-Bạn...
ơi, bạn sang Pháp lâu
chưa, hay bạn đang ở nước nào thế? Mình chưa được đến thăm nhà Bác Hồ ở
Paris,
nhưng cô giáo tiếng Pháp của mình bảo rằng tên phố Bác ở ngày xưa là
Compoint
cơ, thế có đúng không hả bạn.
-Thế
bạn TT có biết sự tích
viên gạch sưởi ở ngõ Công - Poăng không? Hay cực!
-Mình
chỉ biết Bác Hồ dùng
gạch để sưởi ấm mùa đông thôi, mình không biết sự tích hòn gạch ấy thế
nào bạn
ạ. Bạn có thể kể cho mình được không?
-Khéo bác...
lại kể chuyện bác mang hòn gạch lấy từ cái lò gạch
sinh ra Chí Phèo sang
Pháp cũng nên
-Ừ, vậy
tớ kể chuyện viên
gạch ngõ Công Poăng cho các bạn nghe
nhá.
Đầu
những năm 70' của thế kỷ
XX, sau khi Người đã qua đời được vài năm, một tổ công tác chính trị
được thành
lập. Đa số các thành viên của tổ là các khoa học gia về bảo tồn, bảo
tàng, lịch
sử và khảo cổ học. Đó là tiền thân của Bảo tàng HCM sau này.
Nhiệm
vụ của tổ công tác là
đi khắp đất nước, và một số địa điểm ngoại quốc để sưu tầm tư liệu, vật
dụng
hàng ngày... của Người trong thời gian Người bôn ba hải ngoại để tìm
đường cứu
nước. Một nhóm công tác đặc biệt được cử sang Pháp cũng không ngoài mục
đích
đó.
Một
nhiệm vụ cụ thể của nhóm
công tác là tìm hiểu về sự thực chuyện viên gạch Người dùng để sưởi ấm
mùa đông
khi Người đang là anh thanh niên 25 tuổi đẹp trai nhưng nghèo khổ ở
Paris, sống
ở nhà số 9 ngõ Công Poăng. Nhà số 9 Công Poăng tầng dưới là quán cà
phê, tầng
trên Người thuê ở, người làm nghề rửa ảnh. Phòng kê vừa một cái giường,
hai cái
ghế một cái bàn con.
Nhóm
công tác đã phỏng vấn
nhiều người dân sống trong khu vực này cùng thời với sự kiện viên gạch,
và kết
quả là không có người dân nào biết về sự kiện này.
Đến
ngày cuối cùng trong thời
gian làm việc. Nhóm công tác tình cờ gặp một bà cụ già 70-80 tuổi nhăn
nheo móm
mém nhưng vẫn còn giữ lại một chút nhan sắc thời trẻ sống tại nhà số 11
ngõ
Công Poăng. Khi được hỏi về sự kiện viên gạch Người dùng sưởi ấm trong
mùa đông
giá rét ở Paris,
bà cụ già công nhận là có biết chuyện này. Nhóm công tác mừng rỡ và đề
nghị bà
cụ giúp đỡ để tìm lại viên gạch để mang về Việt Nam,
bà cụ gật đầu mỉm cười duyên
dáng và nói:
- "Viên
gạch đó chính là
tôi đây!"
Cứ giả
sử, nhân dân đều biết
tỏng, Bác ôm cục gạch ấm áp mềm mại trong tay mà đã phịa ra cục gạch
sần sùi
gói trong tờ báo, liệu nhân dân có còn "giận thì giận nhưng thương thì
vẫn
thương"?
Đây
cũng là câu hỏi tờ TLS
nêu ra khi điểm cuốn tiểu sử Koestler, liên quan đến vấn đề đạo hạnh,
đời tư
của người viết.
Sự khác
biệt, là, ông Hồ là
nhà chính trị, còn Koestler, nhà văn.
"The
final rout of the
Soviet imperium in 1989-1990 began with the publication of Darkness at
Noon"
David
Cesarani: Arthur
Koestler: Một cái đầu không nhà, The homeless mind.
[Cú
hỏng cẳng sau chót của uy
quyền tối thượng của Xô Viết, vào thời kỳ 1989-1990, bắt đầu, khi Bóng
Đêm Giữa
Ban Ngày của Koestler ra lò, 1940].
Đúng là
đòn "cách sơn đả
ngưu"!
Cuốn
tiểu sử cho thấy một ông
Koestler rất mê hiếp dâm phụ nữ, coi đây như là một thú vui giải trí
được cho
phép! Sau khi cuốn sách ra lò, trên tờ Người Nữu Ước, Gấu tình cờ đọc
thấy, một
độc giả cho biết thêm chi tiết, nhân vật nữ thư ký, nữ đồng chí của tay
Rubashov, có thiệt ở ngoài đời, tháp tùng ông trong chuyến đi thăm cái
nôi của
cách mạng vô sản, là Liên Xô. Sau khi ông ta chơi chán chê, bèn nhờ KGB
giải
quyết giùm.
Nhưng
cũng có thiệt ở ngoài
đời, đàn bà trung thành với ông cho đến chết, thí dụ như bà vợ thứ ba,
Cynthia,
đã cùng đi tầu suốt với ông, vào năm 1983, khi ông bịnh nặng, đành tìm
đến cái
chết.
Koestler
là nhà văn bậc thầy,
theo nghĩa, tác phẩm của ông là bông sen, nở ra từ vũng bùn báo chí. Sự
thành
công khiến ông nghĩ, ông có thể vươn tới những vùng đất khác, như giả
tưởng,
triết học, khoa học.
Có lần
ông huênh hoang về
mình: Ta sẽ là một Darwin
thứ hai!
Ông ta
chết như là một thằng
đàn ông cay đắng, chua chát, ích kỷ, chỉ biết có mình, chưa hề tìm ra
được căn
nhà thực sự, để cho danh tiếng làm hư ruỗng tài năng của mình. Nhà viết
tiểu sử
kết luận về Koestler.
Nhưng
quả là thiên tài, khi,
từ bao nhiêu năm trước, với con mắt cú vọ của một ký giả khi nhìn vào
sự kiện
đời thường, tức diễn tiến những vụ án tại Moscow, mà đã ngửi ra được
tiếng
chuông gọi hồn của chủ nghĩa Cộng Sản, thì quả là cao thủ!
Và
chính cái ngọn lửa thiên
tài đó, làm cho Bóng Đêm Giữa Ban Ngày [1940] cứ sống hoài, và cùng với
nó, là
tên của Arthur Koestler. Sáu chục năm sau, [bài điểm cuốn "Koestler,
The
homeless Mind" của Cesarani, là trên tờ TLS số đề ngày 15 tháng Giêng,
1999. Người điểm: Michael Shelden, tác giả những cuốn Orwell: Tiểu sử
được phép
1991, và Graham Greene: The man within, 1994], cuốn sách vẫn tiếp tục
hớp hồn
độc giả, và vẫn được nhắc nhở tới, trong rất nhiều trường hợp hoàn cảnh.
Tuy
nhiên, theo bài viết, mùa
thu vừa rồi [1990], trong một hồ sơ hình sự của toà án Mỹ, có ghi lại
một nhận
xét của một tay bị tình nghi phạm tội: "Tôi cảm thấy giống như một nhân
vật ở trong một cuốn tiểu thuyết. Tôi cảm thấy mình như một kẻ nào đó,
kẻ này
bị vây bủa bởi một sức mạnh chèn ép, và cái sức mạnh này tạo ra một lời
dối trá
về tôi, và tôi không có cách chi để nói ra sự thực. Tôi cảm thấy mình
như nhân
vật ở trong Bóng Đêm Giữa Ban Ngày".
Indeed,
the ideal for a
well-functioning democratic state is like the ideal for a gentleman's
well-cut
suit- it is not noticed. For the common people of Britain,
Gestapo and concentration
camps have approximately the same degree of reality as the monster of
Loch
Ness. Atrocity propaganda is helpless against this healthy lack of
imagination."
(from
'A Challenge to
'Knights in Rusty Armor'', The New York Times, February 14, 1943)
Một nhà
nước dân chủ vận hành
trơn tru, thì cũng giống như bộ đồ may thật khéo, vừa khít với người
diện nó:
Chẳng có ai thèm để ý đến!
Với những con người bình thường ở Anh, Gestapo,
hay trại tù tập trung thì cũng xêm xêm như là con quái vật ở ở hồ Loch
Ness.
Nói ra rả về sự độc ác ở những nơi chốn đó, thì cũng vô dụng, vô ích,
khi đụng
phải một sự thiếu hụt một cách rất ư là khỏe khoắn, của trí tưởng tượng.
A.
Koestler.
Đang lèm bèm về viên gạch của
Bác Hồ, khéo làm sao, nhà nước, qua giáo sư Phan Huy Lê chính thức xổ toẹt huyền thoại Lê Văn Tám.
Ông
nhắc lại câu của Trần Huy
Liệu, “Lúc sáng tác ra câu chuyện Lê văn Tám, anh Liệu có nói với tôi
rằng:
“Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyền nên tôi viết tài liệu này, sau này
khi đất
nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ
khi đó tôi
không còn nữa.”
Liệu có
thể gọi, đây là
"một sự thiếu hụt rất ư là không mạnh khoẻ trí tưởng tượng?
Hồi mới
giải phóng, có một
"thực tại" chứ không phải huyền thoại về Bác, ở giữa những người miền
nam, và giữa những tù cải tạo: Nguỵ, do ngu ngốc, do chưa được khai
hoá, nên
không hiểu, và có thể chỉ trích chế độ, không sao, chỉ cần học tập tốt,
lao
động tốt, là có ngày giác ngộ. Nhưng cấm không được đụng tới Bác Hồ.
Đây
không phải là một huyền
thoại, và đúng là một thực tại. Bạn có thể "nói thật" về Bác Hồ đến
cỡ nào đi chăng nữa, vẫn có những người sẽ chẳng bao giờ tin.
Xin kể
một số sự kiện, để
chứng minh.