|
Viết
bên lề
"Bên Thắng Nhục"
Viết
bên lề
"Bên Thắng Nhục"
Paris Match:
Ông có buồn vì
không nhìn thấy hòa bình được ký kết, khi ông còn sống?
Peres:
Tôi đâu có vội
chết. Và tôi tin vào phép lạ. Chỉ nhìn Âu Châu là thấy. Hàng ngàn năm,
thù
hận, chiến tranh, máu đổ xuống mảnh đất này. Tuy nhiên… Anh và Pháp
không còn coi
nhau là kẻ thù truyền kiếp. Vào tháng Năm 1945, chẳng ai có thể tiên
đoán, mà
không bị coi là không tưởng, Âu châu có được hòa bình, Đức và Ba Lan
nói chuyện với
nhau, và những thế hệ trẻ tha hồ đi lại, bay nhảy trong không gian này.
Đúng là
một phép lạ, như Israel. Ai có thể tin rằng, ba năm sau Lò Thiêu, có 1
Quốc
gia Do Thái? Và Quốc gia đó ngày càng
thịnh
vượng? Bữa nay, khi nói chuyện với những người Âu châu, tôi không nghĩ
rằng,
những phép lạ đó sẽ chấm dứt.
Làm sao mà 1
ông Nobel hòa bình lại trải qua suốt đời lo chuyện chiến tranh?
Tôi
không sửa soạn
chiến tranh. Tôi sửa soạn chống đỡ. Israel đâu có chọn lựa, chỉ hoặc
chết.
(1)
Le monde a changé.
Il n’a plus besoin de leaders, il lui faut des serviteurs.
Thế giới thay đổi. Nó đếch cần lãnh đạo, mà cần đầy tớ! (1)
Paris Match:
Vào năm
1993, ông đã sờ vô được hòa bường, với người Palestines. Hai chục năm
sau, ngõ
cụt tuyệt đối. Ông có coi đây là 1 thất bại cá nhân?
Shimon Peres
[đúng 9 bó, hơn GCC, tệ lắm, cả 1 con giáp]:
Không. Những
mục tiêu lớn cần những cuộc chiến đấu lớn, và điều này hàm ngụ, không
thể tránh
được, những khoảnh khắc giật lùi. Nếu nhìn lại, thì tôi thấy chúng tôi
thấy quả
là đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trước hết, người Palestines
đã công
nhận Israel như là 1 quốc gia thực sự, và chúng tôi, chúng tôi công
nhận họ, như
là một dân tộc. Bây giờ, họ phát triển về mặt kinh tế. Họ trở thành 1
quốc gia đang
trở thành. Lần đầu tiên trong lịch sử của họ, họ đang xây dựng một
thành phố mới,
hiện đại, ngay bên cạnh Ramallah. Không thể tưởng tượng được. Và chúng
tôi, chúng
tôi cũng làm được 1 điều chẳng thua gì, chúng tôi đã di tản ra khỏi
Gaza. Chúng
tôi nhổ bật 22 vùng đồn điền để trao trả dải đất cho người Palestines.
Điều thật
buồn là đám Hamas xía vô, và, thay vì xây dựng 1 bến cảng hòa bình, thì
lại có
một lực lượng khủng bố. Bây giờ chúng cứ thế nã đạn vô chúng tôi, chẳng
cần lý
do con khỉ gì hết.
Vả chăng, khủng bố mà cần gì lý do? Nhà đại chiến lược nổi
danh Clausewitz chẳng bán được 1 cuốn nào vào lúc này, bởi vì theo lý
thuyết của
ông, chiến tranh chỉ là chính trị nới rộng ra.
Một lý thuyết
như thế làm sao mà… VC nghe lọt tai!
Chứng cớ: 30
Tháng Tư 1975 đó!
Hà, hà!
Cái câu nói
của Peres, theo Gấu, thuổng của anh y tá dạo Ba Dzũng: Tớ là đầy tớ của
nhân
dân. Nhân dân giao nhiệm vụ Thủ Tướng, tớ đâu có dám từ chối!
Nhiều người
cho rằng Mẽo leo thang chiến tranh, khi dội bom Bắc Kít.
Không phải.
Mẽo muốn bỏ
chạy. Khi bom nổ trước nhà Ông Lành, thì Ông Lành phải rét thôi.
Lần Gấu gặp
lại ông cậu, Cậu Toàn, ông kể Bắc Kít rất sợ cái kế "không thành" của
Khổng Minh,
được Mẽo áp dụng vào cuộc chiến Việt Nam, nghĩa là, rất sợ, nếu đem hết
VC chủ lực đánh
vô Sài Gòn, để Mẽo, từ Đệ Thất Hạm Đội, lên máy bay, rồi nhảy xuống Hà
Nội, rồi
ăn sáng ở Bờ Hồ, tối ngủ đỡ nhà sàn Bác Hồ!
Ông nói, “ta” bắt được 1 tên Xịa
cao cấp, uýnh nó, hỏi, liệu xẩy ra chuyện đó, nó lắc đầu, Mẽo chuồn là
chuồn, chán
xứ Mít quá rồi! Chỉ đến khi nhận được “mail” của Cao Bồi, “bạn của
cháu”, thì mới
yên tâm, đổ toàn lực luợng vô chiến dịch cuối cùng!
Để bỏ chạy
khỏi Việt Nam, Mẽo phịa ra cú Vịnh Bắc Bộ, rồi, vin vào đó, dội bom vào
đít đám
VC ở Bắc Bộ Phủ, chúng sợ chết quá, bèn ký hiệp định Paris.
Sau đó, Mẽo thú nhận
cú ngụy tạo.
VC cũng làm như thế, để nhử Mẽo vô Miền Nam, ngụy tạo vụ đầu độc tù Phú
Lợi.
Nhưng dân Mít sẽ chẳng bao giờ được nghe lời thú tội của VC!
Tất cả những
tội ác cuộc chiến Việt Nam, như thế, là do VC gây nên.
Đó là sự thực
lịch sử, nhìn từ thuở dựng nước Mít.
Nói rõ hơn, Bắc Kít không thể nào mà không làm thịt Nam Kít
Nhiều người
cho rằng Mẽo leo thang chiến tranh, khi dội bom Bắc Kít.
Không phải.
Mẽo muốn bỏ
chạy. Khi bom nổ trước nhà Ông Lành, thì Ông Lành phải rét thôi.
Lần Gấu gặp
lại ông cậu, Cậu Toàn, ông kể Bắc Kít rất sợ cái kế "không thành" của
Khổng Minh,
được Mẽo áp dụng vào cuộc chiến Việt Nam, nghĩa là, rất sợ, nếu đem hết
VC chủ lực đánh
vô Sài Gòn, để Mẽo, từ Đệ Thất Hạm Đội, lên máy bay, rồi nhảy xuống Hà
Nội, rồi
ăn sáng ở Bờ Hồ, tối ngủ đỡ nhà sàn Bác Hồ!
Ông nói, “ta” bắt được 1 tên Xịa
cao cấp, uýnh nó, hỏi, liệu xẩy ra chuyện đó, nó lắc đầu, Mẽo chuồn là
chuồn, chán
xứ Mít quá rồi! Chỉ đến khi nhận được “mail” của Cao Bồi, “bạn của
cháu”, thì mới
yên tâm, đổ toàn lực luợng vô chiến dịch cuối cùng!
Viết
bên lề
"Bên Thắng Nhục"
Lần ở trại cải
tạo Phạm Văn Cội, thực sự mà nói, Gấu không có cảm tưởng đi tù. Trại
thuộc một
nông trường quốc doanh, ở lẫn vào với làng xóm. Tiêu chuẩn tù cao hơn
dân, bởi
vì ngoài khẩu phần tù, còn thêm gia đình thăm nuôi. Dân đói khủng
khiếp, cứ mỗi
lần lãnh khẩu phần ăn tù là trại viên thường đem cho họ. Bù lại, họ coi
tù như
người trong gia đình.
Lần đầu Gấu
Cái lên thăm, mấy ông trại viên thân với Gấu trố mắt nhìn, hỏi, tại sao
chị
không mặc áo dài, tụi này thèm nhìn người thành phố trong chiếc áo dài.
Gấu Cái
nói, sau ngày giải phóng, đâu còn cái nào, bán hết lấy tiền mua gạo rồi.
Không có Nhà Hội. Hai vợ chồng chạy qua nhà dân.
Lần đó, Gấu
được tha, là nhờ Joseph Huỳnh Văn. Ông thi sĩ lúc đó làm chủ nhiệm một
hợp tác
xã mộc. (3)
Cái ông
“trại
viên”, trố mắt nhìn, đề nghị Gấu Cái lần sau đi thăm Gấu Đực, nhớ mặc
áo dài, có
nick là… Thái Dúi.
Tên VC Thái
Dúi viết mail chửi Gấu, ông đúng là 1 tên vô học [khi đặt cho ông ta 1
cái nick
như thế], đâu có biết, Thái Dúi là 1 trong những tên tù cải tạo rất
thân của Gấu,
những ngày ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi.
Mà Gấu cũng đâu
cần hắn biết.
Viết
bên lề
"Bên Thắng Nhục"
"Nơi chốn
không chết như con người, nhưng chúng tang thương dâu bể đến nỗi chẳng
còn chi
được giữ lại, về một thời nó đã là..." , W. Trévor viết về miền thơ ấu
(Ái
Nhĩ Lan) của ông.
Tôi chỉ muốn
thêm vô: "... chẳng còn chi được giữ lại, cho một con người ngày xưa đã
từng
ở đó."
Tôi cũng có
đọc một lời khuyên, nên viếng thăm nghĩa địa, mỗi lần ghé một thành
phố.
Buendia, trong Trăm Năm Cô Đơn,
(Garcia Marquez), muốn bỏ Macondo, tìm
một đất
lành khác. Anh giải thích: "con người thuộc về nơi chốn, khi dưới đất
có một
người chết". Ursula, bà vợ dịu dàng, nhưng quyết liệt, "nếu cần một
cái mả, tôi sẽ ra đó nằm."
Còn nhớ một
cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ oanh tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy
là động
mồ động mả, ông bà mình làm sao ngủ yên ?...
Bếp Lửa
trong Văn Chương
Bài viết này,
khi viết, là tính dùng làm Tựa cho tập truyện ngắn đầu tay của 1
anh bạn.
Nhưng khi anh đọc, và Gấu đọc lại, thì vưỡn còn ngửi ra mùi nước đái,
ngập ngụa Ga Hàng Cỏ
khiến cô gái Bắc Kít xúc động, và nhận lời cầu hôn của anh VC lên tầu
vô Nam
chiến đấu; mùi nước đái và cử chỉ cầu hôn “lấn át” cái cử chỉ thật nên
thơ của
anh tù cải tạo Miền Nam chưa từng tới Hà Nội, nhưng đã mê từ khi còn đi
học, đọc
Nhất Linh,… Người tù đi qua cầu Long Biên, thò tay sờ
lên thành cầu, như rụt
rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh, bao dấu vết bom đạn.
Anh đề nghị
Gấu viết 1 bài khác. Và cái bài khác
kia thì thật vừa ý anh, và Gấu, vì đọc, thì lại ra cả 1 cõi Miền Nam
"nhân hậu và
cảm động" ở trong đó (1)
Khi bạn quí
của Gấu nhận làm Thầy ở 1 trường đại học Mẽo, phôn hỏi, mày có cái gì
về đề tài
văn chương hải ngoại... Gấu bèn phán, văn học hải ngoại, quái, là có
đến mấy cú
lên đường khác nhau.
Cú đầu tiên, liền
sau 1975, văn chương tố cáo tội ác VC.
Cú thứ nhì,
toan tính đầu tiên hội nhập….
Cú thứ tư,
có sự gia nhập của đám Bắc Kít.
Và cú thứ tư
này mới đúng là cú khởi đầu của nó.
Bài viết
trên, là nằm trong giấc mộng lớn của Gấu Cà Chớn, về 1 dòng văn
chương lớn,
về tấm bản đồ tỉ lệ 1/1 rách bươm Borges đã từng nhắc tới, của lũ
Mít hải
ngoại, mang được ra khỏi nước, và cố vá víu cho lành lặn.
Đó là thời
gian Gấu “rỏ máu 10 đầu ngón tay” viết đơn xin cắp rổ theo hầu Sến Cô
Nương, ở
Chợ Cá Bá Linh, mặt dầy xin viết thí cho đám khốn kiếp Hậu Vệ…
Chúng cám ơn
bằng cách xúm lại chửi Gấu.
Viết, nhớ lại, và cũng để nhắn anh tà lọt Osin, rằng, có đức độ, có
lòng thành,
có hối lỗi, xin tha tội…. chưa chắc đã vô được địa ngục VC!
Đừng nói là tâm địa khốn kiếp.
Tâm địa khốn
kiếp, mà có khi, tay "cũng" đầy máu, cũng nên!
(1)
Bài viết bên
lề một cuốn sách
Tôi quen
Nguyễn Chí Kham đã lâu, từ cái hồi Nghệ
Thuật. Truyện "đầu tay" của
tôi, Nghệ Thuật số 9. Của
anh, số 10. Thành thử, giữa hai người viết, không có
tinh thần trên, dưới. Trộm nghĩ, cũng còn may, ra tới ngoài này, được
chiêm ngưỡng
chiếu bồ đoàn của một vị nữ tu, thí dụ vậy, chuyện trên, dưới tựa giấc
chiêm
bao, hoặc thuộc tiền kiếp.
Dẫn nhập,
theo kiểu thù tạc, cũng không. "Thì cứ lảm nhảm đi, anh già này cũng
làm
cho tụi mình vui lên được một vài phút!", hình như tôi đã loáng thoáng
nghe, có một người trẻ, nói về thế hệ cha chú của mình, những chủ xị,
"mastermind" của cuộc chiến thịt da nát tan, người chết hai lần...
Khi đọc sơ mấy
truyện anh đưa,1 tôi chợt nẩy ra ý nghĩ, hay là mình thử đề nghị với
anh, với
người đọc, một cách viết "kép", theo kiểu Faulkner, khi viết Những
Cây Cọ Dại, The Wild Palms: hai truyện viết song song, xen kẽ,
bề ngoài chẳng
có chi liên hệ.
Ở đây, có
quá nhiều liên hệ. Hai đứa cùng thời, cùng bị cuộc chiến hành hạ, và
khi thoát
ra, mỗi đứa một cách. Và tôi cũng tin rằng, khó có ai còn lành lặn, sau
một cuộc
chiến như thế. Sau những ngày học tập dài như thế. Tuy vậy, vết thương
của anh,
có vẻ không nặng nề, qua những truyện ngắn kế bên. Anh mang theo vầng
trăng qua
những trại tù, và nó cứ thơ ấu mãi, như một cậu học trò ở trong anh.
Cái cậu học
trò này, ngày xưa, chỉ mong được cô giáo gõ cho vài cái vào tay, sau
này bắt
chước Anatole France, nhẹ nhàng an ủi cô giáo, khi cô nằm trên giường
bệnh:
"Hãy ngủ đi, ngày mai chúng ta sẽ lên đường." Cậu học trò, không có
những bước chân sáo, không đi qua vườn Lục Xâm Bảo, nhưng ngày ngày
mang cơm
cho cô giáo của mình. Cậu có một ông bố ở trong quân đội, có một bà mẹ
phải tần
tảo nuôi con... Tôi không hiểu, tại sao cậu lại có mãi một vầng trăng
thơ ấu,
như thế, trong một cuộc sống như thế. Sau một cuộc chiến như thế. Đây
là một
phép lạ của những bài toán hình học, của những giờ học ngoại ngữ chăng?
Nếu cậu
không gặp một cô giáo như thế, liệu cậu có tìm ra vầng trăng "thề"
thơ ấu mãi hay không? Và cái bài học văn chương, phải chăng nó cũng bắt
nguồn từ
đó?
Có những
truyện ngắn thuộc loại "kiệt xuất"; đọc, ta ngỡ ngàng, đến nghẹt thở,
nhưng kể cả tác giả, lẫn người đọc, đều không tin, nó sẽ có những "đàn
em". Tác giả khi viết, và độc giả, khi đọc, đều cảm thấy sẽ có lúc phải
chia tay với nhân vật trong truyện. Truyện ngắn Bức Tường của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus, hay
Rượu Chưa Đủ của Dương Nghiễm Mậu, chẳng hạn. Tôi cứ nghĩ đến
cảnh
chia tay của họ Dương, với bầy sư tử của ông. Tôi vẫn nghĩ, những
truyện ngắn
như vậy, là những ẩn ức, những phẫn nộ, những nỗi đau, của đời sống,
nhiều hơn
là của văn chương.
Với Nguyễn
Chí Kham, độc giả không gặp những truyện ngắn như vậy. Truyện ngắn của
anh
không tạo những cú sốc, theo cả hai nghĩa văn chương, lẫn cuộc đời. Cô
giáo
trong truyện Trăng ơi, thơ ấu mãi
không làm người đọc bận tâm với một con quỷ của
sự tò mò: cô có những nét riêng, để người đọc nhớ, và làm cho cậu học
trò mới lớn
phải bâng khuâng. Người đọc có thể tưởng tượng, nhưng đừng quyết đoán,
việc cô
tức giận, khi cố gắng làm cho cậu học trò hiểu một bài toán: một cố
gắng để
ngăn chặn tình cảm, chỉ ở mức đó, giữa hai người. Có thể chính vì vậy
mà cậu học
trò không thể chia tay với cô giáo, và tìm cách cho cô giáo sống lại
mãi mãi,
cùng với vầng trăng thơ ấu. Chúng ta sẽ còn gặp cô, ở trong những
truyện sau.
Và tôi cứ tưởng
tượng ra cậu học trò ngày xưa, đã nói với cô giáo như thế này:
"Đó là
một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô dậy em rất nhiều điều. Trước
tiên, cô đã
nhốt em trong nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học tháng
tám. Rồi cô
trả em về thế gian, với bổn phận viết về nó, như nó là: đen rợn người ở
bên
trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est
une chose que tu m'as apprise, mon âme. Tu m' as appris beaucoup de
choses. Tu
m'as d'abord enfermé dans ton rire comme un écolier dans la classe au
mois
d'aout, puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme
il est:
affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian
Bobin, L'inespérée).
Đen một cách
ghê rợn, phải chăng là những ngày dài, trước, trong, và sau trại tù?
Trong trắng
nhiệm mầu, là vầng trăng thơ ấu mãi?
NQT
Bác Hồ Iêu
Tờ LRB, Điểm
sách London, 22 Nov 2012 đọc Đỉnh
Cao Chói Lọi của DTH
Đọc bài này cũng thú lắm, thay vì đọc Hanoi's War của nữ sử gia
Mít
Hay Bên Thắng Nhục của tà lọt Osin
Người điểm
sách, Tariq Ali, kể
1 giai thoại, đúng
hơn, kỷ niệm, khi mới ra trường. Rất nhiều năm trước đây, ông có dịp
dùng bữa
trưa với 1 tay làm xb. Ông ta hỏi, ông muốn viết nhất, cuốn gì, What
book would
you most like to write? Lúc đó chiến tranh Mít đang leo thang, cố vấn
Mẽo đổ vô
tới tấp sau cú Ấp Bắc, Tháng Giêng 1963. Bản thân Ali, ông cho biết,
ông đã phá
hoại cuộc thi ra trường của mình, vì với mọi câu hỏi, thì ông đều đưa nỗi đau
vàng, le mal jaune, vô, bringing Vietnam to every answer.
Và chính vì thế, câu trả lời của ông với tay
này, là… Việt Nam:
Tôi muốn viết
1 cuốn tiểu sử về Bác Hồ thân thương của chúng ta!
Nhưng ông có
biết tiếng Tẩy không?
Không.
Tiếng Mít?
Không.
Vậy thì tốt
nhất, ông đi ghi tên liền 1 khóa tiếng Mít trong khi tôi đánh 1 cái
điện cho
Bác Hồ.
Một tháng
sau, Anthony Blond, tay xb, phôn, giọng hứng khởi:
Tớ nhận được
mail (điện tín) của Bác Hồ rồi. Tới ngay văn phòng...
Cái bức điện
của Bác thì mới khiêm nhường, như Bác vẫn hằng hằng khiêm nhường:
Cám ơn ông
quan tâm tới tui. Cái ý nghĩ của
ông viết tiểu sử tui, thì chưa hề đến với tui bao giờ hết.
"Thank you
for your interest. The thought of you writing my biography never
occurred to me.
Ho Chi Minh"
Đúng là Bác
Hồ!
Bảnh hơn cả… Thầy Cuốc, tớ đếch quan tâm
đến chuyện Bác Hồ có mấy vợ!
Hà, hà!
Viết
bên lề
"Bên Thắng Nhục"
Gulag của
Solz, cơ bản khác hẳn những cuốn trước - những hồi ức cá nhân, trong có
những
phát hiện có tính xã hội - không chỉ vì trong đó là hàng hàng chứng
tích, từ những
hàng hàng lớp lang con người, với những cuộc sống khác nhau, từ đó phản
chiếu cả
một xã hội, cả một dân tộc; ấn tưọng hơn nữa, là, Solz đặt để tác phẩm,
với
kinh nghiệm của bao nhiêu con người trong có của riêng ông, vào trong
nội dung
của lịch sử dân tộc, tôn giáo, ý hệ của nó, từ đó, làm bật ra cả một hệ
thống
kìm kẹp từ đỉnh đến đáy, sự đồng lõa của toàn thể dân chúng, của toàn
thể một
dân tộc, cùng tham dự vào tội ác, với tất cả những chiều hướng ngang
dọc, cao
thấp mà chỉ chế độ Nazi mới tương xứng với nó.
Sự
đồng lõa của toàn thể dân chúng, chỉ có Nazi mới tương xứng....: Có
Thái Dúi,
tà lọt Osin... trong số ‘dân chúng’đó không? Chắc là còn bé quá, khi
Bắc Kít
ăn cướp Miền Nam, nên đếch có tội?
Foreword to
the Abridgment
If it were
possible for any nation to fathom another people's bitter experience
through a
book, how much easier its future fate would become and how many
calamities and
mistakes it could avoid. But it is very difficult. There always is this
fallacious belief: "It would not be the same here; here such things are
impossible."
Alas, all
the evil of the twentieth century is possible everywhere on earth.
Yet I have
not given up all hope that human beings and nations may be able, in
spite of
all, to learn from the experience of other people without having to
live
through it personally. Therefore, I gratefully accepted Professor
Ericson's
suggestion to create a one-volume abridgment of my three-volume work,
The Gulag
Archipelago, in order to facilitate its reading for those who do not
have much
time in this hectic century of ours. I thank Professor Ericson for his
generous
initiative as well as for the tactfulness, the literary taste, and the
understanding of Western readers which he displayed during the work on
the
abridgment.
ALEKSANDR I.
SOLZHENITSYN
Cavendish,
Vermont December, 1983
Lời nói đầu
cho bản Bản Rút Gọn
Nếu khả hữu
cái chuyện, bất cứ một dân tộc nào cũng có thể cưu mang kinh nghiệm bi
thương
cay đắng của 1 dân tộc khác, tương lai của nó mới dễ dàng làm sao, và
chỉ còn có
cái may mắn, mọi khuyết điểm lầm lẫn chẳng
hề xẩy ra.
Những đúng là chuyện cực nhảm, khó bằng trời. Luôn luôn có niềm tin
cà chớn: “Ở xứ Mít, thí dụ, làm sao có chuyện đó xẩy ra. Nước Việt Nam
là một, vậy
mà tụi Mỹ, Ngụy dám nói xưng xưng là Bắc Kít là đồ ăn cướp, đồ xâm
lăng!”
Than ôi, Con
Quỉ Gulag của thế kỷ thứ 20, chỗ nào mà chẳng có.
“Oan ức” gì cái chuyện được đi
tù Cải Tạo?
Tuy nhiên, tôi
không hề buông xuôi mọi hy vọng rằng con người và những quốc gia có
thể, mặc dù
mọi chuyện, học được kinh nghiệm của dân tộc khác mà, 1 cách cá nhân,
không phải
sống nó.
Vì thế, tôi cám ơn giáo sư và chấp nhận đề nghị tạo bản rút gọn
bộ sách gồm ba cuốn của tôi, Quần
Đảo Gulag, để tạo sự dễ dàng khi đọc
nó, đối
với những độc giả không có nhiều thời giờ dành cho cái thế kỷ sôi nổi,
[đầy máu và
nước mắt]
của chúng ta….
|
|