ người tỵ nạn theo hạn ngạch của EU, thì truyền thông quốc tế cho hay, Cộng hòa Czech đã tiếp nhận 8 (tám) người tỵ nạn, nâng tổng số người tỵ nạn mà nước này cưu mang trên cơ sở chương trình tái định cư EU lên tới... 12 người.
http://nhipcauthegioi.hu/…/Cong-hoa-Czech-NHAN-NGUOI-TY-NAN…

nhipcauthegioi.hu|By Nhịp Cầu Thế Giới Online

Note: Trên Guardian, số cuối tuần, có 1 bài về Bà Tông Tông Đức, về vấn đề này, tuyệt.

*

Cứ như là/Đúng như là, Đức Quốc tự phát minh ra nó sau cuộc chiến, hoàn tất thống nhất, đây là thời điểm quyết định, xác định.
Ui chao, đọc mà thèm!
Mít phải thành công! 

L' Appel Du Mort

Lướt TV

Photo Booth: Josef Koudelka’s “Invasion Prague 68”

Bạn phải tưởng tượng ra 1 em văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn, và khóc, thì mang theo 1 cái máy camera, và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.

*

Vào ngày 21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka - một người đàn ông với cái camera, nửa đêm nhận được cú phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô Viết đã vượt biên giới vô Czechoslovakia. Cùng lúc, là những phi cơ vận tải với những binh đoàn nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo..  hạ cánh xuống phi trường Ruzyne, ngoại vi Prague. Ðây là 1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh sĩ thuộc Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK, và lời bảo đảm của thượng cấp, chuyến đi này không phải là "xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp ứng lời kêu gọi “giải phóng” MN của MTGP!

Mùa Xuân Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú đặt cọc cho mớ võ khí nặng sau cùng đã đào mồ chôn Ðế Quốc Xô Viết.

Tôi rời Quân đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó là ban đêm. Chúng tới ga Belorussky Rail Terminal, và đi bộ dọc theo phố Tverskaya Street nhắm hướng Kremlin. Chúng tôi đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung hăng. Chúng tôi gặp một ông già, một cựu binh từ Ðệ Nhị Thế Chiến.
-Sao tụi mi la lớn thế? 
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi tôi vừa giải phóng Prague.
Ông già quạt lại:
-Câm miệng, thằng ngu. Mi không biết cả những gì mà mi đang nói đó.
Và đó đúng là một lời phán lương thiện nhất về cuộc xâm lăng Prague mà tôi đã từng nghe được.

-Ðảng không dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng ông cách ăn cướp.

Note: Bài viết này, tờ Người Nữu Ước hết cho đọc free.
May quá, Tin Văn đã chôm rồi!

MOSCOW POSTCARD

A THOUSAND WORDS

On August 21, 1968, in Prague, Josef Koudelka-a man with a camera, received a middle-of-the-night-phone call from a friend.
Soviet tanks had crossed the border into Czechoslovakia. Simultaneously, transport planes were delivering paratroopers, light tanks, and other artillery to Ruzyne airport, on the outskirts of Prague-part of a force that would eventually comprise more than two hundred and fifty thousand Warsaw Pact soldiers, each equipped with a Kalashnikov and the assurance of his commanders that their mission was not an invasion but a response to a Czech invitation to a "liberation." This was how the Prague Spring ended: the down payment on the heavy equipment that would ultimately dig the Soviet Union's grave.

Koudelka spent the next week in the streets, breaching barricades, climbing aboard tanks, and witnessing the peaceful outrage and incredulousness of his compatriots, the sporadic violence of the invaders (more than a hundred Czech citizens died), and the peculiar bewilderment of those invaders. The resulting images established his reputation as one of the most gifted photographers of his time. Friends smuggled his film out of the country, and facilitated its publication. Still, it would be sixteen years-until the death of Koudelka's father, who had remained in Czechoslovakia after his son immigrated to London-before he considered it safe for the work to be identified as his. And it would be forty-three years-until earlier this month-before all the photographs could be seen by anyone in Moscow with some free time and fare for the Metro.
Three years ago, 'Invasion 68 Prague," an exhibition organized by the Aperture Foundation, opened, in Chelsea. It has since travelled to five countries. The show in Moscow, reconfigured for the Lumiere Brothers Center for Photography, had been more than a year in the planning, yet it seemed to catch Koudelka- white-haired, live-wired, a hopeful skeptic in perpetual motion-in his own state of mild incredulousness. "I never believed this exhibition could be in Moscow," he said. ''1' d like the young people who come to see it to see their own faces in the faces of these young Russians, who were their fathers or grandfathers, and to do everything in order to never be invaders."
In several photographs, this metaphor repeats-unarmed citizens eye to eye, at times debating, with soldiers who, even as they grip their weapons, appear disarmed by circumstance. "These soldiers were a little bit younger than me," Koudelka continued, "and I felt that it could have been me in their place. I lived in the same system. I could have been awakened one night, put on a plane and then on a tank with a machine gun in my hands. We talked with the Russian soldiers and they started to understand. But a soldier is a soldier. He has to obey orders."
Among the luminaries in the crowd was Natalya Gorbanevskaya, the Polish-Russian poet, whose decision, four days into the invasion, to participate in a protest in Red Square earned her twenty-six months in a Soviet psychiatric prison.
Meanwhile, an unheralded attendee was Boris Valentinovich Shmelyov, a Moscow pensioner who had heard about Koudelka's show from Josef Pazderka, a Czech journalist and editor of an oral history of the invasion, “Invaze 1968. Rusky Pohled" ("Invasion 1968. The Russian View"), published this year. Two days after the opening, the two of them returned to the gallery for a quiet second look. In the summer of 1968, Shmelyov, then twenty, was a paratrooper, based in Lithuania. He arrived in Prague during the first wave of transport flights. Like Koudelka, he owned a camera, which he used to photograph his fellow-soldiers and, on occasion surreptitiously, his commanders. The camera was confiscated, but he hid the film inside a radio. Several Shmelyov photographs illustrate his chapter in "Invaze 1968."
The first image in the gallery that he approached was among Koudelka's bleakest: bloodstained pavement, flowers, a sign declaring that on that spot a Soviet soldier had shot and killed a fourteen-year-old boy. 'When I saw that the other day, I remembered having seen it before," Shmelyov said. As he proceeded through the exhibit, he recognized archetypes. The flat gaze of a solitary soldier, holding a rifle, wearing a helmet. 'This is a country boy," Shmelyov said. "He's afraid, he doesn't know what to do, and he knows it."
A Czech in a black leather jacket confronts a soldier standing atop a tank. Two other soldiers are either clambering from the hatch or escaping inside. Dense black smoke rises from burning vehicles nearby. The man in the jacket spreads its lapels, exposing his chest, perhaps daring his opposite to shoot. 'They're defending the tank," Shmelyov said. "They're responsible for it and might be punished for letting it burn. They're chaotic and scared."
He continued, "I left the Army in December, 1969. I returned to Moscow by train. It was nighttime. We arrived at Belorussky Rail Terminal and walked along Tverskaya Street in the direction of the Kremlin. We were drunk and boisterous. We saw an old man, a veteran, an officer from the Second World War. Why do you shout?' he said to us. One of the fellows with me said to him, 'Get lost, old man. I was liberating Prague.' The old man replied, 'Shut up, you idiot. You don't know what you're talking about.' And that was the most honest appraisal of the Prague invasion that I ever heard."
-Mark Singer

Note: Ðọc bài này thì lại phải đọc bài thơ của TTT, mới đủ bộ!

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim, em một trái tim
Chúng kéo đầy đường, xe tăng, đại bác...

Khúc cuối bài viết, đọc, GCC lại nhớ đến bạn văn VC Bảo Ninh, và cái xen nhân vật của anh bị 1 đấng ăn mày Hà Nội xin đểu:
-Ðảng không dạy mi cách ăn xin hử?

GCC trả lời thay tay cái bang Hà Lội:
-Không! Ðảng chỉ dạy cách ăn cướp!

Hà, hà!


My Old Saigon


Văn chương ai điếu

[Note: Bài này đầu tháng lòi ra]

http://www.tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_6.html

*

GCC & NDT & VTD & DPP với mấy đấng nữa, không biết tên

Cali 3.08

Hà Nội

Bài này, nữa, nằm trong loạt bài viết song song với BL

Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa còn xa.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên vỉa hè nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp.
Bếp Lửa 

It is a mistake to think of Oliver Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens learn how to write realistically of human beings; at the beginning he invented life... these characters in Oliver Twist are simply parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called "the cold wet shelterless midnight streets of London."
Graham Greene: The Young Dickens

Thật lầm lẫn khi coi Oilver Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ muộn màng trong nghề Dickens mới đành phải học, làm thế nào viết về những con người một cách hiện thực; lúc thoạt vào nghề, ông phịa ra cuộc đời... những nhân vật trong Oliver Twist  giản dị chỉ là những phần của một khung cảnh lớn được bịa đặt ra, mà, trong lời mở đầu của chính tác giả, ông gọi là "những con phố nửa đêm không nơi trú ẩn, ướt, lạnh của London".
G. Greene: Dickens trẻ

Tôi tin rằng, những người Hà Nội bây giờ, đọc Bếp Lửa, sẽ nghĩ, đây là một chuyện phịa, theo nghĩa, không hiện thực!

Tôi tự hỏi, đoạn văn trên có ảnh hưỏng tôi không, bởi vì chắc chắn tôi đã đọc Bếp Lửa, trước khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn.

"Hà Nội... tiếng khóc nức nở của một cô gái đi chợ bán rau muống sớm, bị Tây hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy một thân hình rũ rượi, một dòng nước nhờn lẫn máu chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ quạng tìm cách che bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc. Tiếng rên rỉ của một người đàn ông ăn mặc khác thường bị trúng đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa đường phố, đứa bé bật khóc nức nở, không phải sợ hãi, không phải…"

Những ngày ở Sài Gòn

Những ngày thì ở Sài Gòn, nhưng những kỷ niệm, thì là của Hà Nội. Chính vì vậy, mà một ông bạn mới quen sau này, ở hải ngoại, khi đọc xong tập truyện đầu tay của Gấu, đã lắc đầu: Treo đầu dê bán thịt chó!
Về cái vụ cô gái bán rau muống bị Tây hiếp, Gấu nghe ông cậu, cậu Hồng, cùng tuổi Gấu, con Bà Trẻ, lúc đó cũng trọ họ ở Hà Nội, nơi nhà chị Giậu, vợ ông Hiếu Chân, tại Bạch Mai, kể lại. Thực sự Gấu không tận mắt chứng kiến.
Người đàn ông bị giết nằm ngay bên đường xe điện cũng nghe kể lại.
Cộng, kỷ niệm thực với hồi ức đọc, ra đoạn văn của Gấu, chắc thế.

Nhưng bị thằng bé đánh giầy chơi mất chiếc mũ dạ, là có thật. Đến bây giờ, về già, lâu lâu trong giấc mơ, vẫn còn trở lại:

[Khúc này Hải Âu mê lắm, hà, hà!]

Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện... Một lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra tôi.
Những con dã tràng
*

Đoạn văn tả cuộc nói chuyện giữa ông Chính và Tâm, và nói rộng ra, toàn thể chương I của Bếp Lửa, đã tiên đoán, sửa soạn cho mọi biến động diễn ra sau đó. Tất cả những nhân vật quan trọng đều xuất hiện, và nhất là, hồn ma của một bà mẹ, cũng xuất hiện. Nhưng không thể thiếu nhân vật, tuy thứ yếu, nhưng đóng vai xúc tác, không có là phản ứng hóa học không thể xẩy ra. Nhân vật xuất hiện chỉ một lần rồi bỏ đi vĩnh viễn, bởi đã hoàn tất  phần số của nó: Mưa.
Mưa Hà Nội.
Tác giả, miêu tả những xúc động của hai nhân vật, hai thế hệ "gần nhau nhất cũng không thể hiểu nhau", bằng âm thanh, cường độ của trận mưa.

Chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương là như vậy.

Bạn nào đã từng xem phim OK Corral, chắc là còn nhớ, trước khi xẩy ra trận thanh toán, nhân vật chính ra thăm thú nơi mình có thể chết. Như tình cờ, anh ta châm ngọn đèn dầu trên chiếc xe. Khi trận đấu súng xẩy ra, anh ta bắn vô cây đèn, chiếc xe bốc cháy, đám người ẩn sau nó phải chạy ra.
Trong phim Shane, hình ảnh con chó từ từ rời khỏi chỗ, nhường sàn gỗ cho hai tay đấu súng.
Mưa trong Giã Từ Vũ Khí của Hemingway.
Bùn trong Bẩy Hiệp Sĩ, Seven Samourai...

Với bậc thầy, cái sự sửa soạn mới là cần thiết, mới là quan trọng.
Trong Kim Dung, Lãnh Nguyệt Bảo Đao, cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa Miêu Nhược Lan và Hồ Phỉ, xẩy ra, khi ông bố Miêu Nhân Phượng bế con gái chạy theo vợ, bỏ đi theo trai, đuổi kịp tại Thương Gia Bảo khi tất cả mọi người bị cơn mưa cầm chân. Cô bé khát sữa mẹ, khóc ngất, bà mẹ rời tình nhân, đi vài bước tới tính cho con bú, nhưng tàn nhẫn quay ngược lại, ngồi xuống kế bên đống lửa, kế bên anh bồ đẹp trai. Thằng oắt Hồ Phỉ cáu quá, chạy ra mắng, tại sao lại có người đàn bà tàn nhẫn như thế, Miêu Nhân Phượng nhìn, nản quá, bèn bế con trở về, tha cho cả hai.
Sau đó, trong lần gặp sau cùng, cô nói với anh: Tôi sẽ không như mẹ tôi đâu.
Như thể, cô nhìn thấy và còn nhớ hoài, cảnh tượng lần đầu gặp nhau tại TGB.
Cuộc gặp gỡ giữa cô bé còn nằm trong nôi, với người yêu còn là thằng nhóc tì làm Hai Lúa nhớ đến bài ca dao sau đây.

Sao Vua chín cái nằm kề,
Thương Em từ thuở Mẹ về với Cha.
Sao Cày ba cái nằm ngang,
Thương Em từ thuở Mẹ mang trong lòng.
Sao Vua chín cái nằm chồng,
Thương Em từ thuở Mẹ bồng trên tay.
Sao Cày ba cái nằm xoay,
Thương Em từ thuở Em hay khóc nhè.

Và nhớ luôn cả vẻ mặt của ông bạn thân, và còn là người đưa thư, khi thấy thằng bạn mình mê BHD:
-Làm sao mà mày có thể mê nó? Tao đã từng thấy nó ỉa đùn, từ trên đầu cầu thang chảy xuống tới mãi mấy bực bên dưới hồi nhà nó còn ở đường PDP.

Nhưng cái kỷ niệm sau đây, nhờ NTV mà Gấu nhớ lại được, thì thật là tuyệt vời, chưa kể cái kỷ niệm, lần cả hai đứa xém chết vì lên xóm

http://www.tanvien.net/Notes_2/kyniem_2.html


* *

Call For The Dead

John Le Carré, Gấu cũng tự mình khám phá ra, cũng một cú tự sướng, lần ghé tiệm Xuân Thu, kế bên Quán Chùa, tình cờ cầm lên cuốn L’espion qui venait du froid, Gián điệp về từ miền lạnh, vừa đọc đến ‘du froid’ một phát, là lạnh run người, con vai-rớt Bắc Kít, bật nhỏm dậy, bao nhiêu sợi nắng, sợi mưa Sài Gòn cũng chịu thua, hà, hà, đúng là tâm trạng đó, cú mặc khải đó, khi Gấu bập vô cuốn truyện.
Rồi mò tới Gọi người đã chết, bản tiếng Tây, loại sách bỏ túi đóng dấu IC, giá tiền bằng giá tại gốc,10 đồng, tiền ông Diệm, đọc thì đọc, nhưng không cảm.
Phải tới khi vô nhà tù quốc tế Bangkok, nhờ bản tiếng Anh, của một tay thanh niên người Mã Lai, nằm kế bên, thì mới thấm đòn, và nhận ra, đây mới là cuốn hiển hách nhất của Le Carré.

Ui chao, bạn đọc đoạn sau đây, khi Smiley bị vợ bỏ, ông bạn VC người Đức tên Dieter thì lại tha thứ cho anh, không thèm làm thịt, và gieo mình xuống sông Tà Mi tự trầm, rồi nghĩ đến những thân phận PXA, thí dụ, bị chính cái Miền Bắc của anh bỏ rơi, sau khi vắt sạch, chết không nổi, cứ ngắc nga ngắc ngoải, vì địa ngục chật quá rồi, và cỡ như anh, Diêm Vương cũng lắc đầu không dám nhận, hay nghĩ đến thân phận thằng cha Gấu, cũng sắp đi rồi, mà đi về đâu, về đâu… hà, hà?

Smiley put this on one side and turned to the next letter. Just for a moment he did not recognize the handwriting; just for a moment he looked bleakly at the Swiss stamp and the expensive hotel writing paper. Suddenly he felt slightly sick, his vision blurred and there was scarcely strength enough in his fingers to tear open the envelope. What did she want? If money, she could have all he possessed. The money was his own, to spend as he wished; if it gave him pleasure to squander it on Ann, he would do so. There was nothing else he had to give her - she had taken it long ago. Taken his courage, his love, his compassion, carried them jauntily away in her little jewel case to fondle occasionally on odd afternoons when the time hung heavy in the Cuban sun, to dangle them perhaps before the eyes of her newest lover, to compare them even with similar trinkets which others before or since had brought her.
My darling George.
I want to make you an offer which no gentleman could accept.
I want to come back to you.
I'm staying at the Baur-au-Lac at Zurich till the end of the month. Let me know.
Ann
Smiley picked up the envelope and looked at the back of it: 'Madame Juan Alvida'. No, no gentleman could accept that offer. No dream could survive the daylight of Ann's departure with her saccharine Latin and his orange-peel grin. Smiley had once seen a news film of Alvida winning some race in Monte Carlo. The most repellent thing about him, he remembered, had been the hair on his arms. With his goggles and the motor oil and that ludicrous laurel-wreath he had looked exactly like an anthropoid ape fallen from a tree. He was wearing a white tennis shirt with short sleeves, which had somehow remained spotlessly clean throughout the race, setting off those black monkey arms with repulsive clarity.
That was Ann: Let me know. Redeem your life, see whether it can be lived again and let me know. I have wearied my lover, my lover has wearied me, let me shatter your world again: my own bores me. I want to come back to you ... I want, I want ...
Smiley got up, the letter still in his hand and stood again before the porcelain group. He remained there several minutes, gazing at the little shepherdess. She was so beautiful.
*
Đoạn hai tay kẻ thù bạn cũ đụng độ trên cầu, trên sông Ta Mì, cũng thật là tuyệt cú mèo:
Anh ta [Dieter] đi rồi, bầy mình ra, như một sự hy sinh của con người cho sương mù London và dòng nước khùng điên, đen ngòm ở bên dưới...
[He was gone, offered like a human sacrifice to the Lodon fog and the foul black river lying beneath it.]
Chắc là đành phải 'như một cú hi sinh con người', và lụi cụi dịch hết cuốn truyện này thôi !

Kỷ Niệm

- Mỗi người, ông và nàng, cầm một đầu tấm thảm. Nàng ngửa mặt ra phía sau, vung cao hai tay như trên một cây đu, nàng quay đầu để tránh bụi bay mù, nàng nheo mắt và cười ha hả phải không? Phải vậy không ông? Tôi biết thói quen của nàng quá mà? Sau đó hai người đi lại phía nhau, gấp tấm thảm lại thoạt đầu gập đôi, sau đó gập tư, và trong lúc làm việc đó, nàng luôn miệng nói đùa và nô giỡn chứ gì? Phải vậy không ông? Phải vậy không ông?
Bác sĩ Zhivago [VN thư quán]
Đây có lẽ là đoạn tuyệt vời nhất, ít ra là với Gấu, của cuốn tiểu thuyết.
Anh chàng VC Nga, Người Thép, Strelnikov, bị Đảng săn lùng làm thịt, trở về căn nhà ngày nào của mình, gặp Zhivago. Hai người đàn ông tranh nhau nói về người đàn bà.
Câu văn trên Gấu đọc, là nhớ liền, không làm sao quên được.
Có một cái gì đó, ở trong câu văn, một hình ảnh nào đó, làm Gấu nhớ hoài.
Chỉ tới khi về già, Gấu mới hiểu. Gấu đã từng tưởng tượng ra cảnh này.

Bạn đọc Tin Văn thử đoán coi?
Chắc là thua.
Đọc đoạn trên, là Gấu nhớ đến lần nhờ một anh bạn đem thư cho BHD, anh ta vô nhà, mải nói chuyện với ông anh của BHD, quên mẹ thằng Gấu ở ngoài, khi ra về, thấy Gấu thật là tang thương xơ xác trên chiếc xe đạp, chờ như chờ từ ngàn ngàn kiếp!
Để chữa... quên, anh ta còn lầu bầu, tao bị em của mày sai như nô lệ, anh V, giúp em khiêng cái giường!
Chả là em mới dọn nhà.
Ui chao, cứ nghĩ đến cảnh được phục vụ em, mà thèm! (1)

(1)

Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi. Cú trước khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra đi. Một ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali, thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn bèn đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng thêm bực mình. Và bèn mail trả lời ông bạn, cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu, sẵn bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình, nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử... tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán của mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu dặn, vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải trò chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên ngoài, khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều, tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê lương không thể nào tưởng tượng được.
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...  chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó không thèm cất đi, mà lại để ngay trên bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà, từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay, khiêng cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ ông via của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của mày coi tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng cái giường cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược, mặt mày méo xệch?
Sướng chưa!
Kỷ niệm

Note: Thi sĩ Hà Tuệ còn là thính giả đầu tiên nghe thơ TTT được phổ nhạc, ở trong nhà tù VC
http://www.tanvien.net/tg_vn_01/30.4.ttt.html

Ba Mươi Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền

Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê ngoại sống, không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩ  viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền: Trong Đất Trời Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa Xuân 1998].

Bài nhớ thi sĩ

Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu

Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới

Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau

Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song tù ngục

Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút

(Bình minh bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm

Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn

Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.

Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79

Thanh Tâm Tuyền Thơ Ở Đâu Xa

Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý.

Ghi chú của người sao lục:

Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả [Thính giả?] đầu tiên của bài thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham, như tác giả Nắng Hồng Phương Nam cho biết.

Trong đất trời nhau, là từ thơ Mai Thảo: Trong đất trời nhau mình vẫn gần. Biết tin anh đi xa, là để chỉ Mai Thảo đã vượt thoát. Quê ngoại là hải ngoại.

... Hôn thụy, ngủ mê, như Gấu tôi được biết, là chữ của Tô Thuỳ Yên, khi chuyển từ "coma" [hôn mê] sang tiếng Việt. Trong một lần hai anh em ngồi Quán Chùa, TTT tâm đắc với từ này, và gật gù, 'luý' dịch từ này, hay thật!
Nhưng phải đợi đến đầu năm 87 ở Lao Kay, lần đầu tiên nhận được tin nhà, biết Mai Thảo đã vượt thoát, Thanh Tâm Tuyền mới chợt tỉnh giấc hôn thụy, và chúng ta mới thấy hết ý của lời khen của TTT dành cho bạn mình là Tô Thuỳ Yên [luý dịch hay thật!].
Một lời khen biến thành một lời tiên tri, cho số phận của ba nhà thơ.

- Mai Thảo, chắc chắn là nhận ra được lời nhắn gọi của bạn mình [Trong thơ tui có thơ anh], nên đã trở lại với thơ, nhờ vậy chúng ta có Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền.
- Tô Thuỳ Yên tiếp tục làm thơ, và có Ta Về.
- Thanh Tâm Tuyền, có Thơ Ở Đâu Xa.
Toàn bài thơ là từ "chợt tỉnh giấc hôn thụy", mà ra:

Sáng nay, thức giấc, nhà giam
Nhớ thơ làm hồi trẻ
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo.
Cũng qua cơn hạn khác thường...

Note: Bài thơ này, Gấu mê nhất, trong Thơ Ở Đâu Xa

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm


NXH's Poems of the Night

SN_GCC_2016

Dương Nghiễm Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động

*

Đồng Vọng Lò Thiêu
Le Magazine Littérarie. Mai, 2016


Trang Kertesz

Văn Hóa Lò Thiêu


Today at 11:38 AM

Hello. Ong TRU.
Khi nao qua Cali, mua ve may bay chua?
Nho la xuong fi truong John Wayne nhe !

Chưa, nhưng cỡ đầu tháng 11, qua, sure
Tks
NQT

 

Nguyễn Quốc Trụ

 

Dương Nghiễm Mậu:

Thật chững chạc, thật cảm động

 

Dương Nghiễm Mậu, ký họa của Tạ Tỵ

 

          Nhớ đó là một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé thăm một diễn đàn bạn. Người bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghé ngồi hút thuốc lá thấy ở bên cạnh mình một cái sọt rác đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt lên những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là bản thảo một truyện ngắn.
-Bỏ đi tất cả đấy à?
-Ừ đã đọc rồi bỏ không đăng.
-Moa lấy đi được không?
-Để làm gì vậy?, người bạn ngạc nhiên hỏi.
-Mặc moa, tôi nói và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó nguyên văn không sửa một dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang làm.

(Mai Thảo, Chân Dung nhà văn).

 

          Trong thế giới văn chương, những trường hợp như trên không nhiều, nhưng cũng không phải là quá hiếm hoi. Bel Kauffman, tác giả cuốn Lại lên cầu thang đưa xuống En remontant l'escalier qui mène en bas, kể lại, một bữa bà đưa con đi coi xiếc, trên đường đi, bà mua cho con một trái bóng bay. Đứa bé từ lúc đó, chỉ mải mê phiêu lưu cùng chiếc bong bóng bay trên trời, chẳng thèm để ý đến những chú voi khổng lồ đang diễn trò. Và bà chợt nhận ra, đứa con đã nhìn thấy nhiều hơn là những đứa trẻ khác đang cùng ngồi trong rạp. Trường hợp En remontant cũng thật ly kỳ: tiền thân của nó là mấy mẩu giấy học trò, trong một giỏ bỏ giấy vụn, tại một trường tiểu học tại New York; một ông Mai Thảo nào đó tò mò lượm lên, rồi được một nhà xuất bản New York đăng (1962). Cuộc phiêu lưu của mấy mẩu giấy vụn chưa chịu ngưng ở đó: nó biến thành những chiếc bóng bay, khi một nhà xuất bản lớn tình cờ đọc mẩu chuyện nho nhỏ, và đã đề nghị tác giả viết lại, từ bốn trang giấy vụn.

Đề tài trong En remontant (theo tờ Thời Mới, Temps Nouveaux, một tạp chí tiếng Pháp của Liên-xô) có thể tóm gọn: giữa Sự Thực và Tình Thương, cái nào hơn? Câu trả lời: Tình Thương.

Trí nhớ thường lầm lạc, có khi còn do cố ý, hoặc tiềm ẩn, hoặc hiển nhiên; đây là một trong những bản năng của con người, luôn luôn muốn tái tạo quá khứ, cho những nhu cầu hiện tại. Trong Chân Dung nhà văn, cùng bài về Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo viết... kỷ niệm với mỗi người mỗi khác, (với) Thanh Tâm Tuyền, (là) căn gác xép ám khói ở Tòa soạn Dân Chủ (của Vũ Ngọc Các, thập niên 1960), hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ. Trong khi đó, qua bài viết của Thanh Tâm Tuyền trên tạp chí Thơ (số Mùa Xuân 1998), nhà thơ nhận ra bạn mình ngay lần gặp mặt đầu tiên, sau khi nhận được một bản thảo đánh máy... Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc...

Còn điều này nữa, cơ duyên truyện đầu tay, nhiều khi tự nó đã là một giai thoại. Như sau đây, tôi viết lại theo trí nhớ. Qua kể lại của Simone de Beauvoir, Sartre trong khi viết Buồn Nôn, La Nausée, lúc nào cũng cảm thấy có “cua bò trên lưng”! Gửi bản thảo tới nhà xuất bản Gallimard, bị chê: phần đầu ảnh hưởng Dostoevsky... một cuốn tiểu thuyết bình dân! Sartre thời gian đó, suốt ngày chầu chực ở văn phòng nhà xuất bản; một bữa ông đang ngáp gió, thấy một ông vô, trong khi nói chuyện với bè bạn, ông này lấy thuốc lá, loay hoay tìm hộp quẹt, Sartre nhanh nhẩu tới làm cử chỉ đẹp. Ông này hỏi, xin lỗi ông là ai, Sartre tự giới thiệu. Hóa ra là Jean Paulhan, ông chủ tiệm. Phần tiếp theo, chắc các bạn đoán ra được...

Trường hợp Dương Nghiễm Mậu, giả sử Mai Thảo không buồn tay, có thể chúng ta vẫn có một Dương Nghiễm Mậu, nhưng thiếu Rượu Chưa Đủ, thì thật là một vô cùng thiếu sót. Bởi vì đây là một truyện ngắn, như một loài chim hiếm quí, khi nó xuất hiện, văn chương sẽ... không còn như trước nữa!

Trong kho chuyện cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông, đánh lên không nghe, nhưng lại ngân lên ở một nơi khác. Rượu Chưa Đủ bản thân nó cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một miền đất khác (1), âm thanh của nó như được nén lại, ra tới nơi quê người, mới thực sự rền rĩ. Ở đây, chúng ta như mường tượng ra bức địa đồ tỉ lệ xích 1/1 của Borges, mà người Việt cố mang ra ngoài để vá víu lại, cho nó như xưa. Chúng ta càng nghe rõ âm thanh của tiếng chuông lạ này, khi đọc Mai Thảo, viết về đoạn kết Rượu Chưa Đủ:

Bao năm rồi không đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện, chỉ nhớ cái anh chàng nào đó, với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu Chưa Đủ một kết thúc tuyệt hay. Đoạn tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em cùng mồ côi cha mẹ từ sớm (một ẩn dụ về một Hà-nội?, người viết bài này thêm vô). Hai anh em đi lang thang một ngày trong thành phố không có một đồng xu nhỏ (những ngày đầu di cư của họ Dương?). Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, anh dẫn em vào công viên, yên lặng lấy đất đắp thành những mô hình sông núi, thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò chơi đắp hình sông núi với em để có được cùng em, dù một cách rất tội nghiệp, buồn rầu một ý niệm về một điểm tựa, về nguồn gốc. Thật chững chạc và thật cảm động. Đó là truyện ngắn thứ nhất của Dương Nghiễm Mậu. Một công viên vắng lặng... Hình ảnh con đường văn chương Mậu mở ra và đi trên đó một mình... Những mô hình sông núi quê hương. Đứa trẻ mồ côi, nghiêm chỉnh sớm hiểu biết, ý thức trong truyện chính là Dương Nghiễm Mậu, đã đắp xong, rất hoàn chỉnh, những mô hình sông núi cho cõi văn cõi viết của mình... Và Mai Thảo kết luận: Cuối cùng là đứa trẻ mồ côi trong truyện ngắn đầu tay của Dương Nghiễm Mậu sự thực không bao giờ mồ côi. Mồ côi là những kẻ khác kia.

Hay khi đọc Thanh Tâm Tuyền viết về Đêm Giã Từ:

Đấy là một truyện không cốt truyện. Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói bắt lắng nghe - theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm trong giấc kín bưng triền miên của nó -, ở sự dồn đẩy khôn nguôi của chữ nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành những vận tiết mê mải tới chốn nhòa tắt tiếng...

Năm di cư thứ hai mươi (1974), khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh ở cả hai miền lúc ấy...

Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hà-nội đợi giờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên thềm ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai 'Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy', câu của Anh vẳng ngân như một câu thơ. (Câu văn là một câu gắn liền trong mạch văn, tách khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc).

Cái nền thiếu vắng, những mô hình sông núi tưởng tượng, tiếng chuông ngân ở một nơi khác: mồ côi là những kẻ khác, nhưng Rượu Chưa Đủ, Đêm Giã Từ, Bếp Lửa... mãi mãi vẫn chỉ là những đứa con tư sinh của một miền đất.

Hình ảnh con đường Mậu mở ra và đi trên đó một mình..., câu này chỉ có thể coi như một nghi vấn, thay vì một khẳng định. Nói một cách khác, không có vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh của một miền đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh Tâm Tuyền "khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một bên là bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng Quên, truyện ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả Miền Nam, thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ tên, viết về ông già gác dan, (gác ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng bị gã con trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét cô bồ: lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình hối hả... làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa Ngục (Chiến Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên, về một già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong thơ Thanh Tâm Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết hơi, của những bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính họ: Cái Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của Chiến Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối quyết liệt, bởi những con người đứng bên lề...

Dân làng sau đó, tới nơi chuông ngân, làm lễ thỉnh tiếng chuông trở về, từ đó, nó bình thường như mọi quả chuông khác.

 Nguyễn Quốc Trụ

_____


Chú thích: (1) Dương Nghiễm Mậu vào Nam năm 1954.

"Cho dù ở bất cứ đâu, viết bằng bất cứ ngôn ngữ nào, nhà văn của Lò Thiêu vẫn chỉ là một cô hồn phiêu bạt, mong tìm nơi nương náu, ở nơi đâu nếu không là trong tiếng nước người..." Imre Kertész

Nhớ, là, khi Nguyễn Tiến Văn, đọc bản thảo bài viết, lần anh ghé nhà, thời gian “còn lưu vong”, thú quá, gật gù,
cái giai thoại chuông đánh không kêu, tất nhiên, nhưng quá tất nhiên, là cái chi tiết, tách nó ra khỏi toàn bài, cho nó cái lưu vong, cái đồng vọng Lò Thiêu, và cầu mong, lại được "bình thường", như mọi quả chuông khác:

Chúc ai mãi giữ được nụ cười
K

Tks
Take Care
NQT


Ngôn Ngữ Lưu Vong

Quyền tự do xác định tự thân
[Ngôn ngữ lưu vong]
Bản Tiếng Anh

Diễn Văn Nobel 2002
1 NQT dịch
2 NTV dịch

Đồng Vọng Lò Thiêu
http://www.tanvien.net/cn/cn_kertesz_medium.html

Medium có nghĩa là bà đồng, kẻ trung gian. Đồng vọng lò thiêu, là theo nghĩa này: Call for the Dead

THE MEDIUM

This round table belonged to a woman
who used to summon ghostly visitors
And transmit their cryptic messages
To her guests holding hands in a circle,
Their faces dimly lit by a candle,

Hoping to see their loved one appear,
Or at least hear the familiar voice
Greet them once again, divulge a secret
From beyond the grave,
Make someone in the room cover their ears,
Another one break into sobs,

While beyond the thick drawn curtains,
The snowflakes are starting to fall
On this cold, dark and silent night,
Each one determined to bury something
No matter how small, no matter how big.

Charles Simic: The Lunatic

Cô Đồng

Cái bàn tròn thuộc về người đàn bà
Làm cái nghề gọi hồn người chết
Và chuyển những “mails”, “messages”, những dấu hiệu ngoằn ngoèo trên mặt cát, trong cái nia
Tới khách hàng của bà, ngồi xúm quanh, tay cầm tay, thành 1 vòng tròn
Mặt họ mờ mờ dưới ánh đèn cầy

Hy vọng thấy người thân yêu ngày nào xuất hiện
Hay ít ra, nghe được tiếng nói quen thuộc
Chào mừng họ, bật mí cho họ về 1 bí mật ở bên kia nấm mồ
Làm người nào đó trong phòng bịt tai
Một người khác sụt sùi

Trong khi, quá những bức màn dầy, bên ngoài
Tuyết bắt đầu rơi
Xuống đêm, lạnh, tối, và im ắng,
Mỗi người quyết định chôn một điều gì đó
Cho dù nhỏ cỡ nào, bự ra sao.

Thơ trong The Lunatic, bài nào cũng thần sầu, đúng cái ý của Brodsky, với bậc đại thi sĩ, đọc thơ của họ, là biết liền, thuộc vào thời nào trong đời của họ. Khác hẳn thơ lũ chó, hà, hà!
Thơ, văn như kít mà cứ làm hoài, in hoài!
Tập này, Gấu chơi sạch rồi, có bạn nào ở trong nước, tính in thơ Simic, thì
ới 1 tiếng. Bịa ra 1 cái nick, như tên khốn Lăng Băm đã từng làm, là qua mặt nhà nước liền tù tì.
Vả chăng thơ thì vốn khinh bỉ
chính trị, thời đại, đúng ý Borges, nên cho nghệ thuật thoát ra khỏi thời gian, dù thời gian có năn nỉ cỡ nào.


Thơ Mỗi Ngày

Charles Simic

HISTORY

Our life stories are scary and droll,
Like masks children wear on Halloween
As they go from door to door
Holding the little ones by the hand
In some neighborhood long torn down,

Where people ate their dinners
In angry silence or quarreling loudly,
When there was a knock on the door,
A soft knock a shy boy makes
Dressed in a costume his mother made.

What's this you're wearing, kid?
And where did you get that mask?
That made everyone laugh here
While you stood staring at us,
As if you knew already we were history.
*

Chuyện
Chuyện đời chúng ta, hai hãi và hài hài
Như mặt nạ con nít mang ngày Hội Ma
Khi chúng đi từ nhà này qua nhà khác
Đứa lớn dắt đứa bé
Trong một lối xóm, hoang tàn,
từ hồi nảo hồi nào

Khi mọi người dùng bữa tối
Trong im lặng giận dữ, hay cãi nhau ỏm tỏi
Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ
Như khều khều, gãi gãi,
Của 1 đứa bé cả thẹn
Mặc bộ đồ má nó may

Mi mặc thứ chi kỳ quá, thằng cu Tí?
Và, tiện thể, mi lấy ở đâu ra cái mặt nạ đó?
Làm mọi người bật cười hô hố
Trong khi bạn đứng nhìn chúng tôi
Như thể bạn biết,
từ thuở "xưa rồi Diễm ơi",
chúng ta là...  chuyện

Note: GCC dùng Ipod chôm bài thơ trên, tính không mua. nhưng lật lật, thấy được quá, bèn...

Fall 2016    

Seeing Things
    I came here in my youth,
    A wind toy on a string.
    Saw a street in hell and one in paradise.
    Saw a room with a light in it so ailing
    It could’ve been leaning on a cane.
    Saw an old man in a tailor shop
    Kneel before a bride with pins between his lips.
    Saw the President swear on the Bible
    while snow fell around him.
    Saw a pair of lovers kiss in an empty church
    And a naked man run out of a building
    waving a gun and sobbing.
    Saw kids wearing Halloween masks
    Jump from one roof to another at sunset.
    Saw a van full of stray dogs look back at me.
    Saw a homeless woman berating God
    And a blind man with a guitar singing:
    “Oh Lord remember me,
    When these chains are broken set my body free.”

    —Charles Simic
    Charles Simic has been Poet Laureate of the United States. His most recent books are The Lunatic (poetry) and The Life of Images (prose).


Note: Hai bài thơ mới nhất của Charles Simic.
 

Mit Critic
Thời sự

"Nái xe ở VN":

Bốn bánh, tốt.
Hai bánh, tốt hơn nhiều

Four wheels good, two wheels better
Driving in Vietnam is becoming even more of a nightmare
A proliferation of cars threatens to clog the country’s big cities


Sách & Báo Mới

*

Thịt [tươi, sống]
Every man must descend into the flesh to
meet mankind.
Mọi thằng đàn ông đều phải lặn
vô đó, để gặp...  Chúa
[Đó: Nơi chốn âm u và ẩm ướt, cái cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo, nơi Thượng Đế thường xuyên ẩn nấp...]

-G.K Chesterton, 1910

*

Study of Flesh and Gold, by William Merritt Chase 1888

Vàng [Gold] bay mấy lá
năm hồ hết
Hờ hững ai xui Thiếp [Flesh] phụ Chàng
!

Imaginary Beings Book

The Sphinx

The Sphinx found on Egyptian monuments (called "Androsphinx" by Herodotus, to distinguish it from the Greek creature) is a recumbent lion with the head of a man; it is believed to represent the authority of the pharaoh, and it guarded the tombs and temples of that land. Other Sphinxes, on the avenues of Karnak, have the head of a lamb, the animal sacred to Amon. Bearded and crowned Sphinxes are found on monuments in Assyria, and it is a common image on Persian jewelry. Pliny includes Sphinxes in his catalog of Ethiopian animals, but the only description he offers is that it has "brown hair and two mammae on the breast."
    The Greek Sphinx has the head and breasts of a woman, the wings of a bird, and the body and legs of a lion. Others give it the body of a dog and the tail of a serpent. Legend recounts that it devastated the countryside of Thebes by demanding that travelers on the roads solve riddles that it put to them (it had a human voice); it devoured those who could not answer. This was the famous question it put to Oedipus, son of Jocasta: "What has four feet, two feet, or three feet, and the more feet it has, the weaker it is?" (1)
    Oedipus answered that it was man, who crawls on four legs as a child, walks upon two legs as a man, and leans upon a stick in old age. The Sphinx, its riddle solved, leapt to its death from a mountaintop.
    In 1849 Thomas De Quincey suggested a second interpretation, which might complement the traditional one. The answer to the riddle, according to De Quincey, is less man in general than Oedipus himself, a helpless orphan in his morning, alone in the fullness of his manhood, and leaning upon Antigone in his blind and hopeless old age.

(1)
This is apparently the oldest version of the riddle. The years have added the metaphor of the life of man as a single day, so that we now know the following version of it: "What animal walks on four legs in the morning, two legs at midday, and three in the evening?" 

Đọc/Viết mỗi ngày

*

Carnet de lecture

par Enrique Vila-Matas

ÉCRIRE POUR DISPARAITRE

une fois achevée, l'oeuvre écrite témoigne de la dissolution de l'auteur

Que l'histoire de la subjectivité en Occident ait toujours été la chronique d'une disparition annoncée, d'une disparition qui n'en finit pas de se produire, semble se confirmer définitivement. Pour l'heure, il ne s' agit que d'une chronique qui va de Montaigne a Blanchot, sans que, bien sur, il faille forcément en déduire que cette histoire ne se déroule qu'en France. II n'y a pas longtemps, Jose Luis Pardo disait au sujet des excellents travaux menés par Christa et Peter Burger sur la disparition du sujet : « Sur ce point, l'histoire ne commence pas avec la naissance du sujet ni ne se termine avec sa mort ; c'est l'histoire de la facon dont la tendance du sujet occidental à
s' affirmer soi-même comme fondement le conduit à une étrange volonté d'annihilation de soi, et de la facon dont ces tentatives suicidaires sont, à leur tour, des tentatives d'affirmation du moi.»
Nous sommes done confrontés à 1'histoire d'une disparition ambigue et qui n'en finit pas de se produire. Parce que, en ce bas monde, personne n'a encore disparu et, en même temps, tout le monde l'a fait. Le premier a s'en aller fut Dieu, joyeusement enterré par Nietzsche. Pourtant il est bien là, tout a fait vivant, remuant la queue, ranimant le feu de la Maison Blanche. Quant à l'homme, on a dit de lui qu'il embolterait le pas à Dieu et que lui aussi s'effacerait, on a annoncé amaintes et maintes reprises «1a mort du sujet », il n'êmpeche qu'aujourd'hui, l'histoire des lettres occidentales, la passion de disparaitre, se produit à l'intérieur du sujet en même temps que ses plus retentissantes manifestations d' affirmation. Écrire pour disparaitre, dirait Blanchot, qui est celui qui a réflechi à ce problerne jusqu'au vertige ; il s' est promné avec l' écriture de la disparition à l'extrême bord de l'abime, conscient que tout, absolument tout, s'effacera. Lui-même s'effaca, disparut des accessoires actuels du monde littéraire et fut conscient de l'horreur d' écrire pour être photographié. Quoique, comme dit Antoni Mora, « affirmer spontanément que Blanchot fut un écrivain secret suffit à compromettre cette hypothèse ».Nous sommes confrontés à ce secret discutable et bruyant qui dit que «d'abord nous pensons, ensuite nous existons», et qui aurait fait rire Montaigne avec compassion. Montaigne consacra sa vie à l'interminable processus de l'acquisition de l'expérience dans son propre moi, tandis que Descartes découvrit dans le moi abstrait, universel, le fondement d'un savoir sur. Tout s'effacera, même ce savoir, conduit jusqu'à ses demières extrémittés par Blanchot avec une phrase lapidaire qui, elle aussi, s'effacera: «Je suis, je suis seulement parce que j'ai fait du néant mon pouvoir, parce que je puis ne pas être (1), » Nous en arrivons ainsi à L'Avventura, le film d'Antoniont qui, it y a deux mois et avec tous les honneurs (honneurs qui, eux aussi, vont devoir s'effacer), réapparut en France en DVD aux Editions Montparnasse, un film qui illustre magistralement - il s'agit d'une oeuvre essentielle de l'art contemporain -la disparition d'un personnage principal du récit qui nous a été raconté jusque-là. L'Avventura relate l'histoire de jeunes amis qui, naviguant dans les Iles Éoliennes, voient disparaitre l'un des leurs sur le ré
cif de Lisca Blanca. Au fur et à mesure qu'avance la recherche d'Anna, la disparue, on se rend compte que ce n'est pas exactement la disparition de la jeune fille qui compte le plus, mais la sensation de vide, de hasard et d'errance qui tire les fils de la vie de quelques personnages en train de chercher la disparue et qui, en realité, se cherchent eux-mêmes, tout comrne ils tentent de trouver le Dieu que Nietzsche n'avait pas réussi à connaitre. Pour ma part, it me semble que dans L'Avventura résonnent comme jamais n'ont résonné les mots de Blanchot, l'héritier de Montaigne, quand il nous dit que l’oeuvre écrite produit et manifeste l'existence de l'écrivain, mais que, finie, elle ne témoigne plus que de sa dissolution, de sa disparition, de sa défection et, pour le dire sans ménagernent, de sa mort dont, par ailleurs, il ne reste jamais de preuve définitive .•

Traduit de l'espagnol par Andre Gabastou

(l) L'Espace littéraire. Maurice Blanchot, éd. Gallimard, col. Polio essais, p. 215.

Bốc phét mà phán, thì cả 1 bài viết thần sầu trên đây, chỉ để vinh danh, chỉ 1 câu văn của GCC:

Viết, một cách nào đó, là....  chết:

une fois achevée, l'oeuvre écrite témoigne de la dissolution de l'auteur: một khi hoàn tất, tác phẩm chứng kiến tác giả của nó tan rã ra!

 
Lần Cuối Sài Gòn

Viết, một cách nào đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".

Một tiệm sách có tấm bảng hiệu, vừa níu kéo một chút quá khứ, vừa làm lan can cho căn gác lửng, và là chỗ tôi thường đứng tỳ tay nhìn xuống đường, nhìn buổi chiều, đợi chờ cô bé trở về nhà trên đường đón em học trường mẫu giáo Aurore ở gần ngã tư Cao Thắng-Phan Đình Phùng. Ngay ngã tư có tiệm Thanh Xuân, nơi hân hạnh được cô bé tới chụp hình cho cuốn học bạ, nhờ vậy tôi cũng được ăn theo, tấm hình sau được họa sĩ Ngọc Dũng thương tình chuyển thành phác họa, khi cả bọn xúm quanh anh thuở còn đi học cứ ba tháng hè kéo nhau tới nhà anh T. ăn bám bà cụ. Kỷ niệm độc nhất đánh dấu những buổi chiều hạnh phúc, báo trước cuộc chia ly kéo dài...

Khi gặp lại, cô bé đã đậu tú tài phần một, được ông bố khắc nghiệt cho đi thăm Đà Lạt. Mỗi sáng thứ bẩy, tôi theo chuyến xe đò sớm nhất vượt quãng đường mấy trăm cây số, rồi chiều chủ nhật trở về cho kịp thứ hai đi làm, trong đầu đầy ấp hình ảnh Đà Lạt với quán cà phê Tùng, tiếng hát Sylvie Vartan, "J'attendrai que ma vie recommence"... bóng dáng cô bé xuất hiện nơi đầu con dốc, tha thẩn bên hồ, thấp thoáng xa gần giữa vườn thông, trước ống kính máy chụp hình tôi mượn của một người bạn Phi làm cùng sở. Khi đó tuy ông Diệm không còn, nhưng Miền Bắc chắc còn đang lo đấu tố, thanh trừng địa chủ nên bỏ qua cho hạnh phúc nhỏ bé của chúng tôi.

Note: Truyện ngắn này, sáng tác những ngày ở trại tị nạn Thái Lan.
Gửi đăng trên tờ Làng Văn ở Toronto.
Cô bạn có đọc, như sau đó cho biết, và nói, tôi cứ nghĩ là anh ở Sài Gòn, viết, gởi ra hải ngoại, đăng!


Larry Burrows

In 1997 Horst Faas and Tim Page published Requiem, a homage to the 135 photographers who died while covering the wars in Indochina and Vietnam. The work of Larry Burrows, who photographed the war in Vietnam from 1962 until he died in a helicopter shot down on the border with Laos in 1971, was central to that undertaking. Vietnam, a more extensive selection of his work, enables us to see his achievement more extensively and to define it more clearly.
    Burrows was born in London in 1926. He left school at sixteen and got a job in Life magazine's London bureau, where he printed thousands of pictures by Robert Capa and others. It would be hard to exaggerate the effect of this apprenticeship on his subsequent career. Capa practically invented the genre of combat photography and defined the standards by which it would be judged. If your- pictures aren't good enough, he was fond of saying, thats because you're not close enough. Burrows took Capa at his word. In Vietnam a colleague decided that Burrows was either the bravest man in the world or the most short-sighted. Tales of that myopic bravery are legion, and Burrows himself thought 'the best thing that happens . . . is when someone turns around and says, "Well, you've taken your chances with the rest of us. '" Like other photographers in Vietnam Burrows fell into- the habit of edging right up to death, but whereas Page and Sean Flynn (son of Errol) were swash-buckling, wild, stoned, Burrows was distinguished by his patience and meticulous calm. It is possible to detect these qualities in the formal elegance of the work. While Capa said he would 'rather have a strong image that is technically bad than vice-versa', Burrows was obsessed with making strong, technically perfect images. Looking at his best photos reminds me of some documentary footage I once saw of men coming suddenly under fire in Bosnia. Everyone hit the dirt. It took a while to take in what was so strange and unnerving about this footage. Then I realized that the camera recording it all had remained absolutely steady
    This unflinching quality is seen to dramatic effect in a black-and- white' photo-essay published in Life in April 1963. Burrows was photographing a Marine helicopter' squadron, focusing on James Farley, a fresh-faced twenty-one-year-old gunner. In the course of what was expected to be a routine mission the squad comes under heavy fire. One of the helicopters goes down and Farley's chopper lands nearby, attempting to rescue the crew. By the time they are airborne again two badly wounded men are sprawled on the floor of the helicopter. One of them dies. The resulting photos have all the cramped panic and horror of Snowdon's death in Catch-22. But what makes them into a perfect story is the shot of Farley back at base, sobbing, aged by more than a decade in the course of a dozen photographs.
    That was the luxury of working for Life: an absence of deadlines and the freedom to construct a narrative around photographs rather than taking them to illustrate breaking news. Burrows used these freedoms to similar effect in the color sequence on Operation Prairie (1966), which culminates in the famous image of the wounded black sergeant apparently reaching towards his white comrade, also wounded. On the one hand it's an unadulterated image of the chaos, mud and blood of the aftermath of combat. But it is also a classic Life-like image in that it is, simultaneously, a statement of fact (this really happened) and, precisely by virtue of the unimpeachable quality : its evidence, an illustration of a larger truth (in this case the equality of suffering and tenderness between races) which might not : true at all. What we have, in other words, is a vivid example of e camera's unique capability: not the creation of a myth but its depiction.
    It would be a mistake, therefore, to see images like this as proof the photographer's anti-war stance. At that time, in fact, Burrows was still, in his own words, 'rather a hawk'. It was only later, in 1969, that he attained A Degree of Disillusion. That was the title of another photo-essay, belatedly focusing on the impact of the war on the Vietnamese' as Philip Jones Griffiths had done throughout his time there. By then Burrows said the faces all over Vietnam were 'more tired' and 'dazed' than he had ever known. In Roger Mattingly's well-known 1971 portrait that fatigue can be seen in Burrows' own face. He looks exactly like one of the combat-numbed grunts he had so often pictured: a sign of how the gap between photographer and his subjects was shrinking, lethally. This is suggested still more powerfully by Henri Huets picture in ReqUiem of Burrows helping to carry a wounded soldier, whipped back by a chopper's downdraught. Burrows' thick- framed spectacles make him instantly recognizable, which is slightly odd given that the photo is so like one by him, thereby forcing the viewer to concede that a Burrows image is not as instantly recognizable as is often claimed. Indeed, to this observer, Huet's images and Burrows' are often almost interchangeable. Since the two photographers died together on that helicopter flight on the Laos border this is not inappropriate. But the images in the pages of Vietnam also have much in common with those in Page's Nam (1983). Page was spectacularly high on the 'glamour' of war; according to his epitaph in Life, on the other hand, when Burrows looked at war 'what he saw was people'. Except, it turns out, his coverage of 'The Air War' shows Burrows to be just as intoxicated by the psychedelic technology of American fire- power as Page was. Two almost identically framed shots, taken at the same moment, in 1969, in Cholon - one in color by Burrows, the other in black-and-white by Griffiths - of a blood-drenched woman with a soldier kneeling over her, staring nine hundred yards into the distance, crop up in both Vietnam and Vietnam Inc. (the Welshman's camera can be seen in the bottom right-hand comer of Burrows' picture). *
    This is not to diminish Burrows' individual talent or achievement. It is simply to recognize the accuracy of Sontag's judgement from the '70s, namely that 'the very success of photojournalism lies in the difficulty of distinguishing one superior photographer's work from another, except insofar as he or she has monopolized a particular subject' - and in Vietnam they were all shooting the same subject. Similarly, Burrows has always been praised for his humanity and compassion when, if you think about it, what would really set a photographer apart would be the ability to photograph injury, suffering and death with a lack of compassion, even, possibly, with a touch of glee. No, Burrows is a great photographer less because of what distinguishes him as an artist than because of what he has in common with his colleagues and subjects. And I think that those trademark spectacles of his enable us to view his legend (in the cartographic sense) more clearly:
It's a classic sixth-form debate: whether to take photographs of the injured or to try to help them. Burrows repeatedly took photographs of wounded men being helped by their comrades, even when they were themselves wounded. He was drawn to such scenes because they dramatized that ethical dilemma so clearly as to simultaneously resolve it. Looking at photos like this it is striking how often one or more of the people doing the helping are wearing spectacles like Burrows'. Maybe it's just a coincidence (though that in itself is almost meaningless in a medium that is about visual coincidences) but it is difficult not to regard these bespectacled helpers as the active representatives of Burrows's own seared conviction: that showing the wound was also a way of tending to it.

2002

* Actually, they are even more similar than I thought: although Jones Griffiths' image is printed in black-and-white in Vietnam Inc., it was shot in color.

Note: Kinh Cầu, trước Tin Văn có post, lấy từ trang báo điện tử của Dirck Halstead, nhưng sau bị cấm, trang báo cũng cấm luôn.
Nghe nói, nó được về VN, thêm hình ảnh nhiếp ảnh viên VC.
Cũng được.

Tin Văn post bài này, nhân nhớ bạn cũ Sawada, và cái lần anh mò lên nhà Gấu, ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, nhân có hình cần gửi gấp.

L' Appel Du Mort

Photo Booth: Josef Koudelka’s “Invasion Prague 68”

Bạn phải tưởng tượng ra 1 em văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn, và khóc, thì mang theo 1 cái máy camera, và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.

*

Vào ngày 21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka - một người đàn ông với cái camera, nửa đêm nhận được cú phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô Viết đã vượt biên giới vô Czechoslovakia. Cùng lúc, là những phi cơ vận tải với những binh đoàn nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo..  hạ cánh xuống phi trường Ruzyne, ngoại vi Prague. Ðây là 1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh sĩ thuộc Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK, và lời bảo đảm của thượng cấp, chuyến đi này không phải là "xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp ứng lời kêu gọi “giải phóng” MN của MTGP!

Mùa Xuân Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú đặt cọc cho mớ võ khí nặng sau cùng đã đào mồ chôn Ðế Quốc Xô Viết.

Tôi rời Quân đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó là ban đêm. Chúng tới ga Belorussky Rail Terminal, và đi bộ dọc theo phố Tverskaya Street nhắm hướng Kremlin. Chúng tôi đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung hăng. Chúng tôi gặp một ông già, một cựu binh từ Ðệ Nhị Thế Chiến.
-Sao tụi mi la lớn thế? 
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi tôi vừa giải phóng Prague.
Ông già quạt lại:
-Câm miệng, thằng ngu. Mi không biết cả những gì mà mi đang nói đó.
Và đó đúng là một lời phán lương thiện nhất về cuộc xâm lăng Prague mà tôi đã từng nghe được.

-Ðảng không dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng ông cách ăn cướp.


My Old Saigon

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157665925001473

*

Tôi viết dưới ánh sáng của một ngọn nến: Sài-gòn. 

Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm canh xì.


* *


*

Note: Gấu viết truyện ngắn “Những Ngày Ở Saigon” đúng thời gian nằm dưỡng thương do xực hai trái mìn Claymore của VC ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh. Do làm cho UPI nên dưỡng thương ngay tại  Đài Liên Lạc VTD, số 5 Phan Đình Phùng.
Nhân Trần Công Quốc, 1 trong Thất Hiền đưa vợ đi làm [bà vợ là nữ điện thoại viên ở Đài] bèn nhờ anh đưa bản thảo cho ông anh TTT, khi ghé nhà thăm bà cụ. Ông anh đăng liền trên Nghệ Thuật số 9, và gọi điện thoại, nhắn, khi nào hết dưỡng thương thì xuống tòa soạn lãnh tiền nhuận bút.
Gấu vào làng văn như thế đó.
Viết cho Văn, là do gặp NDT tại tiệm phở số 44 PDP, dưới chân Đài, phía bên kia Đài Phát Thanh Sài Gòn. Anh đến bàn, tự giới thiệu, và đề nghị viết cho Văn. Truyện ngắn đầu tiên viết cho Văn, là Thời Gian, 1 trong Tứ Tấu Khúc. Bà vợ NDT là người đầu tiên đọc nó, trong dạng bản thảo. Lần gặp đầu tiên, khi NDT đưa tới nhà giới thiệu [nhà anh ở ngay dưới chân Đài Liên Lạc VTD, trong 1 chung cư thuộc Bưu Điện, khu Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao], bà nói, anh đúng là văn sĩ mê gái!