|
Torture,
writes Améry, has "an indelible character".
Whoever was tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean
Améry, trong Lịch sử tự nhiên về
huỷ diệt
[Against the
Irreversible. On Jean Améry.
On the
natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].
Améry viết, tra tấn có cái tính
quái dị, không thể tẩy
xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc
[đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Jean Améry
viết về Sầu Xa Xứ:
Cái sầu xa xứ thứ thiệt, le vrai mal
du pays, le Hauptwehe,
“nỗi nhức nhối số 1", “la
douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn từ của Thomas Mann, thì khác,
cực khác
về bản chất, so với những gì tôi viết ở trên, và nó chỉ ngưng, khi bạn
chỉ còn
bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì
nữa, cũng
chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít đã mất, và bạn cũng không vãi ra
những giọt
nước mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ thứ thiệt không phải là tự an ủi, mà là tự
huỷ.
Le
vrai mal
du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
"Perhaps",
writes Nietzsche in the Genealogie
der Moral, "there is nothing more
terrible and mysterious in the whole prehistory of mankind than our
mnemonic
technique. We burn something into the mind so that it will remain in
the
memory; only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có lẽ không có chi khủng khiếp và bí ẩn
hơn, so với
kỹ thuật tạo dấu ấn của con người, Nietzsche viết trong Genealogie der
Moral:
Chúng ta đánh dấu trái tim của chúng ta bằng lửa, sao cho,
chỉ cái
đau được giữ lại, [cái sướng bỏ đi].
.. Weiss
learned in exile to understand the fate he escaped...... so
vital to
him, of whether he himself was on the side of the creditors or the
debtors. He
finds the answer to the question in the course of his own study, as it
becomes
increasingly clear to him that rulers and ruled, exploiters and
exploited, are
in fact the same species, so that he, the potential victim, must also
range
himself with the perpetrators of the crime or at least theirs
accomplices
Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của mình, ở về phía
kẻ ăn cướp
hay bị ăn cướp. Ông tìm thấy câu hỏi cho câu trả lời theo dòng nghiên
cứu của
chính ông, và mọi chuyện càng ngày càng trở nên rõ ràng, đối với ông,
là, cai
trị hay bị trị, bóc lộc hay bị bóc lột, thì cũng rứa, và, bởi vì ông ta
sinh ra
là có tướng bị ăn đòn rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng cùng với
những kẻ
tạo ác, hay chí ít, cũng đồng phạm.
Sebald
… Weiss to
attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been
motivated before
the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has
its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if it
be
through the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which
Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which, he
said,
"rests on a contractual relationship between creditor and debtor as old
as
the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the
Heart.
On Memory
and Cruelty in the Work of Peter Weiss
Weiss tham dự
tòa án xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể là do ông vẫn còn hy vọng,
một niềm
hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì có cái phần tương
đương của
nó, ở đâu đó, và có thể thực sự được đền bù, bù trừ, bồi hoàn, ngay cả,
sự bồi
hoàn này thông qua nỗi đau của bất
cứ kẻ nào gây ra sự tổn thương”. Tư
tưởng
này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của chúng ta về công lý,
và nó,
như ông nói, “nằm trong liên hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và con nợ,
và nó
cũng cổ xưa, lâu đời như là quan niệm về luật pháp, chính nó”
W.G.
Sebald: Sự
hối hận của con tim.
… even
if it be through the pain of whoever
inflicted
the injury.
Moi, je
traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry
viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.
Gấu cũng có
thể nói như thế:
Ta mang cái
gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?
Con chim ousen [chim két] hót ở
trong rừng Cilgwri.
Hót hoài hót hoài như một dòng suối dội lên những
hòn đá rêu xanh
Nhưng cũng chưa xa xưa bằng con nhái Cors Fochno
Cảm thấy làn da lạnh chũng vào tới tận xương tận
tuỷ.
Rushdie
viết, rất ít nhà thơ kết hôn sâu xa đằm thắm với đất mẹ như nhà thơ
R.S.
Thomas, một nhà thơ dân tộc Welsh [a Welsh nationalist], những vần thơ
của ông
tìm kiếm, bằng cách nhận ra, để ý [noticing], khẳng định [arguing], làm
thành
vần điệu, huyền hoặc hóa, biến đất nước thành một sinh vật rất ư là
nồng nàn,
rất ư là trữ tình.
Tuy
nhiên, cũng chính ông này, cũng viết:
Sự
hận thù mất nhiều thời gian
Để mà đâm chồi nẩy lộc, và lòng hận thù của tôi
Kể từ khi sinh ra, cứ thế mà tăng trưởng..
Không
phải tôi thù cái mảnh đất tàn nhẫn thô bạo dã man mà tôi ra đời...
Tôi nhận ra một điều:
Cái lòng hận thù đó, là thù cái làn da khốn kiếp của tôi,
Cái thứ khốn kiếp, là chính tôi!
Hate
takes a long time
To grow in, and mine
Has increased from birth;
Not for the brute earth...
I find
This hate's for my own kind.
*
Thảo
nào, thằng cha Gấu thù chính nó, thù cái chất Yankee mũi tẹt của chính
nó! (1)
Jean
Améry:
Par-delà le crime et le châtiment
PRÉFACE A LA PREMIÈRE ÉDITION
DE 1966
Quand
le grand procès
d'Auschwitz débuta à Francfort, en 1964, je rompis un silence de vingt
ans et
me mis à écrire le premier essai relatant mes expériences vécues
pendant le
Troisième Reich. Au départ je n'avais pas l'intention de lui donner une
suite,
je voulais simplement jeter quelque lumière sur un problème particulier
: la
situation de l'intellectuel dans un camp de concentration. Pourtant,
quand le
travail fut terminé, il me sembla que je ne pouvais pas en rester là.
Auschhwitz. Comment y étais-je arrivé? Que s'était-il passé auparavant,
qu'adviendrait-il après, qu'en est-il de moi aujourd'hui ?
Il
serait faux de dire que
pendant ma longue période de silence j'avais oublié ou "refoulé" ce
destin qui fut le mien et celui des Allemands douze années durant.
J'avais déjà
consacré deux décennnies à la recherche du temps impossible à perdre,
mais il
m'avait été très difficile d'en parler. Mainntenant, comme la mise par
écrit de
mes réflexions semblait avoir rompu l'obscur envoûtement qui me
paralysait,
tout voulait soudain être dit: c'est ainsi que ce livre vit le jour. Je
découvris alors que si j'avais sans doute réfléchi à beaucoup de
choses, je ne
les avais jamais articulées clairement. C'est pendant le travail de
rédaction
que tomba le voile et que je découvris ce qui m'était déjà apparu dans
une
sorte de réflexion rêveuse semi-consciente et encore hésitante au seuil
de son
expression langaagière.
La
méthode à suivre ne tarda
pas à s'imposer. Si, pendant la rédaction des premières lignes de
l'essai sur Auschwitz, j'avais encore
cru pouvoir me tenir à une
distance prudente et approcher le lecteur avec une objectivité toute
distinguée, j'allais bien vite me rendre compte que c'était une tâche
impossible. Là où le "Moi" voulait être évité à tout prix, il
s'avérait être le seul point de départ valable. Au début je voulais
écrire un
essai fondé sur mes réflexions. Il en sortit une confession
personnelle,
entrecoupée de méditations. En outre, je compris très vite combien il
serait
absurde d'ajouter un ouvrage de plus à l'impressionnante série de
travaux
documentaires, en partie excellents, qui traitent déjà du même sujet.
Ma
confession et ma méditation ont donné l'étude qui suit, plus
exacteement la
description de l'existence de toute victime.
Je
progressai à tâtons,
lentement et péniblement, dans ce que je ne connaissais que trop bien,
à
satiété même, et qui pourtant avait conservé son étrangeté. C'est la
raison
pour laquelle les chapitres de ce livre ne sont pas ordonnés en
fonction de la
chronologie des événements, mais de la succession de leur apparition.
Le
lecteur, s'il veut bien consentir à se joindre à moi, devra m'emboîter
le pas
dans cette obscurité que j'ai voulu éclairer justement pas à pas. Ce
faisant,
il se heurtera à des contradictions dans lesquelles je suis tombé
moi-même.
Ainsi, dans le passage sur la torture, la signification que je devais
donner au
concept de dignité ne m'était-elle pas claire du tout, et je l'écartai
pour
ainsi dire d'un geste de la main, alors que plus tard, dans mon travail
sur la
condition juive, j'ai cru comprendre que la dignité est le droit à la
vie que
vous confère la société. De même, tandis que j'écrivais sur Auschwitz
et la
torture, je ne comprenais pas encore clairement que ma situation ne
pouvait se
ramener entièrement au concept de "victime nazie" ; ce n'est qu'en
arrivant à la fin de mon travail et en méditant sur la nécessité et
l'impossibilité d'être juif que je me reconnus aussi dans l'image de la
victime juive.
Dans
ces pages qui sont
peut-être incomplètes, mais dont je puis affirmer qu'elles sont
sincères, il
est beaucoup question de faute et d'expiation, car j'ai tout aussi peu
tenu à
ménager les susceptibilités étrangères que la mienne propre. Néanmoins
je vois
dans cet ouvrage un compte rendu qui va plus loin que la question de la
faute
et de son expiation, qui se situe par-delà le crime et le châtiment.
Les choses
y sont décrites telles que les a ressenties une victime terrassée,
c'est tout.
Dans ce
livre je ne m'adresse
pas à mes compagnons d'infortune. Ils savent. Chacun d'eux doit porter
à sa
manière le fardeau de son expérience personnelle. C'est aux Allemands
qui, dans
leur écrasante majorité, ne se sentent pas ou ne se sentent plus
concernés par
les méfaits à la fois les plus sinistres et les plus significatifs du
Troisième
Reich, c'est à ceux-là que je voudrais raconter ici certaines choses
qui ne
leur avaient sans doute jamais été révélées. Enfin, il m'arrive aussi
d'esspérer que cet ouvrage a été écrit pour une bonne cause : car il
pourrait
alors concerner tous ceux qui veulent être le prochain de leur
semblable.
JEAN
AMÉRY,
Bruxelles,
1966
Torture,
writes Améry, has "an indelible character".
Whoever was tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean
Améry, trong Lịch sử tự nhiên về
huỷ diệt [Against the
Irreversible. On Jean Améry.
On the
natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].
Améry viết, tra tấn có cái tính
quái dị, không thể tẩy
xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Jean Améry
viết về Sầu Xa Xứ:
Cái sầu
xa xứ
thứ thiệt, le vrai mal du pays, le Hauptwehe,
“nỗi nhức nhối số 1 “la
douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn từ của Thomas Mann, thì khác,
cực khác
về bản chất, so với những gì tôi viết ở trên, và nó chỉ ngưng, khi bạn
chỉ còn
bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì
nữa, cũng
chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít đã mất, và bạn cũng không vãi ra
những giọt
nước mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ không phải là tự an ủi, mà là tự huỷ. Le
vrai mal
du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
|
|