|
Phỏng vấn
Giáo sư Nguyễn Liên Hằng, tác giả của 'Hanoi's War' (1)
Bài
interview trên Viet Nam War, những ý
chính của nó, thì cũng tương tự như bài
trên VOA. Vả chăng, cái ý tưởng khai phá của cô sử gia, là Bác Hồ bị
cho ra
rìa, Lê Duẩn mới là Kẻ Đại Ác [từ của Kim Dung], thì cũng nhiều người
biết từ hồi
Diễm Xưa rồi. Bác thừa biết, chúng lôi Bác ra làm bung xung, và có thể
còn biết
cả chuyện, vợ của Bác, tức vị hoàng hậu cuối cùng [từ này của TCDT],
của Mít
Triều, bị chúng lôi ra hiếp, rồi làm thịt, bằng cách quăng xác ra đường
cho ô
tô cán vậy mà Bác đâu dám mở miệng?
Cả đến khi biết "mệnh Trời", bèn đi 1 đuờng di chúc, tụi mi tha cho cái
xác của
tao, chúng nói, NO, xác của Bác còn quí hơn Bác nhiều!
Những chi tiết
tàn nhẫn về cái chết của bà hoàng hậu người xứ Việt Bắc, được anh VC/VTH xì ra,
trong Đêm Giữa Ban Ngày
-
dân làm báo kêu là tin đặc biệt "exclusivité", "scoop" - lần viết cho
tờ Mercury, Gấu dịch là "hot",
bị bạn quí mắng vốn - băng Cờ Lăng
bèn vồ liền, y chang lần này, vồ cuốn
Bên Thắng Nhục.
Thử hỏi bây
giờ ai còn đọc Đêm Giữa Ban Ngày?
Tháng sau, ai đọc Bên Thắng Nhục?
Chúng là thứ
đọc xong là vứt vô thùng rác, giống báo lá cải, ghê gớm chi đâu?
Chỉ có Ta mới
dám vô Địa Ngục VC, Đức Phật phán, ấy là vì Đức Độ của Người, chứ đâu
phải
Quyền Năng, hay Phép Lạ ?
Nếu Quyền Năng, Phép Lạ, Người đi đâu mà chẳng được, nhằm nhò gì ba thứ
địa ngục!
Một lũ Ác Nhân,
vậy mà bày đặt viết Gulag Mít!
(1)
… như anh
Huy Đức đã kể ra rành mạch trong tác phẩm này của anh, quả thực là quá
oan ức
và đau khổ cho miền Nam. Vì điều đó nhân danh chỉ cá nhân tôi,
tôi muốn
được xin
lỗi.
Blog Thái Dúi
Note: Anh
Thái Dúi này xin lỗi. Tuy nhiên, vẫn bằng giọng đểu cáng của Bắc Kít.
Oan ức, đau
khổ?
Kít.
Vẫn cái giọng
kẻ cả, của Bắc Kít, nghe đểu đéo chịu được!
Hà, hà!
Gấu Cà Chớn
có kỷ niệm về từ "oan ức" này, lần điểm cuốn tiểu thuyết của anh
Hoàng Lại Giang, Trùm nhà xb Văn Học phía Nam, trong đó, có 1 nhân vật,
bị Sếp [thủ
trưởng] làm thịt cô vợ rồi "mượn" Đảng, vu cho đủ thứ tội, anh này
đau quá, đếch dám thoi cho thằng khốn một cú, hay hai cú, chỉ ngồi
khóc: Oan
quá, Đảng ơi!
Anh khốn
Thái Dúi này, chắc là cũng qui cho Miền Nam "oan" như thế!
(1)
Quần Đảo Ngục Tù, khổng lồ, [bộ ba
cuốn, khổ lớn, mỗi cuốn dầy chừng 700 trang],
không phải
ai cũng có thì giờ đọc, do đó, có ấn bản rút ngọn, với lời nói đầu của
Solz,
thêm bài viết của tay biên tập bản rút gọn. Tin Văn cho in lại ở đây,
bởi vì có
thể coi đó là những lời bổ túc cho cái nhìn phần nào đã xưa cũ về Solz,
thí dụ,
quan niệm coi ông như là một thứ tiên tri, a Jeremiah figure, như trong
thư ông
gửi cho tay biên tập bản rút gọn, "chủ đích, ý nghĩa chính của Quần đảo
[là] một sự nâng cao đức hạnh và tinh thần thanh tẩy."
Trong nguyên
tác, có nhiều đoạn, nhiều chương tưởng như lập lại nhau, nhưng không
phải, đó
chính là Gulag tự lập lại chính nó, nhưng nếu kiên trì theo dõi, thì
cái âm
thanh cuối cùng của nó, the final note, là, hope: hy vọng. Solz
tự coi mình,
không phải nhà tiên tri, mà là một tay lạc quan không thể nào bị bẻ
gẫy, an
‘unshakable optimist”.
The Old Days
ZINOVY ZINIK
đọc
THE
SOLZHENITSYN READER
Không có nhiều
nhà văn góp từ mới, vô từ điển của những quốc gia khác. Từ "Gulag"
làm được điều này, và nó gắn liền với Solzhenitsyn.
Trước ông, từ
những năm 1920, nhiều cuốn sách nói về số phận thê lương của tù chính
trị, và
những điều ghê rợn trong những trại tù cải tạo ở Liên Xô, đã tới được
những bến
bờ Tây Phương, tác giả của chúng là những di dân, tị nạn, đào thoát,
cựu nhân
viên của hệ thống tù đầy Liên Xô. Chúng chỉ đạt được một con số độc giả
giới hạn.
Gulag của
Solz, cơ bản khác hẳn những cuốn trước - những hồi ức cá nhân, trong có
những
phát hiện có tính xã hội - không chỉ vì trong đó là hàng hàng chứng
tích, từ những
hàng hàng lớp lang con người, với những cuộc sống khác nhau, từ đó phản
chiếu cả
một xã hội, cả một dân tộc; ấn tưọng hơn nữa, là, Solz đặt để tác phẩm,
với
kinh nghiệm của bao nhiêu con người trong có của riêng ông, vào trong
nội dung
của lịch sử dân tộc, tôn giáo, ý hệ của nó, từ đó, làm bật ra cả một hệ
thống
kìm kẹp từ đỉnh đến đáy, sự đồng lõa của toàn thể dân chúng, của toàn
thể một
dân tộc, cùng tham dự vào tội ác, với tất cả những chiều hướng ngang
dọc, cao
thấp mà chỉ chế độ Nazi mới tương xứng với nó.
Chỉ đến khi Quần Đảo Gulag lén
lút được đem ra khỏi Đất Mẹ của nó, vào năm 1974, thì nhân
loại mới hết còn ảo tưởng về một chân lý: "Thà Đỏ Còn Hơn Chết".
Thà Đỏ Còn
Hơn Chết, đối với Miền Nam Việt Nam, trở thành: Thà VC còn hơn Chết [vì chiến
tranh].
The book was also written as a
treatise on the subject of
survival. The tone had been set in Solzhenitsyn's first published
masterpiece, One Day in the Life of Ivan Denisovich
(not included in The Solzhenitsyn
Reader). Unlike
another genius writing in this genre, Varlam Shalamov (a
kind of Russian Primo Levi), who had exposed the prison camp as an
unmitigated
hell where man is stripped of any vestige of humanity, Solzhenitsyn's
narrative
is a moral fable of the condemned soul seeking, in the
grueling
experience of prison life, the light of spiritual rejuvenation. It gave
hope.
This was another reason why his writing was such a huge success in the
West.
The Gulag Archipelago became an international bestseller, together with
earlier, more traditional political melodramas, The First Circle and Cancer
Ward, whose style and mode of thinking were not so different -
according to
Shalamov - from the canonical works of socialist realism. Solzhenitsyn
won the
Nobel Prize for Literature in 1970, but didn't go to Stockholm for fear
of not
being allowed back into Russia..
(....)
Perhaps it is the time for the Russians to reread it from their own
historical
perspective.
Cuốn sách còn được viết như là
một
luận đề về sự sống sót. Giọng văn thì
đã có từ tuyệt phẩm đầu tiên được xb, Một ngày (không có trong
ấn bản
The Solz Reader). Không giống một thiên tài khác cùng loại, Varlam
Shalamov
(một thứ Primo Levi của Nga), ông này coi trại tù là địa ngục hết thuốc
chữa,
nơi chất người kể như tiêu, giọng kể chuyện của Solz, là của một ngụ
ngôn đạo
đức của một linh hồn bị kết tội tìm kiếm, bằng kinh nghiệm nhọc nhằn
của cuộc
sống tù đầy, ánh sáng của sự tươi trẻ trở lại. Quần đảo Ngục tù trở
thành một cuốn best-seller trên toàn thế giới, cùng với hai cuốn trước
đó, Tầng
Đầu và Khu Ung Thư,
thuộc dòng bi kịch chính trị có tính truyền thống, giọng
văn và cách suy nghĩ của hai cuốn này không khác gì dòng văn chương
hiện thực
xã hội chủ nghĩa chính thống, theo Shalamov.
Có lẽ đây là dịp để người Nga
đọc nó, The Solz Reader, từ
viễn
tượng lịch sử của chính họ.
Sự
đồng lõa của toàn thể dân chúng, chỉ có Nazi mới tương xứng....: Có
Thái Dúi,
tà lọt Osin... trong số ‘dân chúng’đó không? Chắc là còn bé quá, khi
Bắc Kít
ăn cướp Miền Nam, nên đếch có tội?
INTERVIEW
Lien-Hang T.
Nguyen and Hanoi's Secrets
Amid the
tumult and chaos of Saigon falling on April 30, 1975, Tran Thi Lien
clung to
her infant daughter as her husband, Nguyen Thanh Quang, desperately
navigated
his family, including nine children, out of a country that in a matter
of hours
would no longer exist. While their youngest child Lien-Hang T. Nguyen
was too
young to recall her harrowing experience as the Vietnam War ground to
an
ignoble end, her in-depth insights into that war's final chapter is
turning
much of what is known about the war on its head. Through her
perseverance and
extraordinary access to Vietnamese archives, the former refugee, a Yale
scholar
and historian, crafted the groundbreaking Hanoi's War: An International
History
of the War for Peace in Vietnam, which challenges many long- held
assumptions
about North Vietnam's leadership and military and diplomatic
strategies. An associate
professor of history at the University of Kentucky, Nguyen recently
spoke with
Vietnam about her life and her work.
Phỏng vấn
Giáo sư Nguyễn Liên Hằng, tác giả của 'Hanoi's War' (1)
Note: TV sẽ
dịch bài phỏng vấn trên tờ báo Mẽo, The Vietnam War, sau.
Bài
interview trên Viet Nam War, những
ý chính của nó, thì cũng tương tự như bài trên VOA. Vả chăng, cái
ý tưởng
khai phá của cô sử gia, là Bác Hồ bị cho ra rìa, Lê Duẩn mới là Kẻ
Đại Ác
[từ của Kim Dung], thì cũng nhiều người biết từ hồi Diễm Xưa
rồi. Bác thừa biết, chúng lôi ra làm cái bung xung, và có thể còn
biết cả chuyện, vợ của Bác , tức vị nữ hoàng cuối cùng của Mít Triều,
bị chúng lôi ra hiếp, rồi
làm thịt, mà Bác đâu dám mở miệng?
Hà hà!
Cả đến khi biết mệnh Trời, bèn đi 1 đuờng di chúc, tụi mi tha cho cái
xác của
tao, chúng nói, NO, xác của Bác còn quí hơn Bác nhiều!
Viết
bên lề
"Bên Thắng Nhục"
Ít khi tui
ngồi đọc một cuốn sách từ đầu đến cuối một cách mê say, vậy mà mấy ngày
nay tui
vô Google tìm đọc cuốn “Bên Thắng Cuộc” rồi đọc miệt mài từ trang này
sang
trang khác, bà nhà tui thắc mắc cứ tưởng là tui mê đọc truyện chưởng
hay truyện
bậy bạ…
Đến lúc tui
nói với bà nhà tui là đang đọc “Bên Thắng Cuộc” thì bả cũng đòi xem ké,
thế là
cả hai vợ chồng đều mê một cuốn sách… Đọc ngấu nghiến như sợ chữ nghĩa
bỏ mình
chạy mất vậy.
Phải nói cảm
nghĩ đầu tiên của tui về cuốn sách ấy là “tuyệt vời”, ngòi bút của tác
giả Huy
Đức sắc sảo quá! càng đọc càng ghiền…
Blog Người Vịt
“Tuyệt vời”.
Một đấng khác,
khi đọc “Bóng Đêm Giữa Ban Ngày”, cũng của 1 đấng nhà văn VC, cũng được
băng đảng
Cờ Lăng vồ ngay lấy, “trác tuyệt”!
Đếch ai thấy
đau cả! Thế mới tếu!
Chưa tếu bằng
trường hợp bài thơ Tẩu Khúc của Thần
Chết, của Celan. Đám giết người Nazi rất mê
bài thơ, đọc lên thấy “khuây khoả”, xứng ngang với "khôi hài đen" hồi
đó: Người Đức sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho người Do Thái vì vụ Lò Thiêu.
Băng đảng Cờ
Lăng biết trước là cuốn sách sẽ thuộc loại best-seller, vồ
liền.
Cứ có
mùi tiền là lũ ruồi bọ xúm lại.
NQT
Cái Đẹp và Con Thú
Đây là một
tác phẩm văn chương trác tuyệt, như nhận xét của một tác giả. Lạ nhất,
khó hiểu
nhất, chính là từ "trác tuyệt". Với Đêm Giữa Ban Ngày,
người đọc hải ngoại tá hoả vì những phát giác
ghê tởm, về một ông Hồ và bà vợ của ông, về một Trần Quốc Hoàn… nên quên đi vẻ đẹp của
một bông hồng
khư khư cầm trong tay… Người đọc khóc cho những
thân phận tù đầy, ra khỏi tù chỉ
mong được trở lại, nên quên đi những dòng thơ cách mạng trác tuyệt ở
trong CKN
2000. Nghịch lý là ở chỗ đó: đâu là cái đẹp, đâu là con vật?
Người đọc có thể
chịu đựng được những chi tiết độc, ác, những sự kiện tàn nhẫn trong văn
Nguyễn
Huy Thiệp; người đọc có thể thông cảm với giọng đanh đá, thái độ "dù có
rũ
bụi tôi cũng không dám làm quen", và khẳng định, "thế hệ tôi quả
không uống giọt sữa nào, bút không chấm giọt mực nào của tiền chiến"
của
Phạm Thị Hoài. Người đọc trân trọng một giọng nói tuy mệt mỏi nhưng
không chịu
bị bẻ gẫy của một vầng trăng goá, như trong một truyện ngắn của Lê Minh
Hà;
nhưng giọng văn đầy ắp yêu thương, quá khỏe mạnh, đầy niềm tin vào con
người, ở
CKN 2000, làm người đọc khựng lại: liệu vẫn có thơ, sau (trại tù) Tân
Trào? Liệu
vẫn có thơ sau những vần thơ, mà "cũng như hắn, Phương thích mấy câu
thơ của
Maia:
Tôi
sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng
Là toàn tập thơ bônsêvích tôi làm"?
(CKN 2000,
trang 106)
V/v Cứ có mùi tiền...
“Giai thoại”
sau đây, là do DN,
báo SGN, kể: Lần tưởng niệm, hay giỗ đầu Mai
Thảo, hình như vậy, băng Cờ Hoa Lăng Bác đứng ra tổ chức, và cái tay
DNY hô
hào, lập "giải thưởng văn học Mai Thảo", thế là 1 cái quỹ được thành
lập, và 1
trong những vị thính/khán giả có mặt bèn xung phong bỏ vô… túi DNY 200
đô.
Và bà
DN tự hỏi, giải thưởng thì sẽ muôn đời lục quân… Miền Nam,
nhưng còn hai trăm đô, chắc là sau đó DNY bỏ vô account của ông ta,
tiền lời
của nó, bi giờ là bao nhiêu?
Cả 1 băng
đảng, suốt cuộc chiến không đứa nào
sứt 1 sợi lông… chân, bỏ chạy cũng lẹ nhất, bao nhiêu năm ở hải ngoại,
không
làm được chỉ 1 việc nhỏ cho ‘đại cuộc’, chỉ chăm chăm lo làm giầu, cả 1
đám bây
giờ giầu xụ, bao nhiêu cơ quan báo chí, truyền thanh… đều thuộc vào tay
chúng
hoặc hậu duệ của chúng, thử hỏi sự khốn kiếp đâu có thua gì VC ở trong
nước?
Chúng chửi VC, bằng thứ tâm địa khốn kiếp như thế, làm sao có… phép lạ
xẩy ra? (1)
‘Vô ích, ảo
tưởng’ (1)
Sến Cô Nương
Tôi không
quan tâm nhiều đến cuộc vận động sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam hiện nay…
(2)
Thầy Cuốc
Nếu như thế,
hiện tượng dân Mít xuống đường ký kiến nghị, yêu cầu sửa đổi/hủy bỏ
hiến pháp,
làm sao giải thích?
Hai cách giải
thích, của Sến [mặt tiền mặt tiếc, facade] và của Thầy Cuốc [hy vọng VC
“sụp bẫy”
dân chủ], theo Gấu, đều nhảm cả.
Ở đây, theo
Gấu, xẩy ra đúng cái điều mà Steiner viết, khi vinh danh Solzhenitsyn,
đúng
hơn, vinh danh tác phẩm của ông viết về Gulag:
Phải đọc lên
tên từng người, không được bỏ qua dù chỉ 1 người!
Những người
đang nối đuôi nhau, ký tên mình, thay cho những người đã chết, yêu cầu
vứt hiến
pháp VC vô thùng rác, đang làm cái việc đó, cái việc mà Solz làm, khi
viết Gulag - Lênin sinh ra là
để dựng lên Gulag. Ta, để huỷ diệt nó - Hay như
Ông Số 1 phán, “Những người đã chết đều có thực” [và Ông Số 2 bèn chôm
luôn! Cả
đời ông ta, Ông Trời cho đủ cả, đầy cả, chỉ thiếu có mỗi 1 câu thơ!]
Every time a
human being is flogged, starved, deprived of self-respect, a specific
black
hole opens in the fabric of life. It is an additional obscenity to
depersonalize inhumanness, to blanket the irreparable fact of
individual agony
with anonymous categories of statistical analysis, historical theory,
or
sociological model-building. Consciously or not, anyone who offers a
diagnostic
explanation, however pious, or even condemnatory, erodes, smoothes
toward
oblivion, the irremediable concreteness of the death by torture of this
man or
that woman, of the death by hunger of this child. Solzhenitsyn is
obsessed by
the holiness of the minute particular. As happens with Dante and
Tolstoy,
proper names cascade from his pen. He knows that if we are to pray for
the tortured
dead, we must commit to memory and utter their names, by the million,
in an
incessant requiem of nomination.
Mỗi một sự sỉ
nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp
riêng lẻ
không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh
đập, bị
bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra
trên tấm
dệt đời. Đây là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm cho sự phi nhân không còn
có tính
cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối của từng cá
nhân, bằng
đủ thứ phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử,
hay xây dựng
mẫu mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời
giải
thích chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi
nữa,
cũng làm tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể
không
thay đổi được về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái
chết vì
đói khát của em bé nọ. Solz. bị ám ảnh bởi sự linh thiêng của khoảnh
khắc đặc
biệt, dị thường. Như đã từng xẩy ra với Dante, và Tolstoy, tên riêng
của con
người trào ra như thác dưới ngòi viết của ông. Ông biết, nếu chúng ta
cầu nguyện
cho những người chết vì tra tấn, chúng ta phải nhập tâm và thốt lên tên
của họ,
trong dòng kinh cầu hồn không ngừng, từng tên một, hàng triệu tên.
[Câu này, do K dịch. Tks.
NQT]
Steiner: De
Profundis
Hy vọng 1 tên điếm
già đời như VC, sụp bẫy, do một anh hơi bị còn trẻ, “non đời” như Thầy
Cuốc, tưởng tượng ra,
thì quả là tếu thực!
Cái thái độ coi trời bằng vung của Thầy, mới ghê, y chang cái dốt nát
cũng của Thầy!
Cái cụm từ "Tôi không quan tâm", sử
dụng
nhiều quá rồi, nên đổi “tông” đi.
Khiêm nhường 1 tí, như thằng cha GCC, thí dụ!
Tôi không quan tâm Ông Hồ có mấy vợ, tôi không quan tâm tới hiến pháp
hay không
hiến pháp, tôi không quan tâm đến vụ Mạc Ngôn được Nobel....
Vừa vừa thôi,
I can U!
Hà, hà!
Cái
câu mà Người Kinh Tế vinh danh Solz, mấy tay trong nước nên đọc:
Vào
thời kỳ Xô viết, nói sự thực đòi hỏi can đảm lớn, và đem đến những hậu
quả đáng
sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối chẳng có bao, và thuộc đám trí
thức hạng
nặng, như Sakharov, người làm ra bom nguyên tử cho Liên Xô. Ngày nay,
sợ hãi
không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí thức. Nói sự thực tuy vẫn nguy
hiểm, như vụ
làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya vào năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn
núp ở đằng
sau sự im lặng của nhiều người thì không phải là sự sợ hãi mà là
‘appetite’: Một
‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ lên bổng lộc, và địa vị mà hầu hết đám
trí thức
‘enjoy’, [thưởng thức], như là tà lọt trung thành của hệ thống Xô Viết.
(1)
Cái
tín hiệu xuống đường ký tên, theo Gấu, là rất mừng. Không thể vô ích,
ảo tưởng
được.
Chính là do
"appetite" mà đám tinh anh, cực tinh anh Bắc Kít không dám mở miệng,
đúng vào lúc cần họ.Cứ thử tưởng tượng ông Nobel cầm cái bửu bối
Nobel, giữa Ba Bình, phán, đi chỗ khác chơi, cái Lăng này, thì ép phê
cỡ nào! Cái gì gì, thiên sinh hào kiệt "bất ưng hư" [Cao Bá Quát], trời
cho hào kiệt ra đời, không để cho hư đi, là theo nghĩa đó.
Theo
Gấu, đám Yankee mũi tẹt, một khi ra được hải ngoại, giống như ra ngoài
cái hang
của Plato, nhưng không chỉ bị chói lòa bởi ánh sáng ban ngày, mà còn
bởi đỉnh
cao chói lọi, bởi hai cuộc thánh chiến thần kỳ, đánh thắng hai thằng
khổng lồ
thực dân cũ và mới. Cái sự mù lòa thứ nhì mới thực sự khủng khiếp. Đám
nhà văn
của họ, dù có thoát ra được, thì cũng muôn đời trầm luân trong cái thứ
văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa, ông nào bà nào viết văn cũng đầy tham vọng,
đem
chân lý đến cho người đọc, cho nhân loại, chí ít thì cũng dân Mít. Tham
vọng
này làm hỏng không chỉ nội dung, mà luôn cả văn phong, dòng kể của câu
chuyện:
Chưa viết là đã lo giải thích, lên lớp, giảng mo ran cho người đọc,
bằng một
cái giọng hết sức kênh kiệu, tự cao, tự đắc, mục hạ vô nhân, vô học...
"này, có thứ văn học hải ngoại ư ?" [VTH], "chỉ ngửi khói hàng
xóm đủ no, rũ bụi cũng đếch thèm làm quen" [PTH], đại khái như vậy.
Nhìn những ông những bà nhà văn Yankee mũi tẹt hăm hở đi tìm sự thực,
và bây giờ anh tà lọt, sự thực lịch sử,
Gấu nản
quá, thú thực.
Nabokov
chẳng đã từng phán, "Văn chương không bắt đầu vào cái ngày, một
đứa
trẻ chạy trối chết từ một cánh rừng ra, và chạy và la 'chó sói, chó
sói', và một
con chó sói bén gót chú bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn
'chó sói,
chó sói', và đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào. Chuyện chú bé lập
đi lập lại
một lời dối trá, và sau cùng bị chó sói ăn thịt chỉ phụ thuộc, nhưng
điều quan
trọng ở đây là: giữa con sói ở góc rừng và con sói ở góc trang sách, có
một mắt
xích lóng lánh. Mắt xích đó, lăng kính đó, là nghệ thuật văn chương."
Vẫn
theo ông, "Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là... giả tưởng. Gọi một
câu
chuyện là 'chuyện thật, lịch sử thật', là làm nhục cả nghệ thuật lẫn sự
thực.
Hãy bám hiện thực. Hãy viết dưới ánh sáng của hiện thực xã hội chủ
nghĩa... phiền
một nỗi, Thiên Nhiên, bà mẹ đẻ ra hiện thực chủ nghĩa, vốn luôn luôn
đánh lừa.
Một nghệ sĩ lớn đúng ra là nên đi theo vết chân của bà, thay vì trung
thành với
chủ nghĩa hiện thực!"
Chỉ bằng cách dối trá nhà văn làm bật ra, indicate, sự thực!
Anh
tà lọt Osin thì cũng có đâu khác. Nhờ làm tà lọt, vớ được mớ giai
thoại Sáu
Dân đã từng có mấy cô vợ bé, anh y tá dạo Ba Dzũng đã từng ngủ với em
này em nọ…
tưởng là chân lý lịch sử. Thế là ôm ra hải ngoại, băng đảng Cờ Lăng
biết tỏng,
nhưng đúng là thứ ăn khách, dân hải ngoại rất mê món “hậu cung VC”, thế
là in ấn,
khua chuông gõ trống loạn cả lên!
‘Vô ích, ảo
tưởng’
Nhìn lại cái
gốc của hiến pháp Việt Nam hiện nay là gì? Đó là vụ “Ôn Như Hầu”, là bà
Nguyễn
Thị Năm-Cát Thành Long (ân nhân của Hồ Chí Minh) bị bắn chết tươi, là
mấy chục
năm trên Cổng Trời của Nguyễn Hữu Đang (người dựng lễ đài khai sinh ra
Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa), là “rút phép thông công” của Nguyễn Mạnh Tường (tư
vấn pháp
luật cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), là chín năm tù không án của Vũ Thư
Hiên –
con trai ân nhân và thư ký riêng của Hồ Chí Minh – lãnh tụ, tác giả
chính của
Hiến pháp 1946, là bảo người ta đi học tập vài tuần, vài tháng nhưng
rồi đưa
người ta đi tù mút mùa hàng chục năm hoặc mãi mãi, vân vân và vân vân,
vô vàn
những đau thương, tủi hờn khác còn ghê gớm, xót xa hơn nữa. Và nếu chỉ
tính
trong vài tháng trở lại đây, trong đợt “cải cách hiến pháp”, có ai đếm
được hết
những vụ bất chấp luật pháp, bách hại, sỉ nhục con người tại Việt Nam
do chính
người cầm quyền thực hiện (?).
Với cái nền
“rule of law”, cả từ đáy cho tới hiện tại, như thế thì sao có thể nói
đến hiến
pháp hay sửa hiến pháp được? Do đó, theo tôi, một cách thẳng thắn, nếu
bàn đến
xây dựng hay ủng hộ việc cải cách hiến pháp với chính quyền Việt Nam
hiện tại
là một việc làm kỳ cục, gần như vô ích hoặc hết sức ảo tưởng.
Nhưng bình
tĩnh lại, chúng ta cũng cần thấy thế này: chính sự phát triển lâu dài
hàng thế
kỷ sau đó của hiến pháp trên thế giới và đặc biệt là việc các lãnh đạo
độc tài
thường xuyên lấy hiến pháp làm mặt tiền (façade) cho cách cầm quyền độc
đoán, bất
chấp pháp luật (phi thượng tôn pháp luật – rule by law) của họ đã làm
cho chúng
ta lãng quên mất cái gốc quan trọng của hiến pháp (thực sự) – là rule
of law –
và làm cho chúng ta rối mù trong cái vòng xoắn luẩn quẩn: Độc tài thời
dân chủ
– Hiến pháp mặt tiền – Dân chủ giả hiệu – Dân chúng bối rối, mất tự do
– Độc
tài thời dân chủ.
PTH (1)
Lần đầu
tiên, Gấu nghe được vài lời OK của Sến Cô Nương.
Gấu đã tính viết như vậy từ
khuya rồi, từ hồi Diễm Xưa, chưa có ĐCS.
Bởi là vì cái nước Mít chưa từng biết “rule of law”
là cái quái gì, trong lịch sử lập nước của
nó.
Chỉ là chạy thằng Tẫu, mở đường máu, thành vết thương hình chữ S, và
trong
khi vẽ lên vết thương hình chữ S đó, làm thịt, làm cỏ, không biết bao
nhiêu giống
dân khác.
Anh ca sĩ Hời da đen ngòm, Lính Chê, bài hát tủ Hận Đồ Bàn, từ hải
ngoại bò về quỳ dưới chân lũ Bắc Kít ở Bắc Bộ Phủ, xin
1 bữa hát ở Hà Nội. OK
Vì, đâu chỉ
anh ta quì, mà 1 đất nước, 1 dân tộc đã mất, quì.
Nhưng khi xin hát ở Sài Gòn,
thủ đô VNCH + dĩ vãng vàng son của anh ca sĩ.
NO.
Chỉ có thế.
Chấm hết.
[Thuổng văn
phong của Thầy Cuốc, khi viết về 10 năm Hậu Vệ]
Đếch có "Rule
of Law". OK
Thê thảm hơn
nhiều: Đếch có Hạnh Phúc!
Milosz: Ghi
Chú Về Lưu Vong
Anh
ta không tìm thấy hạnh phúc, bởi vì làm gì có hạnh phúc ở xứ sở của anh
ta.
He did not find happiness, for there was no happiness in his country.
Adam Mickiewicz.
Lưu vong: Cách sử dụng
Hãy
coi lưu vong là số kiếp, theo nghĩa một thứ bịnh không sao chữa lành,
chỉ có
cách đó mới giúp chúng ta vứt bỏ vào thùng rác những hoang tưởng về
mình.
Lưu Vong: Khuôn Mẫu
Anh
ta biết nhiệm vụ của mình, và nhân dân đang chờ đợi những lời nói của
anh,
nhưng anh bị cấm nói.
Bây
giờ, ở nơi anh đang ở, anh tha hồ mà nói, nhưng chẳng ai thèm nghe, vả
chăng,
anh quên mẹ những gì anh phải nói.
Lưu vong: Thích nghi
Sau
nhiều năm lưu vong, chúng mình bèn tưởng tượng đời mình như thế nào,
nếu chẳng
lưu vong.
Lưu Vong: Chán Chường
Cú
đánh đầu tiên vào đầu một nhà văn lưu vong, đúng như Võ Phiến đã từng
cảm nhận:
Nhà văn lưu vong không đem theo được cùng với ông ta, độc giả thân
thương của
mình!
Như
thế có nghĩa, cùng với sự mất tích độc giả, nhìn vào những trang viết
cũ cứ như
nhìn vào hư vô.. là chán chưòng, tuyệt vọng, là sợ đếch ai còn biết đến
tên ta
[loss of name], sợ thất bại, và những dằn vặt về đạo đức [moral
torment].
Nhà
văn lưu vong đau khổ bởi vì anh ta lúc nào cũng phải bám vào ý thức,
thói quen
tập thể. Có lẽ, anh ta, nhà văn như thế đó, chưa hề bao giờ học đứng
bằng đôi
chân của chính mình.
Anh
ta có thể thắng, nhưng chỉ khi nào, trước đó, anh ta bằng lòng thua.
[He
may win, but not before he agrees to lose]
Lưu
vong là lâm vào tình cảnh thật đáng ngờ, nếu nói về mặt đạo đức, bởi vì
nó bẻ
gãy kết nối của một con người với đám đông, nói rõ hơn, nó tách
một cá
nhân ra khỏi một nhóm, và cá nhân này ngưng không còn chia sẻ kinh
nghiệm của
mình với những đồng nghiệp bị bỏ lại. Những dằn vặt về đạo đức phản ảnh
sự vấn
vương của anh ta với một hình ảnh hào hùng về chính mình, và anh ta
phải, từng
bước từng bước, đi tới một kết luận thật thê lương thật đau đớn,
là: thật
khó mà làm được một việc có giá trị về mặt đạo đức, và càng thật khó,
giữ cho
được một hình ảnh không hề hoen ố về chính mình.
Warrior
Petraeus
March 7,
2013
Thomas
Powers.
Bài viết này,
trên NYRB, thật tuyệt, vì nó móc nối đến cuộc chiến trước,
với tên thực dân cũ là Tẩy, và có điểm cuốn của Jean Lartéguy, viết về
nó. Nhìn
theo “góc độ sự thực lịch sử” Mít, thì bài viết còn liên quan tới Bên Thắng Nhục
của anh tà lọt Osin.
India: A Wounded Civilisation
Ấn Độ: Một nền văn minh bị thương
The turbulence in India this
time hasn't come from foreign
invasion or conquest; it has been generated from within. India cannot
respond
in her old way, by a further retreat into archaism. Her borrowed
institutions
have worked like borrowed institutions; but archaic India can provide
no
substitutes for press, parliament, and courts.
The crisis of India is not only political or economic. The larger
crisis is of
a wounded old civilization that has at last become aware of its
inadequacies
and is without the intellectual means to move ahead.
Khủng hoảng của Ấn Độ thì không chỉ về chính trị hay kinh tế. Khủng
hoảng lớn
lao hơn, là về một nền văn minh cổ bị thương, và về chuyện nó ý thức
được sự
thiếu hụt, và chẳng làm sao có những phương tiện trí thức để mà tiến về
phiá
trước.
Uchronie?
Uchronie, theo từ
điển Le Nouveau Larousse Illustré 1913:
Danh từ giống cái. Không tưởng, utopie, áp dụng vào lịch sử; lịch sử
làm lại
một cách hợp lý như là nó có thể. Thí dụ: Cái mũi của Cléopatre: Nếu
ngắn đi
một tí, thì bộ mặt thế giới đã thay đổi.
Bằng thủ pháp uchronie, nhà văn thay đổi dòng chảy của lịch sử. Một ông
Quang
Trung của NHT ra Bắc nhét kít vô miệng sĩ phu Bắc Hà, và thế là lương
tâm kẻ sĩ
xuất hiện đè bẹp dí Cái Ác Bắc Kít, và thế là cuộc chiến giữa Mít Bắc
và Mít
Nam đổi khác!
Chỉ có những nhà văn mới có thể làm được điều trên đây. (1)
“The politics
of a
country can
only be an extension of its idea about human relationships”
Naipaul. Pankaj Mishra trích dẫn trong The Writer and the World.
Introduction.
Nền chính trị của một xứ sở
chỉ có thể là sự mở rộng ra, ý nghĩ của xứ sở đó, về những liên hệ,
giao tiếp
giữa con người với con người.
Muốn hay không, thì Hồ Chí
Minh cũng là người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng 8 và đã xoá bỏ
chuỗi
ngày dài nô lệ. Còn những người
bảo vệ Hồ Chí
Minh thì cũng không phải vì Hồ Chí Minh mà vì họ bảo vệ quyền lợi của
họ. Bởi
vì dù sao ông Hồ trong lịch sử vẫn còn để lại một hình ảnh tốt đẹp
trong dân
chúng.
Dương Thu Hương BBC
*
“The politics of a country
can only be an extension of its idea about human relationships”.
Câu này, của Naipaul, thật
tuyệt, và sử dụng nó, vào xứ Mít, thì lại càng tuyệt.
Xứ Mít - ở vào cái thời chỉ có
giống dân Yankee mũi tẹt – cái gọi là chính trị của nó, chỉ là cách đối
xử, ý nghĩ của nó, đối với cõi
bên ngoài
luỹ tre làng, tức cõi mà Tô Hoài gọi là Quê Người.
Quê Người? Gần gụi nhất, là "Làng Kế Bên" [tên 1 truyện cực ngắn của
Kafka] (1), và xa
hơn, Nam Kỳ, tức Đàng Trong, về phía Nam, và Trung Quốc, ở phía Bắc.
Đối xử
với làng
kế bên thì sao? Thì đánh cho nó bỏ mẹ, nếu
chàng màng đến gái làng ta.
Đàng Trong? Phải cướp cho bằng được.
Trung Quốc ?
Xứ này đúng
là cái họa muôn đời của Yankee mũi tẹt. Chính vì đánh không được nó,
nên phải lấn
về phía Nam.
Cái politics của xứ Mít thật rõ như ban ngày, ngay cả cái vụ đánh Tây,
thì cũng
phải được nhìn qua tổng thể trên. Thành thử khó mà nói như DTH nói
được: Muốn
hay không, thì Hồ Chí Minh
cũng là người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng 8 và đã xoá bỏ chuỗi
ngày dài
nô lệ.
Bởi vì bạn không thể nào tách
nó ra khỏi tổng thể được. Cuộc đánh Tây, phải được nhìn như là một
“tổng diễn tập”
cho cuộc đánh Mỹ cướp Miền Nam
sau này. Cuộc đánh Tây xẩy ra, khi ông Hồ đã được Đảng Mác Xít Liên Xô
rửa tội,
bởi thế mà khi điệp viên OSS nhẩy dù xuống Miền Bắc gặp ông Hồ, nhìn rõ
"chân lý" [chữ của DTH] về Người, đã rút
dù bỏ chạy. Điều này được kể ra trong Tạp Chí CS của Đảng, như là một
bằng
chứng
cho thấy, VC không hề muốn theo Liên Xô, mà thực tâm muốn theo Mẽo,
nhằm xóa tội
gây cuộc chiến lần thứ nhì, và nhằm xoa dịu Mẽo, mời Mẽo trở lại VN.
Có lần Gấu phán ẩu, nếu không có thằng Tây, thì Đàng Trong bị Đàng
Ngoài nuốt chửng từ lâu rồi, là cũng theo "tầm nhìn" này. Thằng Tây,
không phải tự nhiên mà
cho Nam Kỳ tự trị. Không phải đây là chính sách chia để trị của tụi Tây
mũi lõ. Thằng Tây cố bảo vệ Miền Nam, đối với Miền Bắc, bởi vì theo
thằng Tây, cái gọi là liên hệ người với người của miền đất này, dù sao
cũng gần gụi với của Tây mũi lõ hơn, hẳn thế?
Nhìn theo "tổng thể" như thế, thì còn giải thích được cái gọi là
politics của VC trong vụ Bô Xịt [Bullshit] hiện đang xẩy ra tại Tây
Nguyên.
Nhưng khi Tô Hoài sử dụng cái tít Quê
Người, viết về một cái làng
quê Bắc Kít, làng Nghĩa Đô, trong thâm tâm ông, là để
chỉ điều Conrad gọi là Trái Tim Của Bóng Đen, tức chính cái xứ Đàng
Ngoài khốn nạn.
Chính Làng Ta là Quê Người!
Thảm thế!
(1)
Làng kế bên.
Nội tôi thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội đây, nhìn lại nó, thấy
đời
như co rút lại, thành thử nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: bỏ
qua
chuyện tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm rong ruổi
sang làng
kế bên, mà không e ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc như thế, cũng
không đủ
thời gian cần thiết cho một chuyến đi như vậy."
Bản tiếng Anh: The next village.
My grandfather used to say: "Life is astoundingly short. To me, looking
back over it, life seems so foreshorthened that I scarcely understand,
for
instance, how a young man can decide to ride over to the next village
without
being afraid that – not to mention accidents – even the span of a
normal happy
life may fall far short of time needed for such a journey".
*
But, as Ho's
brilliant commander, General Vo Nguyen Giap, told me in Hanoi in 1990,
his
principal concern had been victory. When I asked him how long he would
have
resisted the U.S. onslaught, he thundered, "Twenty years, maybe 100
years-as long as it took to win, regardless of cost." The human toll
was
horrendous. An estimated 3 million North and South Vietnamese soldiers
and
civilians died.
STANLEY
KARNOW
[Nhưng, như
viên tổng tư lệnh sáng choang của Hồ, Tướng Võ Nguyên Giáp, nói với
tôi, ở Hà Nội
vào năm 1990, quan tâm chính của ông ta là chiến thắng. Khi tôi hỏi bao
lâu, ông
phán, “Hai chục năm, trăm năm cũng OK, lâu chừng nào OK chừng đó, cho
đến khi thắng,
bất kể tổn thất.”
Tổn thất mới ghê rợn làm sao. Chừng 3 triệu, cả hai miền, cả lính
và thường dân]
Chỉ đến mãi
sau này, thì Gấu mới hiểu ra, còn một mặt khác nữa, của lời tuyên bố
của Võ
Tướng Quân. Tay ký giả Mẽo này, chỉ nhìn thấy cái mặt “giết người” của
câu nói
của Giáp.
Trong mỗi tên Bắc Kít, thì
đều có giấc mộng “vượt thoát”, như Gấu đã từng
có, và đã từng thú tội trước bàn thờ nhiều lần.
Gấu đọc Tô
Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc
ông mà
có.
Khi còn ở xứ
Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu
nói, là giấc
mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi
tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thỏa
mãn, mà thỏa mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất
hiện!
Lúc thì ở
nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái xứ
Bắc Kỳ
mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong
bao nhiêu nước Nam Kỳ khác, do đọc sách mà có!
Trong những
“nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày mới lớn mà có đó, có “Sa mạc
Tartares” của
Dino Buzzati.
Mới đây, đọc A Reading Diary,
Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông nói là đọc nó
vào thời
mới lớn, cũng như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc Nam Kỳ, tại Sài
Gòn,
khi có BHD.
*
Có hai nhà
văn Bắc Kít chúng ta cần đọc đi đọc lại, là Tô Hoài và Nguyễn Khải. Đọc
NK thì
phải nhớ câu phán của ông: Giá mà không có Đảng thì tôi đã trở thành
một vị
linh mục. Nhớ luôn những tác phẩm ông tấn công vào cái nôi tôn giáo ở
Miền Bắc,
là vùng Bùi Chu, Phát Diệm.
Tô Hoài, đừng
bao giờ quên ông còn là tác giả của Dế
Mèn. Giả như không có Đảng, liệu
Cái Ác
của ông vẫn còn nằm ẩn tàng ở trong cái vỏ ngây thơ của một tác giả
chuyên viết
chuyện cho nhi đồng?
Tuy nhiên,
trong Quê Người, người đọc đã
ngửi ra được Ba Người Khác,
khi đọc cuốn
sau, rồi
đọc lại cuốn trước!
Nam Cao so với
Tô Hoài, thua xa về khoản Ác Siêu Việt, vượt luôn cả hiện thực!
*
Còn một tay
nữa, nhưng mới nháng lên như ánh lửa ma trơi thì đã vụt tắt rồi, là…
Quê choa
NQL!
Những
entries đầu của anh, Cái Ác Trung Kít mà chẳng... "Thần" sầu, ư?
Đấy là chưa
kể tới Cái Dâm, mà "Xìn Phóng" xém mất mạng vì phán "ẩu" về
nó! (1)
Xìn Phóng,
là nick của Trần Phong Giao, thư ký tòa soạn Văn. Ông khuyên bạn bè,
gái Huế chỉ
nên quen, như nhân tình, người yêu…. chớ
bao giờ lấy làm vợ.
Bị mấy bà Huế
làm cho 1 trận tơi bời hoa lá, xém bể nồi cơm!
Vụ này VL
rành lắm. Anh nhảy vô ăn có, bị Nguyễn Đình Vượng, vốn ngày xưa từng đi
lính
cho Pháp, dọa đá cho mấy cú giầy săng đá, như anh kể trên tờ Thời Tập, mới đây
thôi.
"The
most splendid writer of English alive today ....
He looks
into the mad eye of history and does not blink."
-THE BOSTON
GLOBE viết về Naipaul
"Nhà
văn rạng ngời nhất của dòng văn chương tiếng Anh hiện đang còn sống vào
lúc
này...
Ông ta nhìn
vào con mắt khùng của lịch sử, mà đếch thèm nhấp nháy con mắt".
Đúng rồi,
chúng ta cũng cần một ông nhà văn nhìn vào con mắt khùng của lịch sử
hậu 30
Tháng Tư 1975 của chúng ta, mà đếch có
nhấp nháy con mắt.
Chúng ta đếch
cần Hậu Hiện Đại, đếch cần Bên Thắng Nhục... mà cần mở thật to
hai con mắt,
nhìn vào con mắt khùng Hậu Chiến Thắng!
Theo
Gấu, đám Yankee mũi tẹt, một khi ra được hải ngoại, giống như ra ngoài
cái hang
của Plato, nhưng không chỉ bị chói lòa bởi ánh sáng ban ngày, mà còn
bởi đỉnh
cao chói lọi, bởi hai cuộc thánh chiến thần kỳ, đánh thắng hai thằng
khổng lồ
thực dân cũ và mới. Cái sự mù lòa thứ nhì mới thực sự khủng khiếp. Đám
nhà văn
của họ, dù có thoát ra được, thì cũng muôn đời trầm luân trong cái thứ
văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa, ông nào bà nào viết văn cũng đầy tham vọng,
đem
chân lý đến cho người đọc, cho nhân loại, chí ít thì cũng dân Mít. Tham
vọng
này làm hỏng không chỉ nội dung, mà luôn cả văn phong, dòng kể của câu
chuyện:
Chưa viết là đã lo giải thích, lên lớp, giảng mo ran cho người đọc,
bằng một
cái giọng hết sức kênh kiệu, tự cao, tự đắc, mục hạ vô nhân, vô học...
"này, có thứ văn học hải ngoại ư ?" [VTH], "chỉ ngửi khói hàng
xóm đủ no, rũ bụi cũng đếch thèm làm quen" [PTH], đại khái như vậy.
Nhìn những ông những bà nhà văn Yankee mũi tẹt hăm hở đi tìm sự thực,
và bây giờ anh tà lọt, sự thực lịch sử,
Gấu nản
quá, thú thực.
Nabokov chẳng đã từng phán, "Văn chương không bắt đầu vào cái ngày, một
đứa
trẻ chạy trối chết từ một cánh rừng ra, và chạy và la 'chó sói, chó
sói', và một
con chó sói bén gót chú bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn
'chó sói,
chó sói', và đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào. Chuyện chú bé lập
đi lập lại
một lời dối trá, và sau cùng bị chó sói ăn thịt chỉ phụ thuộc, nhưng
điều quan
trọng ở đây là: giữa con sói ở góc rừng và con sói ở góc trang sách, có
một mắt
xích lóng lánh. Mắt xích đó, lăng kính đó, là nghệ thuật văn chương."
Vẫn
theo ông, "Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là... giả tưởng. Gọi một
câu
chuyện là 'chuyện thật, lịch sử thật', là làm nhục cả nghệ thuật lẫn sự
thực.
Hãy bám hiện thực. Hãy viết dưới ánh sáng của hiện thực xã hội chủ
nghĩa... phiền
một nỗi, Thiên Nhiên, bà mẹ đẻ ra hiện thực chủ nghĩa, vốn luôn luôn
đánh lừa.
Một nghệ sĩ lớn đúng ra là nên đi theo vết chân của bà, thay vì trung
thành với
chủ nghĩa hiện thực!"
Chỉ bằng cách dối trá nhà văn làm bật ra, indicate, sự thực!
Anh
tà lọt Osin thì cũng có đâu khác. Nhờ làm tà lọt, vớ được mớ giai
thoại Sáu
Dân đã từng có mấy cô vợ bé, anh y tá dạo Ba Dzũng đã từng ngủ với em
này em nọ…
tưởng là chân lý lịch sử. Thế là ôm ra hải ngoại, băng đảng Cờ Lăng
biết tỏng,
nhưng đúng là thứ ăn khách, dân hải ngoại rất mê món “hậu cung VC”, thế
là in ấn,
khua chuông gõ trống loạn cả lên!
Warrior
Petraeus
March 7,
2013
Thomas
Powers.
Bài viết này,
trên NYRB, thật tuyệt, vì nó móc nối đến cuộc chiến trước,
với tên thực dân cũ là Tẩy, và có điểm cuốn của Jean Lartéguy, viết về
nó. Nhìn
theo “góc độ sự thực lịch sử” Mít, thì bài viết còn liên quan tới Bên Thắng Nhục
của anh tà lọt Osin.
Viết bên lề
"Bên Thắng Nhục
Gấu Cà Chớn
nghe nhiều lần cái luận điệu “cà chớn” của đám cùng phe [pro, mượn từ
của Sến]
với Bên Thắng Nhục, là, sau
khi xoa đầu/nâng bi cả 1 lũ với nhau, bèn
kết luận
bằng câu thơ xanh rờn, Bên nào thắng thì nhân dân đều bại, của nhà thơ
VC – thì
ông ta là nhà thơ VC, Bắc Kít thì phải gọi như thế - Nguyễn Duy.
Cuộc chiến Mít đâu có phán như thế được.
Vả chăng, đây là câu thơ “chạy tội” của “bên thắng nhục”, khi chúng
nhìn cái đất
nước Mít thê lương như hiện nay, công lao không thằng nào
không có
phần đóng góp - thằng nào cũng là 1 thứ tướng về hưu, theo 1 nghĩa ẩn
dụ nào đó
- và, như 1 hệ luận, miệng thằng nào cũng có mùi chiến lợi phẩm, theo
nghĩa của
"chân lý lịch sử", Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng.
Cuốn Bên Thắng Nhục, sở dĩ có
giọng "dửng dưng, khách quan" - theo
như người ta nói, vì Gấu đếch đọc, dù được bạn bè, độc giả e
-mail, e-book,
ngay từ khi ra mắt - của 1 nhà ký giả bậc thầy, truy nguyên,
miệng HD cũng đầy mùi chiến thắng!
Ông ta đã từng
là tà lọt của Hồ Tôn Hiến, cáo mượn oai hùm, nhờ vậy mới có những
thâm cung bí sử chứ?
V/v tâm lý
chạy tội của phe “pro BTN” [Bên Thắng Nhục]
Có thể nói,
hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả những tên bênh HD và cuốn sách
của xừ luỷ,
đều nằm trong “góc độ chạy tội” cả.
Hoặc muốn
kéo bè kéo đảng với bộ lạc Cờ Lăng.
Lấy thí dụ,
anh “cớm VC của cớm VC”, tức “Người chúng ta ở Paris”, đệ tử của PXA,
khi bàn về
BTN, đã phán, sở dĩ cả Miền Nam theo VC là vì Diệm ngu quá, chặt mẹ
chân ngai
vàng của mình - truy đuổi tàn sát hết mọi phe phái - khiến họ bỏ theo
Mặt Trận.
Trong số đó, có ảnh, dù bố của anh thì là giám thị trường Chu Văn An,
công thần
của VNCH, dù anh ta nổi tiếng giỏi toán, học hành có hạng bèn được VNCH
cho đi
du học, theo chính sách, để dành nhân tài cho tương lai nước Mít sau
khi hết
chiến tranh. Có biết đâu, khi anh ta xuống tầu há mồm, là đã cầm theo
chỉ thị Đảng
rồi.
Cái luận điệu
của anh ta nhảm. Vậy mà Gấu nghe rất nhiều người cùng lập luận như vậy!
Bởi vì cứ giả
dụ Diệm không “cắt chân” của Diệm, thì VC Bắc Kít tha cho Miền Nam?
Hồi 1945, VC
Bắc Kít làm thịt sạch mọi đảng phái, coi tất cả đều là Việt Gian hết.
Phải đến
bây giờ, đám Nhất Linh mới được phục hồi tí ti nhân phẩm.
Giả như Diệm
có làm thịt sạch mọi đảng phái, thì ông ta cũng có lý của mình, một
Miền Nam
không lẽ có 12 sứ quân?
Vả chăng mấu chốt của cuộc
chiến, theo Gấu, là Miền Bắc bắt buộc phải giải
phóng Miền Nam vì đói quá, bằng chân lý độc lập, thống nhất, dù có phải
phịa ra
1 vụ đầu độc tù VC tại trại tù Phú Lợi, để thành lập MTGP, dù biết rằng
Mẽo sẽ
đổ quân vô Miền Nam, vì thế. Khi lấy được Miền Nam, thì Cái Ác
Bắc Kít mới
ló mặt ra.
Cô hầu gái
tên Rose, trong Y sĩ đồng quê của Kafka, phán, mi là chủ nhà,
mà không
biết trong nhà của mi có gì. Cái Ác Bắc Kít, nằm dưới những tầng sâu
hoang vắng
của lịch sử bốn ngàn năm Bắc Kít, gặp cơn gió độc là chủ nghĩa CS, sống
dậy, biến
thành Cỏ Cụ Hồ [từ của Phan Khôi], và, Tolstaya, do đó, mới phán, không
phải chủ
nghĩa CS từ trên trời rớt xuống, mà nằm trong tim trong hồn trong não
người dân
Nga, ròi trong xương ròi ra, là vậy.
Tội Ác của VC là từ sau 30
Tháng Tư, và tất cả những ai viết về cuộc
chiến, từ phía thắng trận, vờ sự kiện này, là đều chạy tội cả. Anh tà
lọt sở dĩ
chọn thái độ nhà báo, tôi chỉ trình bày sự kiện, không có ý kiến, là
cực khốn nạn,
là thế.
Chỉ có ta, mới dám vô địa ngục VC, Phật phán như thế, là vì chỉ có Ta,
mới
dám vỗ ngực xưng tên, là… Phật!
Đây là điều
Brodsky nhận ra, khi cho rằng Mỹ mới là Mẹ của Đạo Hạnh, nghe thật
chướng, nhưng
đúng như vậy:
“Trong diễn
từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo
đức của
dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ
của đạo
đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô
đạo tới
đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art
is thus
on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt
là cái
ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the
other hand,
‘especillay political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang
49].”
Coetzee,
trong 1 bài viết về Brodsky
Cái tâm địa,
lấy tờ giấy bạc Bác Hồ ra tính mừng đám cưới 1 người bạn, rồi lại nhét
vô, vì họ
đếch cần, và thay vì đi 1 đường chúc mừng, cầu mong hạnh phúc… nhân dịp
quan trọng nhất đời
của cả hai, thì làm 1 entry cực kỳ khốn nạn, về người chồng, đồng thời
tố
cáo người vợ cũng chẳng ra gì, một tên như thế mà vô... địa ngục
VC ư?
Đâu có phải
tự nhiên mà băng Cờ Lăng vồ lấy cuốn sách? Cơ hội hái ra tiền, y chang
trường hợp
của anh VC/VTH trước đó. Ông số 2, Trùm băng đảng Cờ Lăng, thì đã từng
thuổng thơ của ông số 1, còn VTH
thì chơi luôn cái tít của Koestler, chẳng lẽ những tên như thế cũng đòi
vô địa
ngục như… Phật?
Bồ Tùng
Linh, mở ra cả 1 bộ kỳ thư Liêu Trai, bằng truyện ngắn Thi Thành Hoàng, với cái ý là,
làm việc Ác mà không biết, thì... tha, làm việc Thiện mà có chủ ý
thì
đếch được
thưởng:
Cái lũ khốn kiếp thổi Bên Thắng Nhục, có tên nào là
thiện nhân
đâu, mà
mong được... thưởng?
NQT
Những cuộc
phỏng vấn được phịa ra
Bài viết
này cực thú. Tặng
anh tà lọt Osin.
Đại khái,
tác giả kể, khi còn trẻ, sống bằng nghề phỏng vấn thiên hạ, và rất
nhiều lần
phải phịa ra cuộc phỏng vấn. Một lần, ông đưọc tòa báo giao nhiệm vụ,
dịch từ
tiếng Anh qua tiếng Tây Bán Nhà, 1 bài phỏng vấn Marlon Brando, do
Julie Gilmore
thực hiện. Đếch biết tiếng Anh, nhưng chẳng lẽ nói thiệt, thế là
Vila-Matas bèn
phịa từ A tới Z, và đặt vô miệng Brando đủ thứ tầm bậy [de solennelles
sottises].
Vậy mà chẳng ai biết đồ dởm!
Lần tay
danceur nổi tiếng Noureiev ghé Barcelona, ông cũng có được 1 cái hẹn
tại khách
sạn, sáng hôm sau, nhưng rủi thay, tối hôm đó, tình cờ gặp tại 1 quán
bia ôm, hai tướng đụng độ, do cùng mê 1 bướm, và sáng hôm sau, chẳng lẽ
vác bộ mặt ăn đấm
tới phỏng vấn, thế là lại phịa.
Và vì những quả đấm sưng mặt, lần này, ông để vô
miệng người được phỏng vấn toàn chuyện bất nhã!
Lần phỏng vấn
Anthony Burgess, nhà văn, mới cực thú.
Thấy tác giả Vila-Matas chẳng thèm ghi chép,
mà cũng chẳng mang theo máy ghi âm, Gấu Nhà Văn [Burgess] ngạc nhiên
quá, hỏi,
anh tà lọt Osin thú thực, do không biết tiếng Anh, nên đã viết sẵn 1
bài trả lời
phỏng vấn rồi!
Gấu Nhà Văn
thú quá, cười sảng khoái, bèn đãi anh tà lọt Osin một cuộc rượu ngoại,
và cho
biết, hồi nhỏ, cũng làm y chang anh ta, để kiếm miếng ăn bỏ vô miệng!
Hà, hà!
Địa dư quyết
định số phận của Mít,
hay là
The
Revenge
of Geography:
What the
Map
Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate
Cuộc trả thù
của chữ S.
Bài gãi đúng
chỗ ngứa [vết thương hình chữ S] của Gấu Cà Chớn!
Sự trả thù của
địa dư cũng là sự trả thù của những giống dân Hời, Chiêm... đã bị giống dân Mít làm cỏ trong suốt lịch sử dựng
nước của nó.
Khi hết kẻ
thù thì nó đè thằng em Nam Bộ ra “phán, trảm, làm thịt, đưa đi cải tạo
mút mùa
lệ thuỷ….”
Bài này NYRB
đếch cho đọc free. Tin Văn sẽ scan, và dịch sau, hầu độc giả, thay vì
kiếm đọc Bên
Thắng Nhục!
Remember
it—but how?
Nhớ ư? -
Nhưng làm sao nhớ?
Auschwitz 65
years on
The power of
history
New
thinking
and old wounds around the Auschwitz death camp
Arbeit macht
frei (“Work sets you free”)
Lao động làm
bạn tự do
For the
first time, a majority of Poles see Auschwitz chiefly as a place where
Jews
were killed.
Lần đầu tiên
đa số người Ba Lan coi Auschwitz là nơi người Do Thái bị giết.
Huế Mậu Thân
Thầy Cuốc
không làm sao bỏ được cái trò bịp thiên hạ. Lần Thầy viết về VP thì lôi
Barthes
ra khoe, nào cái biểu đạt, cái bị biểu đạt… VP biết gì mấy cái thứ này,
vì ông
viết truyện ngắn, tiểu thuyết, mắc mớ gì tới ký hiệu học.
Bây giờ, viết về Osin
và mớ bài phỏng vấn, Thầy lôi “khẩu sử, hậu hiện đại, đại tự sự” ra trộ
thiên hạ.
Rõ ràng là bịp, bởi vì với dân pro, hoặc có chút hiểu biết, làm sao mà
mớ tài liệu ở
dưới dạng thô thiển như thế mà lại liên quan tới văn học, tới cái gọi
là viết
[l’écriture, writing].
Và chăng, bản thân Thầy,
làm sao đọc nổi mấy thứ đó?
“Khẩu sử”
cái con khỉ.
Mũi lõ có câu, đừng tin nhà văn, hãy tin câu chuyện kể,
tức cuốn
sách được viết ra, tức 1 cuốn tiểu thuyết.
Tiểu thuyết
liên quan gì đến ba thứ tài liệu là những cuộc phỏng vấn nhảm, bữa nay
nói thế
này, mai nói thế khác, của mấy tên VC học hành thì cũng lớp 1, như Hồ
Tôn Hiến,
hoặc y tá dạo, như Ba Dzũng?
Chúng không
có độ khả tín. Chỉ 1 câu nói, Ngụy chúng mi còn cái gì để mà bàn giao,
mà hết tên
này, đến tên kia, nhận là tác giả, làm sao mà tin cậy vào lũ VC được?
Chúng có
khi nào... nói thật đâu?
Chúng, hoặc
lo tranh công, thời gian đầu, sau 1975, [đọc hồi ký Trần Văn Trà, thí
dụ] và với tình
hình đất nước như hiện nay, lo chạy tội, làm sao…. nói thật?
Cũng thế,
dân Miền Nam, thoát ra được hải ngoại, liệu có ai tin hồi ký của mấy
ông Tướng
VNCH?
Bởi vậy, cái
mà Mít chúng ta cần, là 1 tác phẩm văn học, thứ thiệt, mang tính chính
trị,
đúng như nhà văn Mẽo, da đen, Nobel văn chương, Toni Morrison, phán.
Thầy Cuốc
phán, Bên Thắng Nhục, 1 cuốn
sách hay.
Thầy đâu
phán, giá trị?
Hay, thì “rắm
ai vừa mũi người đó”. Gấu thấy đếch hay – qua tư cách của anh ta mà suy
ra -
thành ra đếch đọc.
Mà hay thế
chó nào được!
Kẻ nào
viết rõ ràng thì có độc giả. Kẻ nào viết hũ nút thì có thợ “còm”.
Hand-made gift from TV Reader
Được mê nhất trong số
những nhà văn Tẩy
Note: TV sẽ đi hai bài
trên, nhân năm sắp tới, 2013, năm nay, là kỷ niệm 100 năm năm sinh của
Camus, 1 trong những ông Thầy của Gấu hồi mới lớn.
Về già, Gấu tự hỏi, giả như không gặp ông hồi đó, và những ông như
Lukacs, Henri Lefebvre, Koestler.. thì số phận Gấu ra sao?
Có thể nói, ông trời già, chủng cho Gấu, đủ thứ thuốc chủng, ngừa
“trùng độc” - chữ này thuổng Da Màu, dịch từ “virus” – có sẵn trong
máu, là Cái Ác Bắc Kít, nhằm ngăn ngừa nó gây họa:
Bò lên rừng phò đao phủ
thủ HPNT!
« Camus paie pour sa
rectitude, sa droiture, la justesse de ses combats, il paie pour son
honnêteté, sa passion pour la vérité. »
Michel Onfray
[Camus trả giá cho tính chính trực, sự cương trực, xác đáng trong những
trận đánh của ông, ông trả giá cho sự thành thực, lương thiện, cho đam
mê sự thực của mình]
Résistant au mirage du
communisme
[Cưỡng lại ảo vọng Cộng Sản]
Sun, Dec 23, 2012
Thư Chào hỏi
K/G ông Cà Chớn,
Một mình ông ( là Bắc Kỳ )
mà dám nói thật, nói thẳng trên văn đàn là tôi đã phục ông rồi, tôi
biết là ông sẽ có nhiều người ghét ông lắm ! Mà ông gan thiệt à nghe !
Tks again
Best Tết to U & Family
NQT
Ghiền
[History and memory] are
step-siblings- and thus they hate one another while sharing just enough
in common to be inseparable. Moreover, they are constrained to squabble
over a heritage they can neither abandon nor divide.
Memory is younger and more attractive, much more disposed to seduce and
be seduced-and therefore she makes many more friends. History is the
older sibling: somewhat gaunt, plain, and serious, disposed to retreat
rather than engage in idle chitchat. And therefore she is a political
wallflower-a book left on the shelf...
To allow memory to replace history is dangerous. Whereas history, of
necessity, takes the form of a record, endlessly rewritten and retested
against old and new evidence, memory is keyed to public, non-scholarly
purposes: a theme park, a memorial, a museum, a building, a television
program, an event, a day, a flag. Such mnemonic manifestations of the
past are of necessity partial, brief, selective; those who arrange them
are constrained sooner or later to tell partial truths or outright
lies-sometimes with the best of intentions, sometimes not. In either
event, they cannot substitute for history. Thus, the exhibition at the
Holocaust Memorial Museum in Washington does not record or serve
history. It is selectively appropriated memory, applied to a laudable
public purpose. We may approve in the abstract, but we should not
delude ourselves as to the outcome. Without history, memory is open to
abuse.
……
One way to mark the
difference between history and memory is to notice that there is no
verb for history. You know, if someone says, "I'm making history," they
mean something very special and usually ludicrous. To "historicize" is
a technical term, conventionally restricted to scholarly exchange.
By contrast, "I remember" and "I recall" are perfectly conventional
things to say. This points to a real difference: memory exists in the
first person. If there isn't a person, there isn't a memory. Whereas
history exists above all in the second or third person.
I can talk about your history, but I can only talk about your memory in
a very limited and usually offensive or absurd sense. And I can talk
about their history, but I can't really talk about their memory, unless
I know them extraordinarily well for some reason ... Because memory is
in the first person, it can be constantly revised, and it becomes more
personal with time. Whereas history, at least in principle, takes the
other direction: as it is revised, it becomes ever more open to the
perspective of third parties and thereby potentially universal. A
historian can start with concerns which are immediate and personal-they
perhaps have to be-and then work away from them. Sublimating his
starting perspective, he comes up with something altogether different.
Francine Prose: Last
Testaments (điểm The Memory Chalet, của Tony Judt (The
Penguin Press) và Thinking the Twentieth Century của Timothy
Snyder (The Penguin Press)
Khi mua số báo Ghiền, trên, Gấu chỉ muốn nhớ lại
một thời ghiền của mình. Đâu ngờ, thật tuyệt. Bài điểm sách với cái tít
thật "hay" Những Di Chúc Chót,
thì lại là để nhìn lại thế kỷ vừa qua, vai trò của hồi ức và lịch sử,
đúng thứ Gấu đang cần, để viết bên lề cuốn Bên Thắng Nhục!
Nhưng cái đoản văn
dưới đây, về Nhậu, mới thần sầu, đúng thứ Gấu cần, thật cần, làm
quà tặng bạn nhậu
NQL: “Những bức ảnh dưới
đây cho chúng ta nhìn lại Chiến tranh Việt nam từ lúc Mỹ leo thang can
thiệp đầu những năm 1960 đến lúc chính quyền Sài Gòn cũ sụp đổ”.
Denverpost chỉ giới thiệu một câu vậy thôi nhưng xem phóng sự ảnh dưới
đây ta thấy cả cuộc chiến tranh Việt Nam đã được dựng lại rất sinh động
và xác thực, thật tuyệt vời! Cảm ơn KTS Võ Thanh Lân đã gửi cho đường
link và Bs Nguyễn Hải Phong đã dịch phóng sự ảnh này. (Đọc
tiếp…)
Những bức hình dưới đây,
thì cả thế giới đều biết từ khuya rồi, tính sinh động, xác thực thì
cũng thế, nhưng cái xác thực, trước và sau những tấm hình, thì lại đếch
có.
Xác thực thứ nhất, chính
VC nhử Mẽo vô Nam Việt Nam, để có cớ xâm lăng, bằng cú ngụy tạo đầu độc
tù Phú Lợi.
Xác thực thứ nhì, 3 triệu người xác thực chết, để tạo ra xác thực là 1
nước VC bây giờ, muốn bắt ai thì bắt.
Khoe khoang thành quả 30
Tháng Tư hoài, sao không khoe nhục nhã?
Có 1 cái blog mà phải khóa lại, sao không khoe? (1)
Commemoration is always
the adaptation of memory to the needs of today.
Tsvetan Todorov
Tưởng nhớ, hoài niệm… luôn
luôn là sự sửa lại hồi ức cho hợp với nhu cầu hiện tại.
Cynthia Ozick trích dẫn,
trong bài viết “Who owns Anne Frank?" (1)
V/v loạt bài
viết dài dài bên lề "Bên Thắng Nhục", có 1 chi tiết cần hiệu đính: Gấu
Cà Chớn mới
biết đây thôi, anh tà lọt O Sin là Bắc Kít chính cống Bà Lang Trọc.
Trước, Gấu
nghĩ là anh này, đệ tử của Hồ Tôn Hiến, Nam Kít!
Sorry. NQT
Trong bài giới
thiệu, introduction, cho cuốn Second
Read, James Marcus, trích dẫn nhận xét của Nabokov, kể cũng lạ,
curious enough, người ta không thể đọc 1cuốn sách mà chỉ có thể đọc lại
nó “one
cannot read a book: one can only reread it”.
Tất nhiên
Nabokov nói về giả tưởng, về 1 cuốn tiểu thuyết. Nhưng nhận xét của ông
áp dụng
OK, cho báo chí, cho 1 tác phẩm phi-giả tưởng.
Tất nhiên cuốn
của Osin, khó mà “đọc lại” được!
Và điều này
liên quan đến câu phán của Đức Phật, đức hạnh ít nhất thì cũng
như... Ta,
thì mới dám bò vô địa ngục VC!
Vấn đề cuộc chiến Việt Nam, rất cần 1 tên VC chính hiệu, viết, theo cái
nghĩa,
vẫn của Phật, kẻ buộc chuông mới có thể cởi chuông được. Sở dĩ cuốn Nỗi Buồn
Chiến Tranh được ca ngợi, là còn hàm ý đó. Cái văn rất cần,
cái đạo hạnh lại
càng cần hơn.
TV sẽ giới thiệu 1 số bài viết liên quan tới "vấn nạn" Bên Thắng Nhục: Mỹ
mới là mẹ của đạo hạnh [Brodsky], mọi nghệ thuật thứ thiệt là chính trị
[Tout art véritable est politique. Toni Morrison].
Thầy Cuốc
không
làm sao bỏ được cái trò bịp thiên hạ. Lần Thầy viết về VP thì lôi
Barthes ra
khoe, nào cái biểu đạt, cái bị biểu đạt… VP biết gì mấy cái thứ này, vì
ông viết
truyện ngắn, tiểu thuyết, mắc mớ gì tới ký hiệu học. Bây giờ, viết về
Osin và mớ
bài phỏng vấn, Thầy lôi “khẩu sử, hậu hiện đại, lẩn đại tự sự” ra trộ
thiên hạ.
Rõ ràng là bịp, với dân pro, hoặc có chút hiểu biết, làm sao mà mớ tài
liệu ở
dưới dạng thô thiển như thế mà lại liên quan tới văn học, tới cái gọi
là viết [‘l’écriture,
writing]. “Khẩu sử” cái con khỉ. Mũi lõ có câu, đừng tin nhà văn, hãy
tin câu
chuyện kể, tức cuốn sách được viết ra, tức 1 cuốn tiểu thuyết.
Tiểu thuyết liên
quan gì đến ba thứ tài liệu là những cuộc phỏng vấn nhảm, bữa nay nói
thế này,
mai nói thế khác, của mấy tên VC học hành thì cũng lớp 1 như Hồ Tôn
Hiến? Chúng
không có độ khả tín. Chỉ 1 câu nói, Ngụy chúng mi còn cái gì để mà bàn
giao, mà
hết tên này, đến đến kia, nhận là tác giả, làm sao mà tin cậy vào lủ VC
được?
Chúng co khi nào nói thật đâu?
Bởi vậy, Mít
chúng ta cần, là 1 tác phẩm văn học, thứ thiệt, mang tính chính trị,
đúng như
nhà văn Mẽo, da đen, Nobel văn chương, Toni Morrison phán.
Thầy Cuốc phán, Bên Thắng Nhục,
1
cuốn sách hay.
Thầy đâu phán,
giá trị.
Hay thì “rắm
ai vừa mũi người đó”. Gấu thấy đếch hay – qua tư cách của anh ta mà suy
ra - thành
ra đếch đọc.
How History
Works
On a May day
in 1618, in a fight
over
religion, two imperial regents
and their
secretary were thrown out
of a window
in Prague. All three
landed in a
dung heap
and
survived. Still, the act led
to a bloody
thirty-year war.
Looking on
the bright side,
the incident
gave birth
to a grand
word, "defenestration."
Also, we
learned that dung heaps
have their
uses.
Inge Israel: Beckett Soundings
Lịch sử làm
việc ra làm sao
Bài thơ trên
tặng anh tà lọt Ôsin, người nắm được sự thực lịch sử Mít, và gửi
theo... Sơn Nam, người đã từng chứng kiến/sống
sót lịch sử Mít, qua cú Diệm đầu độc tù Phú Lợi, từ đó đẻ ra cuộc chiến
Mít.
Vào 1 ngày
Tháng Năm năm 1618,
trong 1 cuộc cãi lộn về tôn giáo, hai ông chức sắc hoàng
gia và người thư ký,
bị đẩy ra khỏi cửa sổ, ở Prague.
Cả ba rớt trúng 1 đống
phân, và thoát chết.
Tuy nhiên cú đó gây ra cuộc chiến đẫm máu kéo dài 30 năm.
Nhìn mặt
sáng, biến cố trên đẻ ra từ “ném ra khỏi cửa sổ”.
Và,
chúng ta học được 1 điều, phân người thật được việc.
Trong những
người, năm 1955-56 ở Sài Gòn, không thấy được điều này, may thay, có
ông Ngô
Đình Diệm. Với tầm nhìn bảo thủ của một ông quan xa lạ với thế kỉ XX
(với cả xu
hướng đổi mới của Giáo hội Công giáo dẫn tới Công đồng Vatican II), xa
lạ với
xã hội Việt Nam, ông tổng thống của “đệ nhất cộng hòa” đã tự cưa chân
ngai vàng
của mình, đàn áp những người kháng chiến, đàn áp cả những giáo hữu Nam
Bộ thuộc
xu hướng tự do… Ngọn cờ của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sở dĩ đã tập hợp được khá rộng rãi các
thành
phần xã hội ở miền Nam, liên kết được với phong trào Phật tử, khơi dậy
được
phong trào đô thị… có thể nói chính là nhờ chính sách ngu muội của các
chính
quyền Sài Gòn hơn là nhờ sự sáng suốt của Đảng cộng sản. (1)
Cái tội ác của
VC, là sau 1975, chứ không phải trước đó. Cứ giả như Diệm khôn hơn,
không “tự cưa
chân” thì VC Miền Bắc có tha cho thằng em ruột miệt vườn Nam Kít không?
Đám Bắc Kít di
cư nằm vùng bỏ chạy cuộc Mít này, khôn tổ cha, bây giờ tính chạy tội,
đổ tội hết
cho Miền Nam.
Kháng chiến,
theo như hiệp định Genève, phải tập kết ra Bắc, đâu còn nữa mà đàn áp?
Diệm là 1 tên
thầy tu, sợ giết người, nên bắt được tên VC kháng chiến đếch chịu ra
Bắc tập kết,
hoặc được lệnh ở lại, là thu gom giam ở Phú Lợi.
Nếu Diệm làm như Nam
Hàn [đọc
bài viết của Đỗ Kh, trên talawas thì biết] thu gom lại hết, rồi kín đáo
làm thịt
hết, là đếch xẩy cuộc chiến!
Hồi xẩy ra
cuộc chiến với Nhựt Lùn, Mẽo cũng làm y chang, quây hết đám Nhựt Lùn ở
trong nước
Mẽo, đưa vô 1 chỗ, để tránh hậu họa. Cách của Nam Hàn là hữu hiệu nhất.
Mãi gần
đây, nhà nước mới công bố sự thực lịch sử này, và xin lỗi nhân dân Bắc
Hàn.
Tên “Người của
chúng ta ở Paris” này, vì bỏ chạy, nên chẳng biết tí chó nào về Miền
Nam. Thời
Diệm, VC, đám nằm vùng, không làm sao cục cựa được, cứ 1 tên tỉnh uỷ
nào mọc lên
là bị mật vụ Diệm làm thịt tên đó. Chỉ đến khi phịa ra cú đầu độc tù
Phú Lợi,
thì mới có cớ thành lập MTGP, và rồi Diệm ngu quá, làm mất lòng Mẽo [tà
lọt mà
chủ biểu làm không chịu làm là nó thịt, kinh nghiệm này Gấu là bồi UPI
rất rành],
bị đám tướng lãnh làm thịt, thế là rồi đời Miền Nam.
Gấu đã nói
nhiều lần rồi, giấc mơ “giải phóng, thống nhất” là giấc mơ đẹp nhất của
giống Mít.
Mít được Chúa cho ra đời, là để thực hiện giấc mơ đó. Chỉ dến sau 30
Tháng Tư
1975, thì Con Quỉ Bắc Kít mới xuất hiện, biến giấc mơ thành ác mộng, và
thực hiện
nó.
MTGP liên kết với Phật Tử?
Mấy ông Phật Tử liên kết này, sự thực là VC. Sự thực rõ như ban ngày mà
anh cớm chìm của VC làm như không biết.
Bản thân anh ta, là cớm VC, rất rành điều này.
Mẽo có
câu, bất
cứ 1 cái xác chết Mít nào, thì đều là 1 tên VC.
Câu này đúng, cả khi chưa chết!
Tại sao Bên
Thắng Nhục thất bại
Nhảm, gây bực mình, lạc
đường [đạo Đào Hiếu].
Fatal
Vision
A new book
lays bare the grisly logic of mass killing in Vietnam
Jeff Stein
“Nghệ Thuật
của Bóng Đen”: Phim này [Zero Dark Thirty] đụng vô [deal] nhận xét của
Jean
Améry, sống sót Lò Thiêu,
sau tự tử:
Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was
tortured, stays tortured. (1)
Tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là:
Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc
ngược, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Nó còn
liên quan
đến thái độ đạo đức của bất cứ kẻ nào dám đi vô địa ngục VC, thí
dụ như
tay tà lọt Osin và cuốn "Bến Thắng Nhục" của anh ta.
Taking on
terror
TV sẽ
dịch bài
trả lời phỏng vấn trên The Economist,
và tóm tắt bài trên Time.
Gấu chưa đọc
cuốn trên của Greene.
Còn cuốn “nhìn lại”, tính đọc, thay vì đọc "Bên Thắng Nhục".
Trên Blog của tay VC Đông B, coi BTN là 1 thứ reportage gì gì đó, Gấu
sợ không
phải.
Đây là 1 thứ buôn chuyện, tức gồm toàn râu ria về cuộc
chiến
Mít.
Lần trước, hải
ngoại xúm nhau tìm đọc Đêm Giữa Ban
Ngày [cái tít chôm của Koestler], là để
coi VC
làm thịt bà hoàng hậu của Vua VC Hồ ra sao.
Lần này cũng
thế, họ muốn biết chuyện phòng the của Lê Duẩn, thí dụ!
Phải 1 tay
như.... Đức Phật cơ: Phi ta ra, đứa nào dám vô Địa Ngục VC?
The Paris Review:
Ông có cho rằng, tiểu thuyết có thể làm được một số điều mà báo
chí không thể làm được?
Garcia Marquez:
Chẳng có gì. Tôi chẳng nghĩ có sự khác biệt giữa hai thể loại này.
Nguyên liệu (sources) như nhau. Chất liệu (material) y hệt. Tài nguyên,
ngôn
ngữ cũng y chang. Nhật Ký Năm Dịch
(The Journal of the Plague Year) của Daniel
de Foe là một cuốn tiểu thuyết lớn, và Hiroshima là một tác phẩm lớn
thuộc về
báo chí.
-Ký giả và tiểu thuyết
gia liệu có trách nhiệm khác nhau,
khi gia giảm (cân bằng: balancing) mức độ "sự thực chống lại giả
tưởng"?
Trong ngành báo, chỉ cần một sự kiện bị làm thành dởm (false), bất
cứ vì lý do gì, là toàn bộ tác phẩm kể như tiêu. Ngược lại, trong tiểu
thuyết,
chỉ một sự kiện thực, đủ bảo đảm tính xác thực (legitimacy) cho toàn bộ
tác
phẩm. Đó là sự khác biệt độc nhất, và nó hệ tại ở sự dấn mình
(commitment) của
người viết. Một tiểu thuyết gia tha hồ bầy, bất cứ trò gì mà anh ta
muốn, chừng
nào độc giả còn tin. (1)
Trong cuốn Gấu mới tậu, Second Read [Đọc lần thứ nhì], có
nhắc tới
Garcia Marquez và trường hợp ông viết Câu
chuyện 1 người thuỷ thủ đắm
tầu. Chúng
liên quan tới Bên Thắng Nhục,
và cái gọi là sự thực lịch sử cuộc chiến Mít mà
anh tà lọt Osin nghĩ là anh ta nắm được.
Trận đánh
sau cùng của nhà độc tài Fidel Castro (1)
[Người Nữu Ước,
July 31, 2006]
Hoá ra với
ông thần này, cũng có cả một núi chuyện tiếu lâm.
Trước đây, là về sự bất tử.
Một lần, ông
được Bác Hồ biếu, một Cụ Rùa ở Hồ Gươm.
Đệ tử ghé
tai thì thầm, tuổi thọ của rùa, cao lắm chừng vài trăm năm.
Ông bèn lắc
đầu nói:
-Nhận, đến
lúc nó... đi, là mình buồn lắm, vì lỡ quấn quít với nó rồi!
Bây giờ, là về
Người
đi, ừ nhỉ,
Người đi thực!
Xác Người bầy
ra, đệ tử sắp hàng viếng thăm.
Đầu tiên là
Ngài Bộ Trưởng Ngoại Giao.
Ngài cúi đầu hơi bị lâu, ông đứng kế chờ hoài, khều
nhẹ:
-Mi làm chi
kỳ rứa? Hắn chết rồi mà?
-Thì tao biết
rồi, nhưng làm sao biểu cho hắn ta biết?
Nhân đọc bài
viết của Sến: Ngoại Giao Tháp Rùa (2)
*
Hồi mới lớn, hung hăng con
bọ xít, Gấu dám chê Đức Phật kiêu ngạo quá, hơn cả Gấu Cà
Chớn, ấy
là vì Phật nói, phi ta ra ai dám vô Địa Ngục.
Phải đến già,
sắp đi xa, thì mới ngộ, đây là 1 câu nói khiêm nhường, để răn những tên
tâm địa
thì thật là khốn nạn, vậy mà bày đặt đi vô… Địa
Ngục!
Bởi là vì làm cái
công chuyện hàn gắn nỗi đau, nỗi nhục của cuộc chiến Mít, xóa đi hận
thù, sám hối về
cái chuyện
bao nhiêu mạng người chết uổng, chỉ để có được 1 anh chăn trâu học lớp
1 lên làm
thủ tướng, thí dụ… phải là 1 con người
thật là khiêm nhường, chưa dám nói, đức độ như.... Đức Phật.
Đâu có dễ!
Một kẻ lấy tờ
giấy bạc 50 ngàn Cụ Hồ ra tính mừng đám cưới, sau cùng, bèn cất lại vô
bóp, và, bèn
đi 1 đường “văn chương” thật là xỏ lá, để mừng đám cưới của 1 người
quen, 1 kẻ
như thế mà đòi hàn gắn vết thương chiến tranh Mít ư?
Đâu phải
"tự nhiên" mà băng Cờ Lăng in cuốn sách?
Một cơ hội bằng
vàng hốt đô la, sao bỏ?
Một cuốn sách
với 1 tấm lòng như thế - hàn gắn vết thương chiến tranh - phải giống
như cuốn
kinh cứu khổ cứu nạn, in thí, cho thí dân Mít, mới đúng chứ?
Trước
đây, Đêm Giữa Ban Ngày vớ
bẫm, bây giờ
“hên” quá, đúng Tết, trúng quả Bên
Thắng Nhục!
Thử hỏi, suốt
thời gian dài sau 30 Tháng Tư, bỏ chạy sớm nhất, băng Cờ Lăng làm được
việc gì
gắn mác "đi vô địa ngục"?
Viết bên lề
"Bên Thắng Nhục"
«Tôi chưa bao giờ quyết liệt
chống thần chết như năm tháng sống ở
trại tập trung. Để chống chọi với cái chết, người ta không cần nguyên
vẹn một
cuộc đời mà chỉ cần một cuộc đời dang dở của mình mà thôi». (1)
Tuyệt!
Tặng anh tà lọt Osin câu trên,
để thấy rằng, không dễ viết về đám
thua cuộc - như là 1 đối trọng, contre-poids - của lũ VC, trong có anh
ta, dù là tà lọt
*
Trong Quê
Hương Tưởng Tượng, Rushdie
trích câu nói của Luis Bunuel, một nhà làm phim: Tôi sẽ hy sinh thân
mình cho
kẻ đi tìm sự thực. Nhưng tôi sẽ giết, một cách thích thú, avec joie, kẻ
nào
nghĩ rằng anh ta đã bắt được sự thực. Theo ông, giả tưởng (văn chương)
bắt đầu
cùng với sự truy tìm Graal, vượt cả chính Graal, với sự chấp nhận, thực
tại và
đạo đức không phải là những gì có đó (données), nhưng chỉ là những tạo
dựng bất
toàn của con người (des constructions humaines imparfaites). Đây là
điều mà J.
F. Lyotard, vào năm 1979, gọi là "Điều kiện hậu hiện đại". Cuộc thách
đố của văn chương, là chấp nhận đây là khởi đầu, để rồi tìm cách thực
hiện
những đòi hỏi tinh thần không đổi dời của con người. Ông viết tiếp: Tuy
hiển
nhiên, nhưng cũng cần nhấn mạnh, trong những xứ sở đang đòi hỏi tự do,
nghệ
thuật luôn luôn bị kìm kẹp một cách đầy hận thù, như tôn giáo. Cuộc
cách mạng ở
Tiệp-khắc, đã bắt đầu từ trong những vở kịch, và được dẫn dắt bởi một
nhà văn;
một bằng chứng cho thấy những đòi hỏi tinh thần, chứ không phải vật
chất, của
con người, đã tống xuất những ông chính uỷ nhân dân ra khỏi quyền lực.
Nếu tôn
giáo là một giải đáp, nếu ý thức hệ chính trị là một giải đáp, văn
chương sẽ là
một cuộc điều tra; một nền văn chương được coi là lớn lao, vĩ đại khi
nó đưa ra
những câu hỏi lạ thường, mở ra những cánh cửa tinh thần mới mẻ cho
chúng ta. (2)
Anh tà lọt
Osin ngây thơ cụ, cứ nghĩ là ta nắm được
chân lý cuộc chiến Mít, tội thế.
Cứ giả như có được chân lý cuộc chiến Mít, thì
như Rushdie viết, nó sẽ được tìm ra ở trong giả tưởng, trong những cuốn
tiểu
thuyết, những bài thơ, hay như Marlow, trong Trái Tim của Bóng Đen, từ Phi Châu
trở
về lại Âu Châu phán:
"It was not
my strength that wanted nursing,"
Marlow says, "it was my imagination that wanted soothing": Không phải
cái sức mạnh kẻ thù nào cũng đánh thắng của ta cần vỗ béo, nhưng mà là
trí tưởng
tượng của ta cần sự thực.
Sự thực của
trí tưởng tượng, đó là cái mà Mít đang
cần.
Coetzee khi
đọc Tòa Lâu Đài ở trong Rừng của
Mailer, viết về Hitler, cũng phán như thế:
Một khi mà những sử gia – hay khốn nạn
hơn, 1 anh tà lọt, ký giả hạng bét, tâm địa cực kỳ khốn nạn – như cách
anh ta xử sự
trong vụ HA lấy chồng - chịu thua, thì tới lượt nhà văn nhập cuộc.
*
Coetzee đọc Lâu đài trong Rừng của
Mailer, phán, một khi mà lịch sử chịu thua, đếch kiếm ra
“chân lý” về Cái Ác Hitler, thì lúc đó, nhà văn bước vô, để ta “phịa”
ra cho!
*
Portrait of
the Monster as a Young Artist
By J.M.
Coetzee
The Castle
in the Forest
by Norman
Mailer
Random
House, 477 pp., $27.95
In his dual
biography of the two bloodiest butchers and worst moral monsters of the
twentieth century, Stalin and Hitler (but is Mao not up there with
them? and
does Pol Pot not get a look-in?), Alan Bullock reprints side by side
class
photographs of young Iosif and young Adolf taken in 1889 and 1899
respectively,
in other words, when each was about ten.[*] Peering at the two faces,
one tries
to descry some quiddity, some dark halo, some sly intimation of the
horrors to
come; but the photographs are old, definition is poor, one cannot be
sure, and
besides, a camera is not a divining tool.
Trong cuốn
tiểu sử viết sóng đôi, hai tay đồ tể sắt [hay sát] máu nhất, hai con
quỉ khốn
kiếp nhất, the worst moral monsters, của thế kỷ 20, Stalin và Hitler
[nhưng tại
sao lại bỏ sót Mao, chẳng lẽ này chưa xứng ngồi chung chiếu với hai vị
trên, và
liệu có nên ghé mắt tới me-xừ Pon Pot?] Alan Bullock cho in kế bên
nhau, những
bức hình hồi còn là học trò của hai chú bé Iosif và Adolf, niên học
1889 và
1899, tức là khi hai cháu mới 10 tuổi.
Nhìn hai
khuôn mặt, ta có thể sẽ nhăn mặt, đôi mắt có thể “chợt” u buồn, khi
nghĩ tới những
tai họa sau đó mà hai nhân vật “thứ ba” [Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học
trò]
giáng xuống nhân loại, nhưng những bức hình quá xưa, quá cũ, thành thử
khó xét
đoán, và ngoài ra, máy chụp hình không phải là “mu rùa”, khó… bói lắm!
Bức hình học
trò, cho dù sáng sủa cách mấy thật khó mà "mu rùa". Những đứa trẻ như
trong hình,
số phận sẽ ra sao? Thằng nhóc nào sẽ đi xa nhất? Nhưng, với hai ông
thần này,
là một câu hỏi nhức nhối: Chẳng lẽ một số người trong chúng ta là quỉ,
ngay từ
khi lọt lòng mẹ? Nếu không phải như thế, thì vào lúc nào? Và như thế
nào, bằng
cách nào, quỉ... đi vô chúng ta?
Hay là, đặt
câu hỏi dưới một dạng “dễ thương” hơn, ít chất siêu hình hơn, tại sao
trong số
chúng ta, có những con người chẳng hề bao giờ phải cố nén cái ác lại,
cố đừng để
cho con lợn lòng xổ chuồng, cố vận dụng tới cái gọi là lương tâm đạo
đức, khi
tính “làm thịt” ai đó?
*
Với hai ông
thần này, là một câu hỏi nhức nhối: Chẳng lẽ một số người trong chúng
ta là quỉ,
ngay từ khi lọt lòng mẹ? Nếu không phải như thế, thì vào lúc nào? Và
như thế
nào, bằng cách nào, quỉ... đi vô chúng
ta?
Trong trường
hợp Stalin, và Hitler, liệu lỗi lầm là do cách nuôi nấng dậy dỗ, “một
trăm năm
trồng người”, tức hệ thống giáo dục tại Georgia và Austria cuối thế kỷ
19?
Liệu hai
cháu đã phát triển được một tí lương tâm, nhưng sau đó, làm mất?
Liệu khi chụp
hình, hai cháu đều là "cháu ngoan Bác Hồ, học tập tốt, lao động tốt,
bình
thường, ngoan ngoãn", như mọi đứa trẻ khác, và sau đó, biến thành quỉ
là
do những cuốn sách chúng đọc, hay bạn bè chúng quen, hay do đòi hỏi,
sức ép của
“thời đại”, theo kiểu thời thế tạo ra quỉ, và trong lá số tử vi của hai
cháu,
có đoạn, hai thằng bé này sinh ra để làm Đồ Tể Đức, Đồ Tể Nga?
Nhưng, giả
như hai cháu, vì lý do nào đó, không kịp ra đời để đóng vai của họ,
liệu Thượng
Đế có kiếm ra hai tay khác đóng thế?
Đây là những
câu hỏi mà mấy ông viết tiểu sử rất ngần ngại, khi phải đối đầu. Có
những giới
hạn chẳng bao giờ chúng ta biết được, về hai chú nhóc Iosif, hay Adolf,
sống ra
sao, môi trường, bạn bè, ảnh hưởng sớm sủa nào. Giữa đầu vào, bản ghi
nhận sự
kiện, và đầu ra, cả cuộc đời nội tại một người, là một hố sâu, mà những
nhà sử
học, những tiểu sử gia hiểu rất rõ, đừng nên té xuống đó.
Chính vì thế,
nếu chúng ta muốn biết chuyện gì đã xẩy ra với linh hồn của hai cháu
nói trên,
chúng ta phải cầu cứu tới mấy ông nhà văn nhà thơ, tới cái thứ sự thực
mà họ
dâng hiến, vốn không giống như của những sử gia [Tiểu sử gia thì cũng
là một sử
gia, của một cá nhân].
Đó là khi
Mailer bước vô bức tranh, ở cái chỗ những sử gia, tiểu sử gia ngưng
lại. (1)
*
Đám thổi đu
đủ anh tà lọt Osin nức nở với cái "xì tai" báo chí, với cách viết bình
thản,
không hận thù, với cách gọi ông Tướng VNCH, thay vì tên tướng Ngụy, tên
tội đồ…
chúng không làm sao hiểu là có 1 sự cực khác
biệt giữa văn chương và báo chí.
Một khi anh sử dụng ngôn ngữ báo
chí, để tìm “sự thực”, là… vứt đi!
Trong bài
Nhiếp ảnh viên mù, The Blind
Photographer, viết về cuốn Thời của Anh Hùng, The
Time of the Hero, của Vargas Llosa, Alberto Manguel, trích dẫn
Vargas Llosa,
khi trả lời phỏng vấn, vào năm 1989.
Sự khác biệt
giữa giả tưởng và 1 bài báo, hay 1 cuốn sách lịch sử là gì? Tất cả đều
được cấu
tạo bằng những từ ngữ, đúng không? Chẳng phải chúng giam cầm vào trong
thời
gian giả tạo của câu chuyện kể, cái dòng thác vô tận của thời gian
thực?
Câu trả
lời của tôi [Vargas Llosa] là, chúng là hai hệ thống đối nghịch, cùng
tiếp cận thực tại.
Trong khi tiểu thuyết nổi loạn và chuyển hóa đời sống, mấy thứ cứt đái
kia
là nô lệ của cuộc đời:
While the novel rebels and transgresses life, those
other genres can only be its slave.
Jean Améry:
Par-delà le crime et le châtiment
HERTA
MÜLLER'S HUNGRY EYE
This novel
first appeared the year Herta Müller won the Nobel prize. The qualities
which
bagged her that gong—poetic concision and clear-eyed honesty—are here
too,
taking us inside the mind of Leopold Auberg, her narrator, an ethnic
German
from Romania transported in 1945 to a Soviet labour camp. It's a
landscape of
slag and gravel, digging and deprivation, always accompanied by the
"hunger angel" of the title: "everything I did was hungry,"
Leopold says. "Everything matched the magnitude of my hunger in length,
width, height and colour."
The book is
full of touches like that—sensations taking on substance and form,
inert
objects becoming animated and insidious. The wind can listen, and
cement
"flies and crawls and sticks". Although Leopold is one of many in the
camp, we're always with a real individual and in a real place. Müller's
great
strength is concrete detail. At night the bed bugs cluster where
Leopold's
dribble soaks into the pillow.
The toil is
unremitting, but Müller gives us light as well as dark. Leopold sees
beauty in
the pink streaks in a slag heap and in carpet beaters glimpsed on a
drive to a
brick factory. Most of all he finds consolation in memories of the
ordinariness
of home: "sometimes things acquire a tenderness, a monstrous tenderness
we
don't expect from them". It's a line that could apply to Müller's
prose,
always exactingly grounded by the practicalities of survival—managing a
bread ration,
lugging cinder blocks, or making a tasteless weed palatable. This is
privation
transmuted into poetry.
Cái tít “Mắt Đói” trên net
không thi vị bằng Sự dịu dàng Quỉ, Montrous
Tenderness, trên giấy, theo Gấu.
Bài điểm ngắn, nhưng thật tuyệt. Đám “bựa” thổi Bên Thắng Nhục và anh tà lọt
Osin, Gấu tin rằng không tên nào được biết sự dịu dàng quỉ của cái đói
như thế
nào khi ở trong tù VC.
Bèn dịch bài
viết ngắn, tiện thể viết về "Everything I did was hungry", của
Gấu Cà
Chớn, những ngày ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa.
Norman
Davies
Bài này cũng tuyệt.
Điểm Bức Bàn Sắt của Anne
Applebaum
TV tính đọc song song với
sự kiện "Bên Thắng Nhục" của anh tà lọt Osin,
để tìm cách giải ra thai đố, vào thời điểm nào Bắc Bộ Phủ quyết định
"giải pháp chót", "the final solution", đối với Miền Nam?
Sau 30 Tháng
Tư, hay là trước?
Và trước, là vào lúc nào?
Bởi vì bạn phải nhớ rằng, cuộc chiến Mít vừa qua, nó có cùng với cái
giống Mít.
Đẻ ra 1 phát, là đã phải chống cự với cái đói, rét, thiên nhiên khắc
nghiệt, và
anh Tẫu. Thành ra cứ phải mở mãi ra về phía Nam. Giấc mơ thống nhất, có
cùng với
giống Mít, là vậy. Giấc mơ đẹp nhất. Rỏ máu ngón tay viết đơn tình
nguyện, đốt
sạch Trường Sơn, đánh 100 năm cũng phải…
Và nếu như
thế thì, khi nào thì Bắc Bộ Phủ nảy ra "ác mơ" làm thịt thằng em
Nam Bộ, quyết định
tiến hành chiến dịch "Giải Pháp Chót"?
Qui
sait de quoi hier sera
fait ?
Ai mà biết được,
"ngày hôm qua" sẽ được làm ra
như thế nào, bằng cái gì?
Milosz: Cầm
Tưởng
Trên báo Partisan Review số
Mùa Hạ 2000, Adam Michnik, khi viết về Jan Kott, một nhà văn
Ba lan đào thoát qua Tây phương, đã nhắc tới bài “Về Nọc Độc” (On
Venom, 1982),
qua đó, Kott ghi nhận:
“Rắn
cắn làm hư cái đầu. Bên trong cái vòng
tròn huyền hoặc, cái đầu luẩn quẩn trong một thế giới ảo. Cái đầu tin
vào những
lời dối trá, và không thể phân biệt thực với ảo.”
(A snake bite disables the
mind. Inside a
magic circle, the mind moves in a fictitious world, believes in lies,
and
cannot distinguish reality from illusion).
Ông
cho rằng, những mắc míu của tầng lớp trí
thức với chủ nghĩa cộng sản, gia nhập rồi rời bỏ – trong chán chường và
vỡ mộng:
“thời điểm vỡ mộng có lẽ là quan trọng nhất” (“the moment of
disullusion
is
perhaps the most important”)
*
Trong bài viết Poland:
Malice, Death, Survival có nhắc tới ông, và câu
nói của ông với người
điểm sách,
[tức Norman Davies, tác giả bài viết “Poland…” trên NYRB. Bài này quá
hay, tưởng là cho đọc free, nhưng không, TV sẽ scan và post vì muốn độc
giả đọc
song song với Bên Thắng Nhục]:
Một ngòi viết xuất sắc và
1 tính tình cà chớn là
1 kết hợp rất nguy hiểm, a brilliant pen and a bad character make a
dangerous
combination.
Nhưng nhận định sau đây
của ông, về điều ông gọi là tính ích kỷ, tự cao tự đại về đau đớn, the
egotism of
suffering, mới tuyệt:
Đau đớn
luôn
luôn ích kỷ, bởi là vì chúng ta kinh nghiệm nỗi đau của riêng chúng ta
và của
gia đình hay bạn bè chúng ta một cách ích kỷ… Chúng ta cảm nỗi đau này
cùng với
những người khác cùng 1 phần với quê cha tinh thần của chúng ta. Và khi
quê hương
của chúng ta, bị làm thịt, và rồi – ôm nỗi đau của riêng chúng ta -
chúng ta đếch
thèm biết đến bất hạnh của kẻ khác.
Pain is
always egotistic, for we experience our own suffering and that of our
family or
our friends egotistically.... We feel this pain together with the
others who
are part of our spiritual fatherland.
Norman
Davies
Bài này cũng tuyệt.
Điểm Bức Bàn Sắt của Anne
Applebaum
TV tính đọc song song với
sự kiện "Bên Thắng Nhục" của anh tà lọt Osin,
để tìm cách giải ra thai đố, vào thời điểm nào Bắc Bộ Phủ quyết định
"giải pháp chót", "the final solution", đối với Miền Nam?
Sau 30 Tháng
Tư, hay là trước?
Và trước, là vào lúc nào?
Bởi vì bạn phải nhớ rằng, cuộc chiến Mít vừa qua, nó có cùng với cái
giống Mít.
Đẻ ra 1 phát, là đã phải chống cự với cái đói, rét, thiên nhiên khắc
nghiệt, và
anh Tẫu. Thành ra cứ phải mở mãi ra về phía Nam. Giấc mơ thống nhất, có
cùng với
giống Mít, là vậy. Giấc mơ đẹp nhất. Rỏ máu ngón tay viết đơn tình
nguyện, đốt
sạch Trường Sơn, đánh 100 năm cũng phải…
Và nếu như
thế thì, khi nào thì Bắc Bộ Phủ nảy ra "ác mơ" làm thịt thằng em
Nam Bộ, quyết định
tiến hành chiến dịch "Giải Pháp Chót"?
Qui
sait de quoi hier sera
fait ?
Ai mà biết được,
"ngày hôm qua" sẽ được làm ra
như thế nào, bằng cái gì?
Norman
Davies
Bài này cũng tuyệt.
Điểm Bức Bàn Sắt của Anne
Applebaum
TV tính đọc song song với
sự kiện "Bên Thắng Nhục" của anh tà lọt Osin,
để tìm cách giải ra thai đố, vào thời điểm nào Bắc Bộ Phủ quyết định
"giải pháp chót", "the final solution", đối với Miền Nam?
Sau 30 Tháng
Tư, hay là trước?
Và trước, là vào lúc nào?
Bởi vì bạn phải nhớ rằng, cuộc chiến Mít vừa qua, nó có cùng với cái
giống Mít.
Đẻ ra 1 phát, là đã phải chống cự với cái đói, rét, thiên nhiên khắc
nghiệt, và
anh Tẫu. Thành ra cứ phải mở mãi ra về phía Nam. Giấc mơ thống nhất, có
cùng với
giống Mít, là vậy. Giấc mơ đẹp nhất. Rỏ máu ngón tay viết đơn tình
nguyện, đốt
sạch Trường Sơn, đánh 100 năm cũng phải…
Và nếu như
thế thì, khi nào thì Bắc Bộ Phủ nảy ra cái "ác mơ" làm thịt thằng em
Nam Bộ, quyết định
tiến hành chiến dịch "Giải Pháp Chót"?
Qui
sait de quoi hier sera
fait ?
Ai mà biết được,
"ngày hôm qua" sẽ được làm ra
như thế nào, bằng cái gì?
Lý Thu Thuỷ, sư muội, cùng
học môn phái Tiêu Dao với Thiên Sơn Đồng Mỗ, cùng yêu
sư phụ như sư tỷ, và vì thế, vừa ghen tài, vừa ghen tuông, vừa muốn
chức chưởng môn
– tình,
thù là hai trong những đỉnh đao chói lọi của “đại lục”, le continent,
là thế giới
chưởng Kim Dung – nhân Đồng Mỗ đang thời kỳ hoàn đồng (trở thành 1 đứa
con nít)
bèn tấn công Linh Thíu Cung, chặt được 1 cái chân của cô bé con hàng
ngàn tuổi,
là Đồng Mỗ, tính hành hạ 1 “tăng” [temps] đã đời, rồi mới làm thịt, may
nhờ Hư
Trúc cõng Đồng Mổ chạy, trong khi chạy trối chết như thế, bèn nhớ tới
nước cờ
Hư Trúc sử
dụng để phá thế cờ "Quốc Cộng", bèn hỏi, và bèn áp dụng 1 lần nữa:
Nơi
chốn sống
sót là nhà của kẻ thù.
Trái tim của Bóng Đen!
Cũng trong “Nước
cờ Hư Trúc”,
Gấu có đưa ra vấn nạn, nghệ thuật bắt chước cuộc đời, OK, nhưng
có khi nào, cuộc đời chôm chĩa nghệ thuật?
Có đấy. Rõ ràng
nhất, hiển nhiên nhất, là nước cờ Hư Trúc đã được lịch sử Mít áp dụng y
chang vô
ngày 30 Tháng Tư 1975.
Đó là ngày cả
1 miền đất tự huỷ diệt, và nhờ đó, tìm ra sinh lộ.
Đám Ngụy, phải
đến khi đi tù VC thì mới tìm lại được cái gọi là “raison d’être”, lý do
hiện hữu,
và cùng với nó, là đủ thứ trên đời, niềm kiêu ngạo sống, làm người, và
nhất là…:
Làm 1 tên Ngụy!
Gấu Cà Chớn
tin chắc là, bất cứ 1 tên khốn kiếp nào còng lưng thổi Bên
Thắng Nhục,
thì chém chết cũng là tên bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC, hoặc đã từng
làm tà lọt,
hoặc "tà lọt của tà lọt", như tên Osin!
Những tên chưa từng đi tù
VC.
Những tên khốn
kiếp chỉ mong được VC chính hiệu Bà Lang Trọc, thí dụ tên Đông B, thay
vì xoa đầu, thì bèn chùi cái tay dơ
của nó lên áo chúng đang mặc!
Hà, hà!
Có thể có
người cho rằng Gấu “cay đắng” quá, và, vẫn theo họ, phải có 1 cái nhìn
"khách quan” về cuộc chiến vừa qua.
Đâu phải.
Muốn hiểu “cái nhìn” của
Gấu, là phải đọc mấy dòng thơ của nữ thần thi ca Nga, Akhmatova, mà
Brodsky trích dẫn. Bà vừa làm
thơ mô tả những tai họa Đại Khủng Bố Xì Ta Lin giáng lên nước Nga,
vừa mấp mé bờ huỷ diệt, điên loạn! (1)
Gấu.... cũng thế!
Hà, hà!
Cuộc chiến Mít,
cho đến bây giờ, nếu muốn “khách quan”, thì cứ nhìn hiện trạng nước Mít!
Không lẽ ba
triệu người chết để có được thành quả như thế?
(1)
Already
madness dips its wing
And casts a shade across my heart,
And pours for me a fiery wine
Luring me to the valley dark.
Khùng điên
dang rộng cánh
Trải dài
bóng qua trái tim tôi
Đổ rượu nồng
cho tôi
Lùa tôi xuống
thung lũng tối
I realize
that to this madness
The victory
I must yield,
Listening
closely to my own
Delirium, however strange.
Tôi nhận ra,
đối với điên khùng này,
Là chiến thắng
mà tôi phải trao nhường cho nó.
Trong khi lắng
nghe, thật cận kề,
Cơn hoảng loạn
của chính mình
Mới lạ lùng
làm sao!
Với tôi, đề
tài chính của Kinh Cầu, là về sự nứt
nẻ, phân rẽ, về sự không làm sao có được một phản ứng đầy đủ của tác
giả,
khi đứng trước hoàn cảnh. Akhmatova, trong Kinh
Cầu, miêu tả tất cả những điều khủng khiếp, ghê rợn của ‘khủng bố
lớn’, của
Stalin, nhưng cùng lúc, bà hoài huỷ nói về tình trạng mấp mé bờ điên
khùng, hoảng
loạn. Bạn [Volkov] nhớ không?
Brodsky
Loyauté
par DUONG
THU HUONG
Trung
Trung là đức
tính đầu tiên của những triều đại phong kiến Đông phương đòi hỏi ở thần
tử, phải
trung với vua. Ngay từ khi nằm nôi, con nít Á Châu đã được học điều
này. [Khi
nghe tin Stalin chết, đứa trẻ con ngày nào ở trong Tố Hữu sống dậy, và
thốt
lên, "Tiếng đầu lòng con gọi Stalin", là do đó]. Ngay từ khi còn trẻ,
với tôi, trung với vua được thay thế bằng trung với Đảng Cộng Sản. Từ
Vua qua Đảng
là một quá trình tự thân. Vào lúc 20 tuổi tôi lao vào cuộc chiến chống
Mỹ. Thực
tại thực địa làm tôi khám phá ra những trang quá đen tối, đến nỗi tôi
lại phải
mở ra cuốn tự vựng của mình, để tìm hiểu. Những từ ngữ hiện ra như
những xác chết
thối rữa, vì không được ướp formol. Tôi bước qua ngả đường nổi loạn.
Năm 1991,
tên bộ trưởng Nội vụ đến gặp tôi trong nhà tù. Hắn hỏi tôi, sao dám
chống Đảng.
"Mi nghe đây bà nói đây này. Hơn hai triệu thằng CS bợ lên một uỷ ban
trung ương gồm ba trăm thằng. Rồi ba trăm thằng này bợ lên một bộ chính
trị gồm
13 cái đầu ngu đần. Nếu ngất ngưởng ở trên đầu thế gian, là 13 tên ngu
đần, bại
hoại này, thì chẳng có lý do gì để mà bà trung thành với Đảng. Đảng đâu
phải là
ông Giời sống ở trên Giời. Đảng là một nhóm 13 tên. Tại sao bà lại phải
trung với
chúng?". Vào lúc tên đồ tể vung búa chặt đầu con bò, trước khi xả thịt
nó,
là tôi hết còn tin vào chữ “trung”. Đúng ra, tôi đổi hướng nó: trung
chỉ có
nghĩa khi mình vận nó vào chính mình. Và như thế, con người tự do chọn
lựa và đảm
nhận những chọn lựa của mình. Kể từ lúc đó, “trung” không còn là một
thánh tượng
tôn thờ, cũng không phải là xác chết thối rữa. Nó trở thành bạn đường
của tôi,
cái bóng của tôi, hơi thở của tôi…. Phải mất ba chục năm làm giặc tôi
mới hiểu
và làm chủ được, ý nghĩa của một từ. Thật đau thương. Cũng vậy, tôi
nghĩ, là
nhà văn là kẻ bị kết án khổ sai, bởi vì, trước khi sử dụng một từ, phải
chiến đấu
với những bóng ma của nó. Tôi chúc những nhà văn, những kẻ mơ mộng,
những kẻ
khùng điên, và những kẻ bị kết án một chiến thắng huy hoàng.
Lần thứ hai
tôi khóc là năm 1984 khi tôi đến Mascơva. Tất cả những người Việt Nam
khác đến
đấy đều hớn hở, sung sướng. Riêng tôi thì nhục nhã không thể tả được.
Vì khi ở
trong nước, tôi vẫn có ấn tượng dân tộc mình là dân tộc anh hùng và là
một dân
tộc cũng có được một cuộc sống xứng đáng. Nhưng khi đến Mascơva trong
một phái
đoàn điện ảnh trẻ thì tôi mới nhìn thấy ra rằng, người Việt Nam bị
khinh bỉ.
Người Việt Nam đầu đen chỉ xếp hàng trong các đội quân dài dặc các bà
già Nga bụng
to để mua nồi áp xuất, bàn là điện nhằm gởi về nước. Những người bán
hàng họ mắng
cho như là mắng khỉ ấy. Họ mắng cũng đúng vì người mình khuân hàng đống
nồi,
hàng đống sản phẩm của người ta để tuồn về nước. Khi đứng ở khách sạn
Peking
nhìn xuống đường, tôi thấy những đoàn đại biểu Việt Nam trong những bộ
quần áo
complet gớm giếc trông như những đàn bò đi trong thành phố. Tôi hoàn
toàn vỡ mộng
và tôi khóc. Một nhà văn Nga mắng tôi. Anh ta bảo rằng, “người ta đi
Nga người
ta sung sướng, còn bà thì tại sao bà lại khóc như cha chết vậy. Sao lại
vớ vẩn
thế”. Anh ta không biết nỗi đau đớn của tôi khi thấy thân phận của
người Việt
Nam.
DTH
Đây là nỗi
nhục mà dân tộc Mít phải chịu sau 30 Tháng Tư 1975, trên toàn thế giới.
Nỗi nhục
“anus mundi”, [là cái hậu môn của thế giới], như cái tên của nó, nhờ
Milosz, mà
có được.
Ở Canada,
GCC rất nhiều lần vô tiệm của tụi mũi lõ, bị hỏi, và khi trả lời, bị
bồi thêm 1
câu, mày là Mít, OK, nhưng Bắc Kít, hay Nam Kít. Khi trả lời Nam Kít,
thằng chủ
quán gật đầu, và Nam Kít thường rất tự hào về điều này. GCC chẳng thấy
tự hào
tí nào, tất nhiên, vì cũng… Bắc Kít.
Và dù không
phải Bắc Kít, Nam Kít thứ thiệt, thì cũng đếch tự hào nổi.
Sợ còn đau gấp
đôi, gấp ba lũ Bắc Kít.
Chúng đâu thấy
đau? (1)
"Nous
ne lui demandons pas de devenir un traître. Nous lui proposons une
nouvelle
définition du mot loyauté."
Le Carré: Un
homme très recherché
[Chúng tôi
đâu có đòi bà trở thành một kẻ phản bội. Chúng tôi đề nghị bà một định
nghĩa mới
về lòng trung thành với Đảng VC]
*
Anh tà lọt
Osin viết Bên Thắng Nhục, hồi ký, để tìm sự
thực lịch sử quá khứ thời kỳ sau 30 Tháng Tư ở Miền Nam.
Dương Thu Hương
viết Đỉnh Cao Chói Lọi, tiểu
thuyết, để đem sự thực cho nhân vật lịch sử Hồ Chí
Minh.
Cả hai cuốn
đều hỏng, theo Gấu Cà Chớn.
Với cuốn tiểu thuyết, thì chất văn chương của DTH yếu
quá.
Với cuốn hồi ý, thì đếch có văn chương, khổ thế.
Và vẫn theo
Gấu, giả như sau này, có cuốn sách viết đúng về những gì xẩy ra sau 30
Tháng Tư
1975, thì đó là 1 cuốn... giả tưởng.
Chỉ là nhờ giả tưởng mà chúng ta tìm lại được
sự thực lịch sử!
Theo nghĩa đó, Y Sĩ Đồng Quê của
Kafka, viết về “sự thực lịch sử" cuộc chiến Mít!
Bạn đọc Y Sĩ
Đồng Quê, và tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn
của một miền đất,
nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận miền nam, và,
tìm đủ mọi
cách để đến bên giường người bệnh, do không có ngựa, nên phải mượn đôi
ngựa của
con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh cô hầu gái, cuối
cùng nhận
ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la lớn:
"Ta bị lừa, bị
lừa,
bị lừa!"
Và đây là
hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần
trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất, với cỗ
xe trần
thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng"
("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an
earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào
đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của một vua Lear,
của một
ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất,
là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp của mình ở
trỏng, viên
tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của cô con dâu,
được vỗ
béo bằng những thai nhi !
Cái chết của
Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn trong đời tôi, Oscar Wilde đã
từng tuyên
bố.
Nhưng Lucien
de Rubempré là ai?
Một nhân vật
trong một cuốn tiểu thuyết của Balzac.
Varga Llosa,
"chuẩn" Nobel như tin của AFP ở trên, tin rằng, lời tuyên bố của
Wilde, là phải được hiểu theo nghĩa 'thực tại ở đời", theo nghĩa đen!
Bởi vì có những
nhân vật giả tưởng còn thực hơn cả sự thực!
Viên y sĩ đồng
quê của Kafka là một "vĩ nhân" như thế!
30.4.2012
L'infirmité
de la mémoire historique sur le communisme national, ses erreurs et ses
horreurs, est largement responsable du mépris populaire pour tout ce
qui est
politique.
Sự què quặt
của hồi ức lịch sử, về chủ nghĩa CS quốc gia, những lầm lẫn và những
ghê rợn,
những kinh hoàng của nó, chúng dẫn tới sự khinh bỉ của đám đông, đối
với tất cả
những gì liên quan tới chính trị.
Pasternak đã
từng gọi điện thoại cho bồ, khóc nức nở.
- Chuyện gì
vậy, cưng?
- Ông ta chết
rồi, chết rồi!
- Ai chết?
- Zhivago!
Anh tà lọt của
tà lọt - Thầy của anh ta thì cũng là tà lọt - nhờ làm tà lọt cho 1 tên
thủ tướng
chăn trâu học lớp 1, nên cũng nắm được mấy vụ nhơ bẩn của lịch sử, thí
dụ,
thanh toán lẫn nhau giữa VC Bắc Kít thứ thiệt với đám miệt vườn... Do
ngu dốt,
bèn lầm với "sự thực lịch sử", hê nhảm... Ơ Rơ Ka, đám bộ lạc Cờ Lăng
ngửi thấy mùi đô la, bèn vồ lấy...
Đó là tất cả
“sự thực’chung quanh quả lừa "Bên Thắng Nhục", theo Gấu Cà Chớn.
Phải là nhà
văn cơ, và phải có tâm địa Bồ Tát, phi ta ra đếch thằng nào dám vô Địa
Ngục Lò
Cải Tạo, dám đối mặt với Cái Ác Bắc Kít, anus mundi…
*
Giai thoại về
"Zhivago chết rồi", Gấu nhớ đọc trong "Tiểu sử Solz, thế kỷ ở trong
ta", của D.M.
Thomas.
Mò, kiểm
tra lại, thử trí nhớ của mình, thì lại lòi ra chương 31.
Cái tít phán y
chang Gấu
phán:
Phi Gấu Cà Chớn ra thằng nào dám vô địa ngục Lò Cải Tạo!
Dictating the Inferno
Hà, hà!
Chương này
ngắn thôi.
Post ở đây, dịch sau.
Dictating the Inferno
No sound of
grief except the sound of sighing…
-Inferno, IV
|
|