The Man Who Invented the Drug Memoir:
Kẻ phịa ra Hồi Ức Ken
Thomas De Quincey’s intoxicating
prose derived its power from the writer’s opium habit.
By Dan Chiasson
Borges,
trong Hồi ức của Shakespeare, nhắc đến De
Quincey, ông này phán, bộ óc của chúng
ta thì giống như miếng da lừa, a palimpsest. Bản văn mới phủ
lên bản văn trước đó, cứ thế, cứ thế.
Nhưng gặp một tay có bộ óc khùng
như GNV, thí dụ, thì cái bản văn cũ gọi là
‘quá khứ có BHD’ cứ luôn luôn là
bản văn mới nhất, nó phủ lên mọi bản văn khác,
kể cả bản văn sẽ có!
UPI office,
19 NDK, phía bên kia hè đường. Có
1 bà cũng gánh 1 cái gánh như thế,
bán đồ ăn sáng, hình như là cơm tấm,
ở phía trước văn phòng, thời gian, chắc cũng vào
giờ này, khi tấm hình này được chụp
Saigon Street Scene 1967 -
Đường Nguyễn Thiệp, đường ngang phía trước là
Nguyễn Huệ
Cái tay Phương,
manager tiệm radio International, là chồng Bích
Hợp, nổi danh 1 thời.
Tay Phương có thời cũng rất
mê ngồi Quán Chùa, với…. GCC.
Nhớ, 1 lần, nhìn thấy Viên Linh, từ ngoài
đi vô, chắc thế, 1 buổi sáng Sài Gòn
mưa, chàng kéo cái cổ áo mưa lên,
tay Phương nhìn, mê quá, phán, đúng
là văn sĩ!
Lần đầu tiên Gấu nghe Bích
Hợp hát, là trong 1 vở cải lương, Tình
Vương Ý Nhạc, hình như thế, và
là
bài "Người ngồi bên đây, lặng nghe nước chảy....",
"cái con mẹ gì đó" (1) của PD, thế là nhớ đời,
y chang chàng Phương nhìn VL xốc cổ áo mưa,
hẳn thế!
Nghệ thuật làm dáng?
Cùng thời gian bức hình
đưọc chụp?
Một người ngồi bên kia sông
im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây
trông hoa trôi theo nước chảy
phương nào
Trời thì mưa rơi
mưa rơi không ngưng suối tuôn
niềm đau
Người thì hẹn nhau sang sông
mong cho chóng tạnh mùa Ngâu
Cuộc đời làm cho đôi bên
yêu nhau
cách một biển sâu
hẹn hò tàn thu sang xuân
bên nhau
biết thuở ban đầu
dù tình không nguôi
đôi ta xin cho hứa vui về sau
trời còn làm cho mưa rơi
mưa rơi
cách biệt dài lâu...
Nước vẫn trôi mau
mắt vẫn hoen sầu
đành để hồn theo nước trôi
không màu
Số kiếp hay sao?
không cho bắc cầu
thì xin sông nước sẽ cho gần
nhau..
Một người bèn ra ven sông
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang
đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước
xuôi về đâu?
Hẹn hò gặp nhau thiên thu
cho phong phú đời người sau
GCC chưa từng được gặp
Bích Hợp, nhưng nhớ là, tay Phương này,
rất mê vợ mình, và hình như là,
BH do cảm động quá, bèn gật đầu
Kiệt có, ở Đà Lạt, hai,
trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn
và một cô bé.
Cô Bé tức Bông
Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô,
y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné,
với một anh chàng mê mình, ngày mai
đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc
Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là
bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải
đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn
cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình,
anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói:
thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"
Cô bạn là tác giả
câu thơ mà bạn có thể để vào bài
ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước: Hồn Đông Phương thất lạc
buồn Tây Phương.
Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển"
cho tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số
Tháng Giêng 2005, trong bài viết "Tâm
Hồn Lãng Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái
xb tuyển tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques
Allemands, đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là
dịch thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính
văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có
tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác], hoặc,
có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch huyền
hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de haute
style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở về dạng
trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói
về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là
cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách
riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó
dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái
gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra,
còn quá bản văn, mà là linh hồn của tác
phẩm.
Dịch mà làm sao cống hiến cho người
đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của
nó, ấy mới là dịch vậy!
Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông
Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu
thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương
thất lạc, không còn tìm thấy mình,
thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Thành Buồn Tây Phương.
Borges đã từng suýt soa, dịch bản
bảnh hơn nguyên bản, là vậy.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một tác
phẩm chỉ là tác phẩm khi tìm được linh hồn
của nó.
Ở trong dịch bản!
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một nửa, nửa kia,
của mình, mới là mình.
Mới là linh hồn của mình!
Mình là cái quái
gì? Anh chỉ mong mọi người coi thường anh.
TTT: Một Chủ Nhật Khác
*
Người đọc Một Chủ Nhật Khác, nếu
tinh ý một chút, đã linh cảm ra được, kết
cục bi thảm của nó, khi nhớ tới đoạn Kiệt gặp anh Trung
Tá già, đã từng bị VC tóm được, trốn
thoát. Hai người bàn về loài voi, khi biết mình
sắp chết, là bò về nghĩa địa...
"Loài voi có đặc tính kỳ
lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động
bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các
nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa
địa voi"
"Cũng có phần đúng, thành
phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây
tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác
sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh
ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".
Một cuốn tiểu thuyết, một cách nào
đó, giống như một bài toán đố. Những chi
tiết, những sự kiện, giống như những giả thiết. Đọc, là tìm
cách chứng minh bài toán, tìm ra cái
định lý của nó.
Chính vì thế, người ta cho rằng,
tiểu thuyết trinh thám mới đích thị là tiểu
thuyết.
Theo nghĩa đó, Foucault cho rằng, bất
cứ một kho tàng, dù chôn giấu kỹ lưỡng thế
nào, người chôn cũng để lại tiêu ký,
để cho người tìm có tí dấu vết mà lần
mò.
Hai Lúa còn nhớ, có lần,
tác giả Một Chủ
Nhật Khác kể là, hình như trong một
bài viết, lúc nghe tin ông Diệm bị làm
thịt, ông đang ngồi với một vài ông bạn, cũng sĩ
quan, lính tráng. Cả bọn đồng la lên: Hỏng rồi!
Hỏng rồi, là "đại cục" hỏng rồi?
Hỏng rồi, là vui sao nước mắt lại trào?
Hỏng rồi, là sẽ có 10 ngày
ở... Thiên Thai?
Hỏng rồi, là sẽ có một con bọ?
The
labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night
Tập san Văn chương ra mắt độc giả khoảng 1972-74, tại Sài-gòn.
Chết trước ngày 30/ 4/ 75. Hình như là do bác
sĩ kiêm quản lý bất đắc dĩ, Nguyễn Tường Giang, chán
chuyện đi lấy quảng cáo, mặc dù đi là có;
và mặc dù tập san có nhà in riêng -
nhà in ABC của thân phụ anh Phạm Kiều Tùng. Có
lần, trên tạp chí Thơ, tôi đã viết về cái
đức sửa mo-rát, sửa lỗi chính tả của anh. Tôi vẫn
còn nhớ tiểu đề một số tập san, Mặt Trời Mất Đi, Mặt Trời Tìm
Thấy, do anh đề nghị. Bằng tiếng Tây: Soleils Perdus, Soleils Retrouvés.
Đây là một dị ứng, một phản ứng tự vệ, trước sự hiện diện,
không phải với mấy anh chàng Yankee đứng ngơ ngẩn ở ngã
tư đường phố Sài-gòn, tò mò nhìn phố
xá, dòng người qua lại, vào những buổi cuối tuần,
những ngày mới tới, mà là những thay đổi quá
nhanh chóng của thành phố, cùng với sự hiện diện
của họ.
Y hệt như một phim Viễn Tây, trên đường phố Sài-gòn
đang biến dạng.
Note:
Cái anh chàng Yankee mà Gấu nhìn thấy, là
ở góc đường này, từ Quán Chùa
Nhớ hoài!
Chất kể lại, hồi nhỏ nhà tớ ở
gần hồ Trúc Bạch. Ông cụ tớ, một bữa đạp xuồng dạo chơi trên
mặt hồ, không may xuồng lật. Khi đó ông cụ mới 29
tuổi, bà cụ 24. Bà cụ giao tụi tớ cho bà ngoại ở
Đáp Cầu, và lo buôn bán xuôi ngược.
Cụ vô tận trong Nam, tình cờ gặp bà cô tớ, thế
là cụ đem hai thằng vô Nam nhờ bà cô trông
coi giùm.
Hình trên chụp ở vuờn Bờ Rô.
Bạn hàng cùng với cụ hồi đó có bà
C, bà Th. cậu biết rồi.
Lần đầu đọc Cuối Đường, Gấu cứ thắc mắc, liệu tự truyện,
và tác giả đã có lần ở Sài Gòn?
Như vậy,
cũng như trong Cuối Đường, những sự kiện như được mô tả trong Bếp
Lửa đều dựa trên đời sống thực.
Chị Ng,
bà xã bạn Chất nói, tụi này đã từng
gặp cô Thanh Tuyền.
Cô
Thanh cũng có nguyên mẫu ở ngoài đời.
Chị Ng nói thêm: Tui
không đọc được từ màn ảnh PC, anh Chất phải in ra cho tui
đọc, nhưng chẳng thấy những chi tiết sự kiện nào liên quan
tới anh Chất hết. Không lẽ anh không viết gì về những
mối tình của anh Chất, giống như mấy anh em khác trong...
Thất Hiền?
Chất cuời:
Đảng trưởng thì phải gương mẫu cho anh em noi theo đó mà
sống chứ! Cậu nhớ không, hồi đó tớ còn có
nickname là Ông Thánh!
Gấu đậu Tú đụp
năm 1958, kỳ 2. Rớt kỳ 1, trước khi lao vào học, bà cụ
Chất cho cả ba đứa đi Nha Trang nghỉ mát. Bốn đứa: Chất, Quốc,
Gấu và Hải, con bà Cảnh, anh cô bé Khanh. Truyện
ngắn đầu tay Những con dã tràng được thai nghén từ
gió biển cát Nha Trang: Villa trông
ra biển....
Chất không ưa truyện này. Còn bà cụ
phán, thằng này bịnh!
Chắc là do những dòng sau đây: Đúng lúc
đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc
đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt
nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười
gượng gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân,
khám phá thân thể em và anh." Tôi nói
gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự
hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó.
“Những con dã tràng”,
truyện đầu tay của GCC, được TTT chọn, tính đăng trên Sáng
Tạo, nhưng do báo ngỏm, ông bèn đưa cái mớ
bài vở còn dư đó, qua báo Văn Nghệ của Lý
Hoàng Phong và những đấng như DNM, TDT….
Lẽ dĩ nhiên, bị ném vô thùng rác.
Gấu đọc thấy tên của mình trong mục Hộp Thư Tòa
Soạn, tuy chẳng hề gửi, thì đoán vậy, nhưng cũng chẳng
nói gì với ông anh. Vả chăng vào lúc
đó, lo học, lo tốt nghiệp, ra trường, có việc làm
kiếm ra tiền, nuôi gia đình, và nếu có cơ hội,
học tiếp.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái truyện
ngắn đầu tay “Những Ngày Ở Sài Gòn” thì Gấu
mới biết, mình sẽ trở thành nhà văn, theo nghĩa, nhờ
kiếm ra sư phụ và kiếm ra văn phong của mình. Đây là
cơ may đặc biệt của GCC, nhờ đọc được sách Tẩy, mà thoát
kiếp nhà văn Mít chỉ đọc chữ Mít, không thể
đọc 1 thứ chữ nào khác. Trường hợp hai phiên bản của
TTT, là DNM và NDT cho thấy, tại làm sao mà
TTT lại phán, nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không
hề nói, Gấu viết hay hơn DNM hay NDT. Ông phán, nó
sẽ đi xa hơn.
“Những con dã tràng”,
với riêng Gấu, khi về già, nhìn lại, quả là
bảnh nhất trong số những truyện ngắn của Gấu, và khác biệt
hẳn với số còn lại. Nó là đỉnh cao của thứ văn chương
“hiện sinh”, theo nghĩa, hục hặc với chính mình, “đêm
không là đêm” nhưng mà là “đêm tóc
rối”!
Gấu nhớ bà cụ thân
sinh TTT & Bạn C, đọc, lắc đầu, phán, thằng này bịnh.
Ui chao phải đến mãi sau này, ra được hải ngoại, đọc
“The Steps”, bản tiếng Anh, thì Gấu mới nhớ lại câu của Cụ.
Trong "The Steps", có 1 chương - Gấu đọc cuốn này
khi mới lớn bản tiếng Tây, Les Pas, sau này nhớ lại,
lầm là tập truyện ngắn - trong có xen y chang trong “Những
Con Dã Tràng”, xen ngồi chiếc đu, nhưng bịnh hơn nhiều:
Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá
xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập
ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo
dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh
đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn
của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân
hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây
phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn.
Xen này, 1 vị độc giả, trên Blog NL, lôi ra để
đi 1 đường còm.
Một vị thân hũu, nhà văn, quen biết từ hồi Quán
Chùa, thì suýt soa, cực "sex"!
Trong Steps, là xen, hai nhân vật nam & nữ,
khoả thân, làm tình qua gương:
One day an older nun stopped me in the corridor. She asked me whether
I knew what I was doing, and when I said I didn't understand, she said
the staff had a name for people like myself: hyaenidae. As I still
failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said,
lurked around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened
her death.
Cái việc ném vô
thùng rác tòa soạn báo Văn Nghệ, truyện ngắn
đầu tay của Gấu, về già nghĩ lại, Gấu thầm cảm ơn số phận. Nếu
không là bỏ mẹ rồi!
Là thành 1 đấng TTT thứ ba!
Cái chuyện gặp được Faulkner,
may mắn, nhưng giả như gặp, không phải tác phẩm Absalom, Absalom! mà là một cuốn khác,
cũng của ông, cũng hỏng cẳng!
Thầy Trò cũng đếch nhận
ra nhau!
GCC đã từng phán,
toàn bộ tác phẩm của… Cô Tư, là từ cái
khúc mở ra Absalom, Absalom!,
dù Cô Tư chẳng hề đọc Faulkner.
Trường hợp GCC thì cũng xêm xêm.
Khác, là có đọc.
Anh sinh viên miệt vườn, trước khi từ giã quê
nhà, vô Đại Học, được bà cô nhắn, đến gặp bả.
Và nghe bả kể, về “Miền
Nam Sâu Thẳm”.
Về Colonel Sutpen
JERZY KOSINSKI: STEPS
The next afternoon I found a
pretext to visit the sanatorium. Patients in brightly patterned pullovers
and tight pants strolled about the corridors. Others slept huddled in
blankets. Filmy shadows cut across the deserted deck chairs on the sunny
terrace, and the canvas snapped in the sharp breezes that scattered down
from the peaks. I saw a woman reclining in a chair. Her shawl, casually
thrown around her shoulders, exposed her long, suntanned neck. As I lingered,
gazing, she glanced at me thoughtfully, and then smiled. My shadow fell
across her when I introduced myself. The visiting rules were very strict,
and I was permitted to spend only two hours a day in her room. I couldn't
get too close to her: she would not let me. She was very ill and coughed
continually. Often she brought up blood. She shivered, became feverish;
her cheeks flushed. Her hands and feet would sweat. During one of my visits
she asked me to make love to her. I locked the door. After I had undressed
she told me to look into the large mirror in the corner of the room. I saw
her in the mirror and our eyes met. Then she got up from the bed, took
off her robe, and stepped over to the mirror. She stood very dose to it,
touching my reflection with one hand and pressing her body with the other.
I could see her breasts and her flanks. She waited for me while I concentrated
more and more on the thought that it was I who stood there within the mirror
and that it was my flesh her hands and lips were touching. But in a low yet
urgent voice, she would stop me whenever I took a step toward her. We would
make love again: she standing as before in front of the mirror, and I, a
pace away, my sight riveted upon her. Her life, was measured and constantly
checked by various instruments, recorded on negatives, charted and filed
away by a succession of doctors and nurses, reinforced by needles piercing
her chest and veins, breathed in from oxygen bottles and breathed out into
tubes. My brief visits were interrupted more and more frequently by the-
intrusion of doctors, nurses, or attendants who came to change the oxygen
cylinders or give- new medicines. One day an older nun stopped me in the
corridor. She asked me whether I knew what I was doing, and when I said
I didn't understand, she said the staff had a name for people like myself:
hyaenidae. As I still
failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked
around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened
her death.
As time went on her condition
visibly deteriorated. I sat in her room, staring at her pale face lit
only by an occasional flush. The hands on the bedspread were thin, with
a delicate network of bluish veins. Her frail shoulders heaving with every
breath, she surreptitiously wiped off the perspiration which rose steadily
on her forehead. I sat quietly and stared at the mirror while she slept;
it reflected the cold, white rectangles of the walls and ceiling. The nuns
glided silently in and out of the room, but I succeeded in never meeting
their eyes. They bent over the patient, wiping her forehead, moistening
her lips with wads of cotton, whispering some secret language into her
ears. Their clumsy dresses flapped like the wings of restless birds. I
would step out onto the terrace, quickly closing the door behind me. The
wind was ceaselessly driving the snow over the crusted fields, filling
the deep footprints and diagonal tracks left from the previous day. I held
the soft plump cushion of fresh snow from the frozen railings. For a moment
it shimmered in my warm palm before turning into dripping slush.
More and more often I was denied
access to her room, and I spent those hours alone in my apartment. Later,
before going to sleep, I would pullout from the desk drawer several albums
filled with my photographs of her, carefully enlarged and painstakingly
pasted onto stiff cardboard. 'I would place these enlargements in a corner
of my bedroom and sit in front of them, recalling the events of the hospital
room and the images within the mirror. In some of the photographs she
was naked; now I had them before me, for myself alone. I looked at these
pictures as if they were mirrors in which I could see at any moment my
own face floating ghost-like on her flesh. Then I would step out on my
balcony. Around the sanatorium the lights from the windows touched the
snow, which no longer seemed fresh. I would gaze at the faint lights until
they began to disappear. From beyond the breadth and width of the valleys
and hills, streaked by wooded slopes, the moonlight lit up frozen peaks
and streams of vaporous clouds being lured from the shadows of narrow defiles,
A door clanged shut; a car horn sounded in the distance. Suddenly figures
appeared between the snowdrifts. They scrambled through the fields toward
the sanatorium, now and then lost, as if straining against the stifling
dust storm of a drought stricken plain.
Hai hôm
trước thấy mọi người khen món bún ốc nguội, bún
ốc nóng ở một chỗ là ngon nhất vịnh Việt Nam . Mình
tò mò mua về ăn thử . Nói thật một cách khiêm
tốn nhất ngon bằng 70 % mẹ mình nấu thôi nhé . Mình
cả 10 năm nay không ăn bún ốc của ai nấu vì không
ai nấu ngon bằng mẹ . Nịnh bà cho công thức Post lên
cho cả nhà tham khảo nhé . Bạn nào thích nấu
thử đi bảo đảm có món bún ốc thần thánh gia
truyền của cô giáo Thiện ( mẹ mình Hà Nội gốc
8 đời ) Nhé
Chuẩn bị nguyên liệu (...
Ui chao, đây là 1 trong những
món Bắc Kít, Gấu cực mê.
Về già, Gấu tự hỏi mi mê nó, tất nhiên
là do ngon, nhưng còn do 1 điều gì khác nữa,
đúng không?
Quả có thế.
Chỉ đến khi trở lại đất Bắc, thì Gấu mới vỡ ra được.
Le carrefour est familier comme un souvenir
Ngã
Sáu thân quen như 1 kỷ niệm hồng
như những lần lang thang nơi khu phố
nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm
thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán
sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau
một chiếc bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần
cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang,
có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết,
hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài, làm
sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên
lề đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê
ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa
trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách,
hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con
đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn
lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra
nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh
toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là
không bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện
đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được,
nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa
phùn, có gió bấc, có rét mướt, băng
giá, và nàng mang theo cùng với nàng
chút giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt,
nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa,
quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn,
những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu
ngạo muốn đạp đổ tất cả....
Déjà
la nuit ne retient plus ses yeux; ils plongent à cha-
que carrefour,
sécheresse flairant une prochaine pluie.
Déjà tous les chemins approchent,
même le chemin du miracle.
Le vent apporte l'aube engourdie.
L'aube est notre peur de faire des choses différentes
et elle
s'abat sur nous.
J'ai marché toute la sainte nuit
et l'inquiétude me laisse
dans cette rue comme les autres.
Voici encore au vague horizon
a certitude de la pampa,
le terrain vague se défaisant en touffes d'herbe et en fils
de
fer,
et l’almacén (1) clair comme la lune nouvelle
d'hier soir.
Le carrefour est familier comme un souvenir
avec ses longs soubassements et la promesse d'un patio.
Qu'il fait bon t'attester, rue de toujours, puisque ma vie
a
regardé si peu de choses !
Déjà l'air est rayé de lumière,
Mes années ont parcouru les chemins de la terre et
de
l'eau
Et mon coeur ne sent que toi, rue dure et rose.
Je doute si tes murs n'ont pas concu l'aurore, almacén bnilant clair vers le bout
de la nuit.
Je pense, et devant ces maisons
ma pauvreté trouve une voix pour s'avouer :
montagnes, fleuves, mers, je n'ai rien regardé,
mais la lumière de ma ville est mon amie,
et ma vie et ma mort en ont forge leurs verso
O grande rue, et rude sous l'épreuve,
voilà bien le seul chant que connaisse ma vie.
1. L'almacén (mot que nous retrouverons
fréquemrnent dans ce recueil) tient du bazar et de l'épicerie-buvene
: c'est un établissement des plus modestes. Sa facade est, ou
était, souvent peinte en rouge ou en rose. Jorges Luis Borges: Oeuvre
poétique 1925-1965. Mise en vers francais par Ibarra
Street with a Pink Corner Store
Gone into night are all the eyes from every intersection
and it's like a drought anticipating rain.
Now all roads are near,
even the road of miracles.
The wind brings with it a slow, befuddled dawn.
Dawn is our fear of doing different things and it comes over
us.
All the blessed night I have been walking
and its restlessness has left me
on this street, which could be any street.
Here again the certainty of the plains
on the horizon
and the barren terrain that fades into weeds and wire
and the store as bright as last night's new moon.
The corner is familiar like a memory
with those spacious squares and the promise of a courtyard.
How lovely to attest to you, street of forever, since my
own days have
witnessed so few things!
Light draws streaks in the air.
My years have run down roads of earth and water
and you are all I feel, strong rosy street.
I think it is your walls that conceived sunrise,
store so bright in the depth of night.
I think, and the confession of my poverty
is given voice before these houses:
I have seen nothing of mountain ranges, rivers, or the sea,
but the light of Buenos Aires made itself my friend
and I shape the lines of my life and my death with that light
of the street.
Big long-suffering street,
you are the only music my life has understood.
-S.K.
Vừa nhận được Lần Cuối
Sài Gòn trưa nay. Đọc trên chuyến xe
lửa từ nhà trở lại sở. Đọc thích thú. Đọc
chia sẻ. Và đọc, không biết tại sao, lại rất buồn,
có lẽ những thành phố anh đang gợi lại đã vĩnh
viễn ngoài chúng ta, có phải thế?
Hà Nội là một chiếc
bóng đằng sau Sài Gòn. Sài Gòn
là một chiếc bóng đằng sau hiện tại. Chữ gợi
lại chập chùng những bóng. Những người đã
từng có mặt. Những chỗ ngồi. Những góc đường. Những
tàng cây.
Mới cách đây vài
hôm, đọc lại Rilke, toàn bộ thư của Rilke
và tập Duino Elegies, vẫn còn bần thần, vì
nhận ra, quả là đúng, chúng ta vừa nhìn
cái gì, là lập tức cái ấy đã
là nội tại, là mất đi. Mọi thứ đều đã là
Lần Cuối. Chúng ta tới đây, như để có mặt,
một lần, nhìn, [hai chữ không rõ nghĩa], rồi qua
đi.
Đọc mới xong phần đầu của bút
ký, và thơ, đã đầy cả Sài
Gòn của một thời kỳ kỳ lạ, tan hoang, lãng
mạn, đổ vỡ, và bi tráng của nó.
Cám ơn anh đã gửi sách.
Đã cho một buổi trưa [chấn động như nhìn
xuống con nước Thị Nghè, trưa có mây
- hay là “trưa cỏ may”?- chiều nhiệt đới, mù trắng
xa xa Thủ Đức].
Vài hàng viết gấp kẻo
anh trông, sợ sách có thể đi lạc.
Sẽ đọc tiếp Lần Cuối tối nay. Anh
vẫn viết mạnh. Mong anh mãi được vậy.
TQ (1998)
1998
Trong số những nhà văn nhà
thơ hải ngoại, Gấu chưa từng quen biết, chỉ nghe đến tên,
chỉ đọc họ, những ngày đầu ra hải ngoại, lần ra sách
đầu tiên, cố tìm địa chỉ để gửi sách tặng, chỉ
có TQ là viết thư trả lời. Còn những tên
như nhà thơ ngồi bên tách cà phê,
không. Nhớ, lần đầu làm quen, gửi cho hắn 1 bài viết
về TTT, lúc đó hắn đang làm 1 trang báo, hắn
bèn tự nhiên như người Hà Nội, đăng liền, chẳng thèm
xin phép cái con mẹ gì.
Thời gian đó, hăm hở với giấc mơ
vá lại cái bướm nát tan của bướm Mít,
bản đồ Mít… như 1 ẩn dụ của Borges, Gấu bỏ qua hết,
báo nào cũng viết, nào gió đông,
nào cánh én, nào là ta là
gì, bị cả 1 bầy chó hải ngoại xúm lại tính
xẻ thịt con sói đơn độc, (1) bỏ qua hết, chỉ đến khi biết
rằng vô phương, vô ích, chỉ đến khi đó,
mới làm trang Tin Văn, hy vọng 1 thân 1 mình
làm được điều không 1 tên Mít nào
làm được, đâu có phải tự nhiên mà
vị bằng hữu K chúc,
đừng để ý đến bất cứ tên nào, tẹt kệ cha
tẹt, lõ kệ cha lõ, chỉ làm thơ thôi!
Bằng hữu mà biết đến tận gan tận
ruột Gấu như thế, nhờ làm trang TV mà có
được, thì quá xứng đáng 1 đời lưu vong
rồi, còn đòi hỏi gì nữa?
Hà, hà!
(1)
Chôm từ 1 bài viết về DTH, trên báo
Tẩy
La
louve solitaire de Hanoï
Manuel Carcassonne
16 février 2006
Nam Định 1954 - Các bà quả phụ than
khóc bên mộ chồng là những binh sĩ Việt
đã ngã xuống. Đây là một trong những
bức ảnh sau cùng của Capa.
INDOCHINA. Nam Dinh. 1954. Indochina widows with
their children grieving at the graves of their fallen husbands.
This image was one of Capa's last pictures.
Nhờ Khanh Viet Nguyen
nhắc, Hoàng Oanh mới nhớ lại trong một Đại nhạc hội
ở Texas năm 2000, Hoàng Oanh trình diễn bài
hát Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc của nhạc sĩ
Phạm Duy. Khi bài hát chấm dứt, có một thanh
niên lên sân khấu tặng hoa và cảm ơn Hoàng
Oanh vì đã hát bài hát vinh danh
người cha của anh là cố Đại tá Không quân
Phạm Phú Quốc.
Đây
là một trong rất nhiều kỷ niệm trong đời ca hát
của Hoàng Oanh.
Đọc stt này, thì
bèn nhớ cái thời mới lớn, mê nhạc, mê
ca sĩ, mê bản nhạc do ca sĩ mình mê, hát.
Và cái bài hát mà Hoàng
Oanh, ca sĩ học trò, như lúc đó được gọi, vì
cứ áo dài, đứng hát thật nghiêm chỉnh, và
bài hát
được mê, là Hoa Soan Bên Thềm Cũ.
Có những đấng chạy sô y chang nữ ca
sĩ chạy sô, nghĩa là, nghe xong Hoa Soan ở phòng
trà này, thì vội vàng chạy qua phòng
trà, lại chỉ để nghe Hoàng Oanh hát, Hoa
Soan Bên Thềm Cũ
Norman Sherry, trong bộ ba khổng
lồ, Cuộc Đời Greene, có
đưa ra nhận xét, anh phóng viên Mẽo nào,
trên đường tới Việt Nam, vào những năm tháng
nóng bỏng đó, đều lận lưng một bửu bối, là cuốn
Người Mỹ Trầm Lặng.
Trong truyện ngắn, gần như là một thứ tự truyện,
Cõi Khác,
Gấu đã lầm, khi nghĩ rằng, mấy anh Mẽo này mơ tưởng
viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam có vóc
dáng Mặt Trận
Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh của Remarque.
Tại sao lại có sự "lầm lẫn"
như thế? Liệu có phải Greene hơn Remarque? Gấu vẫn thường
tra vấn mình, và sau cùng, nhân đọc một
số tác giả, trong số đó, có Steiner, Benjamin,
Milosz... và ngộ ra là:
Sau Remarque, hay rõ hơn, sau Đệ NhấtThế Chiến,
không thể có một Mặt Trận Miền Tây nào,
cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn chấm dứt thứ
tiểu thuyết viết về chiến tranh như cuốn của ông. (1)
Đây là điều những nhà
phê bình nước ngoài nhận ra, khi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, và
coi nó cao hơn Mặt Trận
Miền Tây. Cao hơn không phải là do Bảo
Ninh có tài hơn, mà là, chiến tranh, con
người, ở trong Nỗi
Buồn Chiến Tranh khác với chiến tranh, con nguời như được
miêu tả trong Mặt Trận Miền Tây.
Tiếp theo đó, cũng thế, số phần của Greene,
là phải viết Người Mỹ Trầm
Lặng. Những so sánh nhắc nhở tới ông, là
vì ai cũng muốn được như... ông.
Toan tính rõ rệt nhất,
và, thất bại rõ rệt nhất, là trường hợp cuốn
Thời Gian Của Người
của Nguyễn Khải. Nó thất bại, là
do muốn hay hơn cả Người Mỹ Trầm Lặng,
theo nghĩa, lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của
cả con người lẫn cuộc chiến, và nhất là của con người,
như là một tên điệp viên. Nó thiếu cái
phần sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà văn Ky Tô
như Greene, [so với một nhà văn Cộng Sản như Khải], khi ông
tuyên bố:
“Tôi phải kiếm cho ra một tôn
giáo để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi tôi”.
Nhân vật Quân [hoá
thân của Ẩn,] trong Thời
Gian Của Người "thánh thiện quá" [theo nghĩa
thép đã tôi thế đấy], nhà văn như Nguyễn
Khải, một lòng một dạ biết ơn Đảng, viết dưới ánh sáng
của Đảng, thành thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng như
Gide nói. [Những tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ văn
chương tồi].
Một cách nào đó, cuốn Người Mỹ Trầm Lặng có một vị thế
[position,status], của cuốn Bóng
Đêm Giữa Ban Ngày của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó, vụ án
của thế kỷ.
*
"Đại tá Edward Lansdale - người được coi là
khuôn mẫu cho nhân vật chính trong Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene".
Bass
Một anh Xịa cáo già
như Lansdale làm sao lại có thể là nguyên
mẫu cho một Mẽo gà mờ cù lần như nhân vật Pyle
trong Người Mỹ Trầm Lặng?
Như Norman Sherry cho thấy, Pyle
là tổng hợp của nhiều người. Có cả Lansdale trong số đó.
Nhưng Sherry chứng minh, Pyle bản chất là một anh Hồng Mao: Pyle is
straight out of a good quality public school - in essence he isEnglish.
Có thể Ẩn giống Pyle, theo
nghĩa này, bản chất của anh làmột Cộng Sản. Một người Bắc vô
Nam trước 1954 và là một Cộng Sản, làm việc
cho Bắc Bộ Phủ.
Đây là sự khác biệt giữa Trung
[phi công ném bom Dinh Độc Lập] và Ẩn.
Trung là một con người, với
lòng hận thù rất con người của anh. Có thể,
chuyện anh ta theo CS chỉ giản dị như thế này: Tụi bây
giết cha tao, tao thù tụi bay, tao theo Cộng Sản, chủ nghĩa
đó tốt xấu tao đếch cần biết, nhưng chắc chắn, nhờ nó,
tao sẽ trả thù được cho cha tao.
Ẩn, không. Anh chẳng thù hằn gì
cái miền đất đã nuôi dưỡng anh, nhưng, có
thể, anh tin rằng, miền đất này sẽ còn khá hơn
thế nhiều, nếu nó được Bác và Đảng chăm lo. Cái
tay Hoàng Tùng [?] dâng Đất Thục, cho, hết Tào
Tháo đến Lưu Bị, đâu phải hắn là một tên phản
quốc khốn kiếp! Hắn nghĩ rằng, như vậy là tốt cho Đất Thục!
Có thể Cao Bồi đã nghĩ như vậy, khi
"nằm gai nếm mật", ăn cơm quốc gia, giả đò làm việc
cho Mẽo, nhưng thực tình thì là một con ngựa
Hồ hướng về, hí về... Đất Bắc! Tâm sự của anh là
như vầy:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!
*
Anh George yêu quí của
Em, Em muốn cầu xin Anh một điều
mà không một người đàn ông phong nhã
nào có thể chấp nhận. Em muốn trở lại với Anh. Em hiện đang ở khách
sạn Baur-au-Lac ở Zurich
tới cuối tháng. Em trông tin Anh Ann
Cú ngửa tay xin tiền
bạn cũ của PXA phải nói là cú tối tối độc, bởi vì,
với cái tội để mất Miền Nam, rồi để mất cả nước, rồi đẩy
cả nước xuống biển, rồi đẩy cả nước vô cơn băng hoại không
làm sao ra thoát [Gấu tin là vô phương!],
biến cả thế giới thành bãi đánh hàng nữa
chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi ông đánh
bức điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có
cờ rồi, chúng không có lý do nào
để trở lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!
Không có bức điện
của PXA, có thể tình hình khác đi.
Hơn ai hết, là một tổ
sư cớm nằm vùng, như con cú từ trên cao nhìn
xuống, ông quá rành điều này, như Ngọa
Long ngày nào nằm khểnh trong lều tranh, mà
biết thiên hạ sẽ phân ba.
PXA biết, nhưng không
biết, cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu
quá, đã mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền
Nam cũng đã mấy đời rồi, trong cứt không còn
một tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái tim
ông hoàn toàn là Bắt Kít, một thứ
Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là cái chân
lý tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến cả nước thành
một Miền Nam tuyệt vời.
Trong ông Cái Ác
Bắc Kít kể như không còn.
Vào những giờ phút
cuối cùng, ông đi không được, là vì
những chuyện đó, chắc chắn như vậy. (1)
Cái nước mình nhỏ
thiệt, bão ở đâu đâu mị ngoài Bắc mà chót
Mũi cũng mưa tối mắt. Ai đó trong mấy anh ngồi uống trà chiều
ở cái chòi sửa xe, nói bâng quơ ngó chuỗi
mưa xiêu xẹo. Sáng đến chiều vẫn một màu trời âm
u đùng đục, đầu đêm đến cuối đêm một thứ âm thanh
rả rích. Tôi lánh cái nhìn vô cái
pitong lửa leo lét cháy ép vá vỏ xe bị đinh đâm
lủng, ứ hự nghĩ tới phải đội mưa đi đón hai nhóc con. Anh vá
xe một tay đưa võng cho đứa thứ hai ngủ, tay kia ẵm lủng lẳng đứa
sau, nói “tối nay bão vào quê, không biết
thằng em chống chọi sao rồi”.
Tin báo bão trên đài nói
rằng nó ráo riết nhắm hướng Tiền Hải, anh vá
xe rầu. Năm trước nhà em trai anh bị bão dỡ một lần,
vừa vá xong đận này chắc là lại rách. Nhiều
năm nay anh không về quê. Tháng Bảy này năm
ngoái, anh mất đứa con trai đầu lòng khi nó đi
xúc cá bị chết đuối. Khi người đàn ông này
dắt díu vợ di cư đến mảnh đất mút ngọn miền Tây, đã
không bao giờ nghĩ mình sẽ vùi cốt nhục ở đây.
Lần nào ghé căn chòi sửa xe này, tôi
có một chút khó thở. Không hiểu vì trà
Bắc chát đắng hay nhớ thằng bé người ta từ dưới đáy
ao hoang đằng sau trạm xăng lên, nhớ hình ảnh thằng bé
mười tuổi mà tôi vẫn thấy hay đi mua kẹo ở tiệm tạp hóa
gần nhà, vắt đứa em gái trên cái hông
mỏng te bén lẹm xương của nó.
Hồi còn nhỏ, tôi có nhiều kỷ niệm
với những người Bắc di cư vào. Tiệm gạo nhà tôi
cất ngay cửa ngõ vào cái xóm Hà
Nam Ninh. Họ ở co cụm, như thể để thỏa nhu cầu nghe tiếng nói
quê nhà ới ơi mỗi buổi sớm. Mùa mưa, xóm
lụn trong nước và lau sậy. Những con ngỗng giữ nhà rướn
cổ ném cho khách những tiếng kêu đầy ác cảm.
Sân nào cũng đầy dấu chân của vịt, gà. Những
thùng nước cơm cặn lặc lè yên sau xe đạp. Cô
giáo dạy văn mà tôi thương nhất. Con bạn cùng
lớp cạnh tranh vị trí nhất nhì. Vài chị là
mối mua gạo cám của tiệm nhà tôi. Những con người
ấy làm tôi thắc mắc cái xứ sở mà tôi
gọi là nước Bắc không biết gần hay xa. Chắc xa, họ gọi
chén bát lung tung xèng, phở thì không
rau giá, canh chua không nêm đường, cà đem
muối trong chum, bánh tét lại vuông. Chắc xa, năm
bảy cái tết họ mới về quê một lần.
Nhưng những cơn mưa dầm tháng tám làm
tôi thấy họ gần mình. Bởi những cái thở dài
không phân biệt tập quán và quê
xứ. Dù họ lo lắng giông bão phía quê
nhà, tôi rầu đơn giản chỉ là mưa thấy rầu thôi,
nhưng chắc là cộng cảm theo kiểu ai ra mưa cũng ướt, ai ở dưới
trời này cũng phải chịu những cơn mưa rũ rượt. Cùng một
nỗi buồn nhà dột, bán buôn ế ẩm, cơn cảm cúm
mũi dãi chảy sụt sùi.
Những cuộc đi mê miết đã làm nhòa
những lạ lẫm của người Nam nhìn kẻ Bắc. Cửa hàng bán
đồ Bắc xuất hiện nhiều thêm trên nội ô thành
phố. Nhưng phở gia truyền Hà Nội cũng rau giá đầy vun,
bánh cuốn gia truyền Hà Nội với nước chấm pha đường ngọt
lịm. Tết, nhà họ cũng có nồi thịt kho tàu. Lâu
lâu trên đài địa phương có phát biểu
của một ông giọng miền ngoài mà bắt đầu bằng mấy
chữ ‘thưa bà con,”. Mấy em cộng tác viên gốc Bắc viết
truyện ngắn gửi tạp chí văn nghệ dùng phương ngữ miền tây
ngọt sớt. Những thế hệ thứ hai, thứ ba đã dạ thay cho vâng.
Anh thợ sửa xe nói, từ khi không còn cha mẹ già
ngoài ấy, thì loay hoay chỉ trung thu và tết mới
thấy nhớ quê, dợm muốn về. Miền Tây không có
cái không khí lễ hội của trăng rằm và dịp đầu
năm. Nhưng từ mất thằng nhỏ, cất bước đi đâu cũng khó.
Anh bỏ sót mưa. Dải đất nằm nghiêng theo
biển, nghe mưa dầm dề là biết có áp thấp nhiệt
đới gần bờ, không tạt vô trung thì ra bắc. Mùa
mưa phương Nam trùng với mùa bão lũ ngoài
kia. Mưa buộc người lang bạt lại với cái gốc rễ tưởng đã
bứt lìa. Anh hỏi vợ ghi số điện thoại của thằng em ở quyển sổ
nào, quên mất.
Giữa cơn mưa gió ẩm ê, những cuộc gọi
từ cuối đất phập phồng theo cơn bão ở chân trời.
Blog Sầu Riêng
Nhắc đến Cao Bồi “nằm gai nếm
mật” bao nhiêu đời, nhân đọc NNT, bài viết
thật tuyệt, nhưng bị mấy cái lỗi “hỏi ngã”, tiếc
quá, bèn sửa, và post lại ở đây.
Cũng 1 cách “buộc người lang bạt…”
Hà, hà!
Tiện thể. Trên trang Gió O của bà
Huệ, "hỗ trợ", không phải "hổ trợ".
Lại nhớ Gấu Cái.
Hồi Bả "tập" viết văn, chỉ cho phép Gấu sửa
lỗi chính tả, cấm sửa văn, cho "còn nguyên"
mùi Nam Kít, không bị pha tạp!
Link ở đây, để lỡ GCC
vội - "đột xuất", chữ của Vẹm - đi xa, Gấu Cái/Jennifer Tran
thông báo độc giả TV, giùm.
Bả không biết làm sao post trên
Tin Văn!
Em còn
nhớ hay em đã quên?
Nhớ Sài gòn những chiều lộng gió
Lá hát như mưa suốt con đường đi
Có mặt đường vàng hoa như gấm
Có không gian màu áo bay
lên
Note:
Thần sầu! Mỗi lần nghe, là Gấu lại nhớ đến bài viết
của Borges, về những tiền thân của Kafka, về "một vài
người sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn đường
xe lửa và những tuyến đường lớn, nhưng chết mà chưa từng
toan tính một lần rời xa tỉnh nhà."
TCS
là thứ người đó, ông không thể xa Sài
Gòn, đành ở lại, ôm lấy nó, cho tất
cả chúng ta!
Có
lần Gấu phán ẩu, nhưng thật đã, thật đúng,
cái hồn văn chương Miền Nam
ở trong những bản nhạc sến là thế. Nhạc TCS thì cũng
thứ nhạc sến, hiểu theo một nghĩa nào đó.
Cái sến nhất của nó, là làm
người ta quên cuộc chiến, trong khi nhạc lính, ôm
lấy nó. (b)
INTERVIEWER In your
interview with Gordon Lish in Genesis West, you say that
there are two kind
Saigon after Tet 1968
- Photo by Philip J. Beaver - Đường Trương Minh Giảng
phía bên trái
là chợ Trương Minh Giảng, bên phải là ĐH
Vạn Hạnh (cả hai đều nằm ngoài hình).
Hình G0894: Xe thiết
giáp dẫn đường của Đại đội C, Tiểu đoàn 720 Quân
Cảnh trong đoàn hộ tống đoàn công-voa
đi xuyên qua trung tâm Saigon, ngay sau cuộc Tổng tấn
công Tết 1968 của Cộng sản.
Photo G0894: C Company, 720th
MP Battalion lead Armored Personnel Carrier, C102 on the Tay
Ninh Convoy escort through Saigon, South Vietnam just after the
1968 Tet New Years Communist Offensive. Courtesy of SGT Philip J.
Beaver, A Company, 720th MP Battalion, 89th MP Group, 18th MP Brigade,
August 1967 to August 1968.
Source: History of the 720th
APC's In Vietnam
720mpreunion.org/history/vehicles/apc/history.html
Phiá sau, bên
phải là Đại Học Vạn Hạnh. Phía trước, đi quá 1
chút nữa, là hẻm nhà Joseph Huỳnh Văn, quá nữa là Cổng Xe Lửa số 6.
Bên trái, là nhà thờ, hẻm nhà
Ngọc Dũng, hẻm nhà ông anh rể Hiếu Chân.
TTT có viết 1 cuốn tiểu thuyết
dài, từ khu này, Đêm
Xóm Lách Mịt Mùng, nhưng bỏ dở.
Bài này,
nữa, nằm trong loạt bài viết song song với BL
Buổi sáng mùa đông
ngây ngất, trưa còn xa.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên
vỉa hè nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp.
Bếp Lửa
It is a mistake to think of Oliver
Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens
learn how to write realistically of human beings; at the beginning
he invented life... these characters in Oliver Twist are simply
parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called
"the cold wet shelterless midnight streets of London."
Graham Greene: The Young Dickens
Thật lầm lẫn khi coi Oilver
Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ muộn màng
trong nghề Dickens mới đành phải học, làm thế nào
viết về những con người một cách hiện thực; lúc thoạt
vào nghề, ông phịa ra cuộc đời... những nhân vật
trong Oliver Twist giản dị chỉ là những phần của
một khung cảnh lớn được bịa đặt ra, mà, trong lời mở đầu của
chính tác giả, ông gọi là "những con phố
nửa đêm không nơi trú ẩn, ướt, lạnh của London".
G. Greene: Dickens trẻ
Tôi tin rằng, những người Hà Nội bây
giờ, đọc Bếp Lửa, sẽ nghĩ, đây là
một chuyện phịa, theo nghĩa, không hiện thực!
Tôi tự hỏi, đoạn văn trên có ảnh
hưỏng tôi không, bởi vì chắc chắn tôi
đã đọc Bếp Lửa, trước khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn.
"Hà Nội... tiếng khóc nức nở của một
cô gái đi chợ bán rau muống sớm, bị Tây
hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy
một thân hình rũ rượi, một dòng nước nhờn lẫn máu
chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ quạng tìm cách che
bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc. Tiếng rên
rỉ của một người đàn ông ăn mặc khác thường bị trúng
đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa đường phố, đứa bé bật khóc
nức nở, không phải sợ hãi, không phải…"
Những ngày thì ở Sài Gòn,
nhưng những kỷ niệm, thì là của Hà Nội. Chính
vì vậy, mà một ông bạn mới quen sau này,
ở hải ngoại, khi đọc xong tập truyện đầu tay của Gấu, đã lắc
đầu: Treo đầu dê bán thịt chó!
Về cái vụ cô gái bán rau
muống bị Tây hiếp, Gấu nghe ông cậu, cậu Hồng, cùng
tuổi Gấu, con Bà Trẻ, lúc đó cũng trọ họ ở
Hà Nội, nơi nhà chị Giậu, vợ ông Hiếu Chân,
tại Bạch Mai, kể lại. Thực sự Gấu không tận mắt chứng kiến.
Người đàn ông bị giết nằm ngay bên
đường xe điện cũng nghe kể lại.
Cộng, kỷ niệm thực với hồi ức đọc, ra đoạn văn của
Gấu, chắc thế.
Nhưng bị thằng bé đánh giầy chơi mất
chiếc mũ dạ, là có thật. Đến bây giờ, về già,
lâu lâu trong giấc mơ, vẫn còn trở lại:
[Khúc này
Hải Âu mê lắm, hà, hà!]
Nhà tôi ở Bạch Mai,
gần ngay bên đường xe điện... Một lần trốn vé xe, tôi
cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng
để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói,
nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua
vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc
béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm
cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc
bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh
mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn
chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc
đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú.
Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một
đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi
hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh
giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát
thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng
tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên,
và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn
tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn
tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào
thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người
soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó
đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường
nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám
nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi
nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó
nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn
tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi
thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu
tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng
thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ
sợ nó nhận ra tôi. Những con dã tràng
*
Đoạn văn tả cuộc nói chuyện
giữa ông Chính và Tâm, và nói
rộng ra, toàn thể chương I của Bếp Lửa, đã tiên đoán,
sửa soạn cho mọi biến động diễn ra sau đó. Tất cả những nhân
vật quan trọng đều xuất hiện, và nhất là, hồn ma của
một bà mẹ, cũng xuất hiện. Nhưng không thể thiếu nhân
vật, tuy thứ yếu, nhưng đóng vai xúc tác, không
có là phản ứng hóa học không thể xẩy ra.
Nhân vật xuất hiện chỉ một lần rồi bỏ đi vĩnh viễn, bởi đã
hoàn tất phần số của nó: Mưa.
Mưa Hà Nội.
Tác giả, miêu tả những xúc động
của hai nhân vật, hai thế hệ "gần nhau nhất cũng không
thể hiểu nhau", bằng âm thanh, cường độ của trận mưa.
Chi tiết là Thượng Đế ở trong
văn chương là như vậy.
Bạn nào đã từng xem
phim OK Corral, chắc là còn nhớ,
trước khi xẩy ra trận thanh toán, nhân vật chính
ra thăm thú nơi mình có thể chết. Như tình
cờ, anh ta châm ngọn đèn dầu trên chiếc xe. Khi
trận đấu súng xẩy ra, anh ta bắn vô cây đèn,
chiếc xe bốc cháy, đám người ẩn sau nó phải chạy
ra.
Trong phim Shane, hình ảnh
con chó từ từ rời khỏi chỗ, nhường sàn gỗ cho hai
tay đấu súng.
Mưa trong Giã Từ Vũ Khí
của Hemingway.
Bùn trong Bẩy Hiệp Sĩ, Seven Samourai...
Với bậc thầy, cái sự sửa soạn
mới là cần thiết, mới là quan trọng.
Trong Kim Dung, Lãnh Nguyệt Bảo
Đao, cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa Miêu Nhược Lan và
Hồ Phỉ, xẩy ra, khi ông bố Miêu Nhân Phượng bế con
gái chạy theo vợ, bỏ đi theo trai, đuổi kịp tại Thương Gia
Bảo khi tất cả mọi người bị cơn mưa cầm chân. Cô bé
khát sữa mẹ, khóc ngất, bà mẹ rời tình
nhân, đi vài bước tới tính cho con bú, nhưng
tàn nhẫn quay ngược lại, ngồi xuống kế bên đống lửa, kế
bên anh bồ đẹp trai. Thằng oắt Hồ Phỉ cáu quá, chạy
ra mắng, tại sao lại có người đàn bà tàn
nhẫn như thế, Miêu Nhân Phượng nhìn, nản quá,
bèn bế con trở về, tha cho cả hai.
Sau đó, trong lần gặp sau cùng, cô
nói với anh: Tôi sẽ không như mẹ tôi đâu.
Như thể, cô nhìn thấy và còn
nhớ hoài, cảnh tượng lần đầu gặp nhau tại TGB.
Cuộc gặp gỡ giữa cô bé còn nằm
trong nôi, với người yêu còn là thằng
nhóc tì làm Hai Lúa nhớ đến bài
ca dao sau đây.
Sao Vua chín cái nằm kề, Thương
Em từ thuở Mẹ về với Cha. Sao
Cày ba cái nằm ngang, Thương
Em từ thuở Mẹ mang trong lòng. Sao
Vua chín cái nằm chồng, Thương
Em từ thuở Mẹ bồng trên tay. Sao
Cày ba cái nằm xoay, Thương
Em từ thuở Em hay khóc nhè.
Và nhớ luôn cả vẻ mặt
của ông bạn thân, và còn là người
đưa thư, khi thấy thằng bạn mình mê BHD:
-Làm sao mà mày có thể
mê nó? Tao đã từng thấy nó ỉa đùn,
từ trên đầu cầu thang chảy xuống tới mãi mấy bực bên
dưới hồi nhà nó còn ở đường PDP.
Nhưng cái kỷ niệm sau đây,
nhờ NTV mà Gấu nhớ lại được, thì thật là
tuyệt vời, chưa kể cái kỷ niệm, lần cả hai đứa xém
chết vì lên xóm
John
Le Carré, Gấu cũng tự mình khám phá
ra, cũng một cú tự sướng, lần ghé tiệm Xuân
Thu, kế bên Quán Chùa, tình cờ cầm lên
cuốn L’espion
qui venait du froid, Gián điệp về từ miền lạnh, vừa
đọc đến ‘du froid’ một phát, là lạnh run người, con vai-rớt
Bắc Kít, bật nhỏm dậy, bao nhiêu sợi nắng, sợi mưa
Sài Gòn cũng chịu thua, hà, hà, đúng
là tâm trạng đó, cú mặc khải đó,
khi Gấu bập vô cuốn truyện.
Rồi mò tới Gọi người đã chết, bản
tiếng Tây, loại sách bỏ túi đóng dấu
IC, giá tiền bằng giá tại gốc,10 đồng, tiền ông
Diệm, đọc thì đọc, nhưng không cảm.
Phải tới khi vô nhà tù quốc tế
Bangkok, nhờ bản tiếng Anh, của một tay thanh niên người Mã
Lai, nằm kế bên, thì mới thấm đòn, và nhận
ra, đây mới là cuốn hiển hách nhất của Le Carré.
Ui chao,
bạn đọc đoạn sau đây, khi Smiley bị vợ bỏ, ông bạn
VC người Đức tên Dieter thì lại tha thứ cho anh, không
thèm làm thịt, và gieo mình xuống sông
Tà Mi tự trầm, rồi nghĩ đến những thân phận PXA, thí
dụ, bị chính cái Miền Bắc của anh bỏ rơi, sau khi vắt
sạch, chết không nổi, cứ ngắc nga ngắc ngoải, vì địa ngục
chật quá rồi, và cỡ như anh, Diêm Vương cũng lắc
đầu không dám nhận, hay nghĩ đến thân phận thằng cha
Gấu, cũng sắp đi rồi, mà đi về đâu, về đâu… hà,
hà?
Smiley put this on one
side and turned to the next letter. Just for a moment he did not
recognize the handwriting; just for a moment he looked bleakly
at the Swiss stamp and the expensive hotel writing paper. Suddenly
he felt slightly sick, his vision blurred and there was scarcely strength
enough in his fingers to tear open the envelope. What did she want?
If money, she could have all he possessed. The money was his own, to
spend as he wished; if it gave him pleasure to squander it on Ann,
he would do so. There was nothing else he had to give her - she had
taken it long ago. Taken his courage, his love, his compassion, carried
them jauntily away in her little jewel case to fondle occasionally
on odd afternoons when the time hung heavy in the Cuban sun, to dangle
them perhaps before the eyes of her newest lover, to compare them even
with similar trinkets which others before or since had brought her. My darling George. I want to make you an
offer which no gentleman could accept. I want to come back to
you. I'm staying at the Baur-au-Lac
at Zurich till the end of the month.
Let me know. Ann Smiley picked up the
envelope and looked at the back of it: 'Madame Juan Alvida'. No,
no gentleman could accept that offer. No dream could survive the daylight
of Ann's departure with her saccharine Latin and his orange-peel grin.
Smiley had once seen a news film of Alvida winning some race in Monte Carlo. The most repellent thing
about him, he remembered, had been the hair on his arms. With
his goggles and the motor oil and that ludicrous laurel-wreath
he had looked exactly like an anthropoid ape fallen from a tree.
He was wearing a white tennis shirt with short sleeves, which had
somehow remained spotlessly clean throughout the race, setting off
those black monkey arms with repulsive clarity. That was Ann: Let me
know. Redeem your life, see whether it can be lived again and let
me know. I have wearied my lover, my lover has wearied me, let me
shatter your world again: my own bores me. I want to come back to you
... I want, I want ... Smiley got up, the letter
still in his hand and stood again before the porcelain group. He remained
there several minutes, gazing at the little shepherdess. She was so beautiful. * Đoạn hai tay kẻ thù
bạn cũ đụng độ trên cầu, trên sông Ta Mì,
cũng thật là tuyệt cú mèo: Anh ta [Dieter] đi rồi,
bầy mình ra, như một sự hy sinh của con người cho sương mù
London và dòng nước khùng điên, đen ngòm
ở bên dưới... [He was gone, offered
like a human sacrifice to the Lodon fog and the foul black river
lying beneath it.] Chắc là đành
phải 'như một cú hi sinh con người', và lụi cụi dịch
hết cuốn truyện này thôi !
- Mỗi người, ông và
nàng, cầm một đầu tấm thảm. Nàng ngửa mặt ra phía
sau, vung cao hai tay như trên một cây đu, nàng
quay đầu để tránh bụi bay mù, nàng nheo mắt
và cười ha hả phải không? Phải vậy không ông?
Tôi biết thói quen của nàng quá mà?
Sau đó hai người đi lại phía nhau, gấp tấm thảm lại
thoạt đầu gập đôi, sau đó gập tư, và trong lúc
làm việc đó, nàng luôn miệng nói
đùa và nô giỡn chứ gì? Phải vậy không
ông? Phải vậy không ông? Bác sĩ Zhivago [VN thư quán] Đây có
lẽ là đoạn tuyệt vời nhất, ít ra là với Gấu,
của cuốn tiểu thuyết. Anh chàng VC Nga,
Người Thép, Strelnikov, bị Đảng săn lùng làm thịt,
trở về căn nhà ngày nào của mình, gặp Zhivago.
Hai người đàn ông tranh nhau nói về người đàn
bà. Câu văn trên
Gấu đọc, là nhớ liền, không làm sao quên
được. Có một cái
gì đó, ở trong câu văn, một hình ảnh
nào đó, làm Gấu nhớ hoài. Chỉ tới khi về già,
Gấu mới hiểu. Gấu đã từng tưởng tượng ra cảnh này.
Bạn
đọc Tin Văn thử đoán coi?
Chắc là thua. Đọc đoạn trên, là Gấu nhớ đến lần
nhờ một anh bạn đem thư cho BHD, anh ta vô nhà, mải nói
chuyện với ông anh của BHD, quên mẹ thằng Gấu ở ngoài,
khi ra về, thấy Gấu thật là tang thương xơ xác trên
chiếc xe đạp, chờ như chờ từ ngàn ngàn kiếp!
Để chữa... quên, anh ta còn lầu bầu, tao bị em của
mày sai như nô lệ, anh V, giúp em khiêng
cái giường!
Chả là em mới dọn nhà.
Ui chao, cứ nghĩ đến cảnh được phục vụ em, mà thèm!
(1)
(1)
Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè
Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi. Cú trước khủng
khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra đi. Một
ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali,
thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn bèn
đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng thêm
bực mình. Và bèn mail trả lời ông bạn,
cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu, sẵn
bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương
cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình,
nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho
một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông
Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao
biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi
vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả
lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử...
tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán của
mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm
thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu
dặn, vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho
tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải trò
chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên ngoài,
khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều,
tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên
chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê lương
không thể nào tưởng tượng được.
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là
đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn
đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...
chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn
cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó
không thèm cất đi, mà lại để ngay trên
bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà,
từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay, khiêng
cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ ông via của nó
bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của mày
coi tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng cái giường
cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm
thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược, mặt
mày méo xệch?
Sướng chưa! Kỷ niệm
Note: Thi
sĩ Hà Tuệ còn là thính giả đầu tiên
nghe thơ TTT được phổ nhạc, ở trong nhà tù VC
Đầu năm 78 ở Lào Kay
lần đầu tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ
tôi viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê
ngoại sống, không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi
như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩ viết
vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi
Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không
còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi
bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền: Trong Đất Trời Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa
Xuân 1998].
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong
nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo
anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào
đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song
tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá
heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình minh anh kêu khẽ
cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng
tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối
thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền Thơ Ở Đâu Xa
Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ
Ý.
Ghi chú của người sao lục:
Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua
thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo,
đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa
bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả [Thính giả?] đầu tiên của bài
thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham, như tác
giả Nắng Hồng Phương Nam cho biết.
Trong đất trời nhau, là từ
thơ Mai Thảo: Trong đất trời nhau mình vẫn gần. Biết tin
anh đi xa, là để chỉ Mai Thảo đã vượt thoát.
Quê ngoại là hải ngoại.
... Hôn thụy, ngủ mê, như Gấu tôi
được biết, là chữ của Tô Thuỳ Yên, khi chuyển
từ "coma" [hôn mê] sang tiếng Việt. Trong một lần hai
anh em ngồi Quán Chùa, TTT tâm đắc với từ này,
và gật gù, 'luý' dịch từ này, hay thật!
Nhưng phải đợi đến đầu năm 87 ở Lao Kay, lần đầu tiên
nhận được tin nhà, biết Mai Thảo đã vượt thoát,
Thanh Tâm Tuyền mới chợt tỉnh giấc hôn thụy, và
chúng ta mới thấy hết ý của lời khen của TTT dành
cho bạn mình là Tô Thuỳ Yên [luý dịch
hay thật!].
Một lời khen biến thành một lời tiên tri,
cho số phận của ba nhà thơ.
- Mai Thảo, chắc chắn là nhận ra được lời nhắn
gọi của bạn mình [Trong thơ tui có thơ anh], nên
đã trở lại với thơ, nhờ vậy chúng ta có Ta Thấy
Hình Ta Những Miếu Đền.
- Tô Thuỳ Yên tiếp tục làm thơ, và
có Ta Về.
- Thanh Tâm Tuyền, có Thơ Ở Đâu Xa.
Toàn bài thơ là từ "chợt tỉnh giấc
hôn thụy", mà ra:
Sáng nay, thức giấc, nhà giam
Nhớ thơ làm hồi trẻ
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo.
Cũng qua cơn hạn khác thường...
Note: Bài thơ này, Gấu mê nhất,
trong Thơ Ở Đâu Xa
Em, em có hay kẻ tội đồ
biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng
tối sâu thẳm
une fois achevée, l'oeuvre écrite
témoigne de la dissolution de l'auteur
Que l'histoire de la subjectivité en Occident
ait toujours été la chronique d'une disparition
annoncée, d'une disparition qui n'en finit pas de se produire,
semble se confirmer définitivement. Pour l'heure, il ne
s' agit que d'une chronique qui va de Montaigne a Blanchot, sans
que, bien sur, il faille forcément en déduire que cette
histoire ne se déroule qu'en France. II n'y a pas longtemps,
Jose Luis Pardo disait au sujet des excellents travaux menés
par Christa et Peter Burger sur la disparition du sujet : « Sur
ce point, l'histoire ne commence pas avec la naissance du sujet ni
ne se termine avec sa mort ; c'est l'histoire de la facon dont la tendance
du sujet occidental à s' affirmer soi-même comme
fondement le conduit à une étrange volonté d'annihilation
de soi, et de la facon dont ces tentatives suicidaires sont, à leur tour, des tentatives d'affirmation
du moi.»
Nous sommes done confrontés à 1'histoire
d'une disparition ambigue et qui n'en finit pas de se produire.
Parce que, en ce bas monde, personne n'a encore disparu et,
en même temps, tout le monde l'a fait. Le premier a s'en
aller fut Dieu, joyeusement enterré par Nietzsche. Pourtant
il est bien là, tout a fait vivant, remuant la queue, ranimant
le feu de la Maison Blanche. Quant à l'homme, on a dit de lui
qu'il embolterait le pas à Dieu et que lui aussi s'effacerait,
on a annoncé amaintes et maintes reprises «1a mort du
sujet », il n'êmpeche qu'aujourd'hui, l'histoire des lettres
occidentales, la passion de disparaitre, se produit à l'intérieur
du sujet en même temps que ses plus retentissantes manifestations
d' affirmation. Écrire pour disparaitre, dirait Blanchot, qui
est celui qui a réflechi à ce problerne jusqu'au vertige
; il s' est promné avec l' écriture de la disparition à
l'extrême bord de l'abime, conscient que tout, absolument tout,
s'effacera. Lui-même s'effaca, disparut des accessoires actuels
du monde littéraire et fut conscient de l'horreur d' écrire
pour être photographié. Quoique, comme dit Antoni Mora,
« affirmer spontanément que Blanchot fut un écrivain
secret suffit à compromettre cette hypothèse ».Nous
sommes confrontés à ce secret discutable et bruyant qui
dit que «d'abord nous pensons, ensuite nous existons», et qui
aurait fait rire Montaigne avec compassion. Montaigne consacra sa vie à
l'interminable processus de l'acquisition de l'expérience dans
son propre moi, tandis que Descartes découvrit dans le moi abstrait,
universel, le fondement d'un savoir sur. Tout s'effacera, même ce
savoir, conduit jusqu'à ses demières extrémittés
par Blanchot avec une phrase lapidaire qui, elle aussi, s'effacera:
«Je suis, je suis seulement parce que j'ai fait du néant
mon pouvoir, parce que je puis ne pas être (1), » Nous
en arrivons ainsi à L'Avventura, le film d'Antoniont
qui, it y a deux mois et avec tous les honneurs (honneurs qui, eux aussi,
vont devoir s'effacer), réapparut en France en DVD aux Editions
Montparnasse, un film qui illustre magistralement - il s'agit d'une
oeuvre essentielle de l'art contemporain -la disparition d'un personnage
principal du récit qui nous a été raconté
jusque-là. L'Avventura relate l'histoire de jeunes amis
qui, naviguant dans les Iles Éoliennes, voient disparaitre l'un
des leurs sur le récif de Lisca Blanca. Au fur et à
mesure qu'avance la recherche d'Anna, la disparue, on se rend compte
que ce n'est pas exactement la disparition de la jeune fille qui compte
le plus, mais la sensation de vide, de hasard et d'errance qui tire
les fils de la vie de quelques personnages en train de chercher la disparue
et qui, en realité, se cherchent eux-mêmes, tout comrne
ils tentent de trouver le Dieu que Nietzsche n'avait pas réussi
à connaitre. Pour ma part, it me semble que dans L'Avventura
résonnent comme jamais n'ont résonné
les mots de Blanchot, l'héritier de Montaigne, quand il nous
dit que l’oeuvre écrite produit et manifeste l'existence de
l'écrivain, mais que, finie, elle ne témoigne plus que
de sa dissolution, de sa disparition, de sa défection et, pour
le dire sans ménagernent, de sa mort dont, par ailleurs, il ne
reste jamais de preuve définitive .•
Traduit de l'espagnol par Andre Gabastou
(l) L'Espace littéraire. Maurice
Blanchot, éd. Gallimard, col. Polio essais, p. 215.
Bốc phét mà phán,
thì cả 1 bài viết thần sầu trên đây,
chỉ để vinh danh, chỉ 1 câu văn của GCC:
Viết, một cách nào
đó, là.... chết:
une fois achevée, l'oeuvre écrite
témoigne de la dissolution de l'auteur: một khi hoàn
tất, tác phẩm chứng kiến tác giả của nó
tan rã ra!
Viết, một cách nào đó,
là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình
đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô
bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một con hẻm
bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia
nhà cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân
bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái
tên có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long,
bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội
trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại
bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê,
hát trống quân, đánh đu... trên bìa
một tờ báo Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta
đi mang theo quê hương".
Một tiệm sách có tấm
bảng hiệu, vừa níu kéo một chút quá khứ, vừa
làm lan can cho căn gác lửng, và là chỗ tôi
thường đứng tỳ tay nhìn xuống đường, nhìn buổi chiều, đợi chờ
cô bé trở về nhà trên đường đón em học trường
mẫu giáo Aurore ở gần ngã tư Cao Thắng-Phan Đình Phùng.
Ngay ngã tư có tiệm Thanh Xuân, nơi hân
hạnh được cô bé tới chụp hình cho cuốn học
bạ, nhờ vậy tôi cũng được ăn theo, tấm hình sau được
họa sĩ Ngọc Dũng thương tình chuyển thành phác
họa, khi cả bọn xúm quanh anh thuở còn đi học cứ ba
tháng hè kéo nhau tới nhà anh T. ăn
bám bà cụ. Kỷ niệm độc nhất đánh dấu những
buổi chiều hạnh phúc, báo trước cuộc chia ly kéo
dài...
Khi gặp lại, cô bé đã
đậu tú tài phần một, được ông bố khắc nghiệt
cho đi thăm Đà Lạt. Mỗi sáng thứ bẩy, tôi
theo chuyến xe đò sớm nhất vượt quãng đường mấy trăm
cây số, rồi chiều chủ nhật trở về cho kịp thứ hai đi làm,
trong đầu đầy ấp hình ảnh Đà Lạt với quán cà
phê Tùng, tiếng hát Sylvie Vartan, "J'attendrai
que ma vie recommence"... bóng dáng cô bé
xuất hiện nơi đầu con dốc, tha thẩn bên hồ, thấp thoáng
xa gần giữa vườn thông, trước ống kính máy chụp
hình tôi mượn của một người bạn Phi làm cùng
sở. Khi đó tuy ông Diệm không còn, nhưng
Miền Bắc chắc còn đang lo đấu tố, thanh trừng địa chủ nên
bỏ qua cho hạnh phúc nhỏ bé của chúng tôi.
Note: Truyện ngắn này, sáng
tác những ngày ở trại tị nạn Thái Lan.
Gửi đăng trên tờ Làng Văn ở Toronto.
Cô bạn có đọc, như sau đó
cho biết, và nói, tôi cứ nghĩ là anh
ở Sài Gòn, viết, gởi ra hải ngoại, đăng!
In 1997 Horst Faas and Tim Page
published Requiem, a homage to the
135 photographers who died while covering the wars in Indochina
and Vietnam. The work of Larry Burrows, who photographed the
war in Vietnam from 1962 until he died in a helicopter shot down
on the border with Laos in 1971, was central to that undertaking.
Vietnam, a more extensive selection of his work, enables us
to see his achievement more extensively and to define it
more clearly.
Burrows was
born in London in 1926. He left school at sixteen and got
a job in Life magazine's London bureau, where he printed
thousands of pictures by Robert Capa and others. It would be
hard to exaggerate the effect of this apprenticeship on his subsequent
career. Capa practically invented the genre of combat photography
and defined the standards by which it would be judged. If your-
pictures aren't good enough, he was fond of saying, thats because
you're not close enough. Burrows took Capa at his word. In Vietnam
a colleague decided that Burrows was either the bravest man in the
world or the most short-sighted. Tales of that myopic bravery are
legion, and Burrows himself thought 'the best thing that happens
. . . is when someone turns around and says, "Well, you've taken your
chances with the rest of us. '" Like other photographers in Vietnam
Burrows fell into- the habit of edging right up to death, but whereas
Page and Sean Flynn (son of Errol) were swash-buckling, wild, stoned,
Burrows was distinguished by his patience and meticulous calm. It
is possible to detect these qualities in the formal elegance of the
work. While Capa said he would 'rather have a strong image that is
technically bad than vice-versa', Burrows was obsessed with making strong,
technically perfect images. Looking at his best photos reminds me of
some documentary footage I once saw of men coming suddenly under fire
in Bosnia. Everyone hit the dirt. It took a while to take in what was
so strange and unnerving about this footage. Then I realized that the
camera recording it all had remained absolutely steady
This unflinching
quality is seen to dramatic effect in a black-and- white'
photo-essay published in Life in April 1963. Burrows was
photographing a Marine helicopter' squadron, focusing on James
Farley, a fresh-faced twenty-one-year-old gunner. In the course
of what was expected to be a routine mission the squad comes
under heavy fire. One of the helicopters goes down and Farley's
chopper lands nearby, attempting to rescue the crew. By the time
they are airborne again two badly wounded men are sprawled on
the floor of the helicopter. One of them dies. The resulting photos
have all the cramped panic and horror of Snowdon's death in Catch-22.
But what makes them into a perfect story is the shot of Farley
back at base, sobbing, aged by more than a decade in the course of
a dozen photographs.
That was the
luxury of working for Life: an absence of deadlines and
the freedom to construct a narrative around photographs
rather than taking them to illustrate breaking news. Burrows
used these freedoms to similar effect in the color sequence
on Operation Prairie (1966), which culminates in the famous
image of the wounded black sergeant apparently reaching towards
his white comrade, also wounded. On the one hand it's an unadulterated
image of the chaos, mud and blood of the aftermath of combat.
But it is also a classic Life-like image in
that it is, simultaneously, a statement of fact (this really happened)
and, precisely by virtue of the unimpeachable quality : its evidence,
an illustration of a larger truth (in this case the equality of suffering
and tenderness between races) which might not : true at all. What we
have, in other words, is a vivid example of e camera's unique capability:
not the creation of a myth but its depiction.
It would be
a mistake, therefore, to see images like this as proof the
photographer's anti-war stance. At that time, in fact, Burrows
was still, in his own words, 'rather a hawk'. It was only later,
in 1969, that he attained A Degree of Disillusion. That was the title
of another photo-essay, belatedly focusing on the impact of the
war on the Vietnamese' as Philip Jones Griffiths had done throughout
his time there. By then Burrows said the faces all over Vietnam
were 'more tired' and 'dazed' than he had ever known. In Roger Mattingly's
well-known 1971 portrait that fatigue can be seen in Burrows' own
face. He looks exactly like one of the combat-numbed grunts he
had so often pictured: a sign of how the gap between photographer
and his subjects was shrinking, lethally. This is suggested still
more powerfully by Henri Huets picture in ReqUiem of Burrows helping
to carry a wounded soldier, whipped back by a chopper's downdraught.
Burrows' thick- framed spectacles make him instantly recognizable,
which is slightly odd given that the photo is so like one by him,
thereby forcing the viewer to concede that a Burrows image is not
as instantly recognizable as is often claimed. Indeed, to this observer,
Huet's images and Burrows' are often almost interchangeable. Since
the two photographers died together on that helicopter flight on the
Laos border this is not inappropriate. But the images in the pages of
Vietnam also have much in common with those in Page's Nam (1983). Page
was spectacularly high on the 'glamour' of war; according to his epitaph
in Life, on the other hand, when Burrows looked at war 'what he saw was
people'. Except, it turns out, his coverage of 'The Air War' shows Burrows
to be just as intoxicated by the psychedelic technology of American
fire- power as Page was. Two almost identically framed shots, taken
at the same moment, in 1969, in Cholon - one in color by Burrows, the
other in black-and-white by Griffiths - of a blood-drenched woman with
a soldier kneeling over her, staring nine hundred yards into the distance,
crop up in both Vietnam and Vietnam Inc. (the Welshman's camera can be
seen in the bottom right-hand comer of Burrows' picture). *
This is not
to diminish Burrows' individual talent or achievement. It
is simply to recognize the accuracy of Sontag's judgement
from the '70s, namely that 'the very success of photojournalism
lies in the difficulty of distinguishing one superior photographer's
work from another, except insofar as he or she has monopolized
a particular subject' - and in Vietnam they were all shooting
the same subject. Similarly, Burrows has always been praised
for his humanity and compassion when, if you think about it,
what would really set a photographer apart would be the ability to
photograph injury, suffering and death with a lack of compassion,
even, possibly, with a touch of glee. No, Burrows is a great photographer
less because of what distinguishes him as an artist than because
of what he has in common with his colleagues and subjects. And I
think that those trademark spectacles of his enable us to view his
legend (in the cartographic sense) more clearly:
It's a classic sixth-form debate:
whether to take photographs of the injured or to try
to help them. Burrows repeatedly took photographs of wounded
men being helped by their comrades, even when they were themselves
wounded. He was drawn to such scenes because they dramatized that
ethical dilemma so clearly as to simultaneously resolve it. Looking
at photos like this it is striking how often one or more of the
people doing the helping are wearing spectacles like Burrows'.
Maybe it's just a coincidence (though that in itself is almost meaningless
in a medium that is about visual coincidences) but it is difficult
not to regard these bespectacled helpers as the active representatives
of Burrows's own seared conviction: that showing the wound was also
a way of tending to it.
2002
* Actually, they are even more
similar than I thought: although Jones Griffiths' image
is printed in black-and-white in Vietnam Inc., it was shot
in color.
Note: Kinh Cầu, trước Tin
Văn có post, lấy từ trang báo điện tử của
Dirck Halstead, nhưng sau bị cấm, trang báo cũng cấm
luôn.
Nghe nói, nó được
về VN, thêm hình ảnh nhiếp ảnh viên
VC.
Cũng được.
Tin Văn post bài này,
nhân nhớ bạn cũ Sawada, và cái lần
anh mò lên nhà Gấu, ở hẻm Nguyễn Huỳnh
Đức, Phú Nhuận, nhân có hình cần
gửi gấp.
Bạn phải tưởng tượng ra 1 em
văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn,
và khóc, thì mang theo 1 cái máy camera,
và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.
Vào ngày
21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka - một người
đàn ông với cái camera, nửa đêm nhận được cú
phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô Viết đã vượt biên
giới vô Czechoslovakia. Cùng lúc, là những phi
cơ vận tải với những binh đoàn nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo..
hạ cánh xuống phi trường Ruzyne, ngoại vi Prague. Ðây là
1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh sĩ
thuộc Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK, và
lời bảo đảm của thượng cấp, chuyến đi này không phải là
"xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp ứng lời kêu
gọi “giải phóng” MN của MTGP!
Mùa Xuân
Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú đặt cọc cho
mớ võ khí nặng sau cùng đã đào mồ chôn
Ðế Quốc Xô Viết.
Tôi rời
Quân đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó
là ban đêm. Chúng tới ga Belorussky Rail Terminal, và
đi bộ dọc theo phố Tverskaya Street nhắm hướng Kremlin. Chúng tôi
đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung hăng. Chúng
tôi gặp một ông già, một cựu binh từ Ðệ Nhị Thế
Chiến.
-Sao tụi mi la lớn thế?
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi tôi vừa giải phóng Prague.
Ông già quạt lại:
-Câm miệng, thằng ngu. Mi không biết cả những gì
mà mi đang nói đó.
Và đó đúng là một lời phán lương
thiện nhất về cuộc xâm lăng Prague mà tôi đã
từng nghe được.
-Ðảng không
dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng ông cách ăn
cướp.
Đêm, vẫn đêm đêm,
như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như
tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất,
mi một mình trở lại Sài-gòn, quán
Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô
Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì
như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới
sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt
đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa
làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi
bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh
croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn
chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại
giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường
Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên
giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học
Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám
đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì
cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh
rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích
bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che
giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn
Đình Toàn làm canh xì.
Note:
Gấu viết truyện ngắn “Những Ngày Ở Saigon” đúng
thời gian nằm dưỡng thương do xực hai trái mìn
Claymore của VC ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh. Do làm
cho UPI nên dưỡng thương ngay tại Đài Liên
Lạc VTD, số 5 Phan Đình Phùng.
Nhân Trần Công
Quốc, 1 trong Thất Hiền đưa vợ đi làm [bà vợ
là nữ điện thoại viên ở Đài] bèn nhờ
anh đưa bản thảo cho ông anh TTT, khi ghé nhà
thăm bà cụ. Ông anh đăng liền trên Nghệ Thuật
số 9, và gọi điện thoại, nhắn, khi nào hết dưỡng
thương thì xuống tòa soạn lãnh tiền nhuận
bút.
Gấu vào làng
văn như thế đó.
Viết cho Văn, là do
gặp NDT tại tiệm phở số 44 PDP, dưới chân Đài,
phía bên kia Đài Phát Thanh Sài
Gòn. Anh đến bàn, tự giới thiệu, và đề nghị
viết cho Văn. Truyện ngắn đầu tiên viết cho Văn, là
Thời Gian, 1 trong Tứ Tấu Khúc. Bà vợ NDT là
người đầu tiên đọc nó, trong dạng bản thảo. Lần gặp đầu
tiên, khi NDT đưa tới nhà giới thiệu [nhà anh ở
ngay dưới chân Đài Liên Lạc VTD, trong 1 chung cư
thuộc Bưu Điện, khu Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao], bà
nói, anh đúng là văn sĩ mê gái!
“Những con dã tràng”,
truyện đầu tay của GCC, được TTT chọn, tính đăng trên
Sáng Tạo, nhưng do báo ngỏm, ông bèn
đưa cái mớ bài vở còn dư đó, qua báo
Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong và những đấng
như DNM, TDT….
Lẽ dĩ nhiên, bị ném vô thùng
rác.
Gấu đọc thấy tên của mình trong
mục Hộp Thư Tòa Soạn, tuy chẳng hề gửi, thì đoán
vậy, nhưng cũng chẳng nói gì với ông anh.
Vả chăng vào lúc đó, lo học, lo tốt nghiệp,
ra trường, có việc làm kiếm ra tiền, nuôi gia
đình, và nếu có cơ hội, học tiếp.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được
cái truyện ngắn đầu tay “Những Ngày Ở Sài
Gòn” thì Gấu mới biết, mình sẽ trở thành
nhà văn, theo nghĩa, nhờ kiếm ra sư phụ và kiếm ra
văn phong của mình. Đây là cơ may đặc biệt
của GCC, nhờ đọc được sách Tẩy, mà thoát kiếp
nhà văn Mít chỉ đọc chữ Mít, không thể đọc
1 thứ chữ nào khác. Trường hợp hai phiên bản của
TTT, là DNM và NDT cho thấy, tại làm sao mà
TTT lại phán, nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không
hề nói, Gấu viết hay hơn DNM hay NDT. Ông phán,
nó sẽ đi xa hơn.
“Những con dã tràng”,
với riêng Gấu, khi về già, nhìn lại, quả
là bảnh nhất trong số những truyện ngắn của Gấu, và
khác biệt hẳn với số còn lại. Nó là
đỉnh cao của thứ văn chương “hiện sinh”, theo nghĩa, hục hặc với chính
mình, “đêm không là đêm” nhưng
mà là “đêm tóc rối”!
Gấu nhớ bà cụ thân
sinh TTT & Bạn C, đọc, lắc đầu, phán, thằng này
bịnh.
Ui chao phải đến mãi sau này, ra
được hải ngoại, đọc “The Steps”, bản tiếng Anh, thì Gấu
mới nhớ lại câu của Cụ.
Trong "The Steps", có 1 chương - Gấu
đọc cuốn này khi mới lớn bản tiếng Tây, Les Pas, sau này nhớ lại,
lầm là tập truyện ngắn - trong có xen y chang trong “Những
Con Dã Tràng”, xen ngồi chiếc đu, nhưng bịnh hơn nhiều:
Bấy giờ gió thổi mạnh,
cành lá xào xạc ở phía trên
đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn
phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im
lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía
trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi.
Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình
người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao,
rồi lại mất đi một cách đều đặn.
Xen này, 1 vị độc giả, trên Blog
NL, lôi ra để đi 1 đường còm.
Một vị thân hũu, nhà văn, quen biết
từ hồi Quán Chùa, thì suýt soa,
cực "sex"!
Trong Steps, là xen, hai nhân
vật nam & nữ, khoả thân, làm tình qua
gương:
One day an older nun stopped me in the corridor.
She asked me whether I knew what I was doing, and when I said
I didn't understand, she said the staff had a name for people like
myself: hyaenidae. As I still failed to -understand,
she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around
bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened
her death.
Cái việc ném vô
thùng rác tòa soạn báo Văn Nghệ,
truyện ngắn đầu tay của Gấu, về già nghĩ lại, Gấu thầm
cảm ơn số phận. Nếu không là bỏ mẹ rồi!
Là thành 1 đấng TTT thứ ba!
Một TTT, thứ thiệt, đẻ
ra hai ông, thứ... dởm.
Giả như Gấu không đọc được tiếng của lũ mũi lõ, thì thêm 1 ông
dởm nữa.
Chính vì thế mà TTT phán, mi sẽ
đi xa hơn mấy đấng kia!
Cái chuyện gặp được Faulkner,
may mắn, nhưng giả như gặp, không phải tác phẩm
Absalom, Absalom! mà là một cuốn
khác, cũng của ông, cũng hỏng cẳng!
Thầy Trò cũng đếch nhận ra nhau!
Note:
Cuốn này, cũng tuyệt. Trong 1 bài viết
ngắn, Reader's Block, Dyer, cảnh cáo thú đọc sách,
và cho biết, càng ngày ông
càng bớt đọc, và trích 1 câu
của Nietzsche:
Sáng sớm,
vớ cuốn sách đọc, tôi coi đó, là,
bửn.
'Early in the
morning, at break of day, in all the freshness and
dawn of one's strength, to read a book - I call that vicious!'
Nietzsche: Ecce
Homo
Cái
kinh nghiệm đọc, đọc sách nào, về
già, nhìn lại, với riêng GCC, là
1 thử thách của ông Trời, đối với 1 độc giả,
và sau khi thử thách rồi, thì là
món quà của Xừ Luỷ!
TV xin post lại,
kinh nghiệm của Kafka, và đây là
1 dẫn nhập tuyệt hảo cho cái việc đọc:
Cuộc Xét
Nghiệm [The Test]
Tôi là
một người hầu, nhưng không có việc làm.
Nhút nhát, lại ít khi tỏ ra hết
mình, thực ra tôi chẳng chịu sắp hàng,
chen lấn với người khác; nhưng đây chỉ là
một lý do khiến tôi thất nghiệp; cũng có
thể chẳng có chi liên can tới chuyện thất nghiệp
của tôi, trong bất cứ trường hợp nào, chuyện là
thế này: chẳng bao giờ người ta gọi tôi đi hầu; những
người khác được gọi, tuy họ chẳng cố gắng gì hơn tôi,
mà thực ra có khi họ còn chẳng cảm thấy cái
ao ước được gọi, trong khi tôi, ít ra đôi lúc
cảm thấy điều này một cách thật dữ dội.
Vậy là tôi
nằm dài trong khu sảnh dành cho người
hầu, ngó lên chùm ánh sáng
trên trần, mơ mơ màng màng, chợt thức,
và lại rơi vào giấc ngủ. Đôi khi, tôi
bước vào quán, nơi người ta bán bia đắng,
đôi khi tôi cũng nốc nó một cách
ghê tởm, nhưng những lần khác, tôi uống
nó…
Một lần tôi
vô quán, một người khách ngồi ở
chỗ tôi hay ngồi quan sát mọi người. Tôi
không dám nhìn ông ta thật gần, và
quay mình tính bỏ đi. Nhưng người khách
gọi giật lại; hóa ra cũng là một người hầu, tôi
có gặp trước đó, nhưng chưa từng nói chuyện
với anh ta.
-Tại sao anh bỏ
chạy? Hãy ngồi đây làm một ly. Tôi
trả tiền.
Vậy là tôi
ngồi xuống. Anh hỏi tôi đôi điều, nhưng
tôi không thể trả lời, thực ra là tôi
không hiểu ngay cả những câu hỏi của anh ta.
Thế là tôi nói: "Có lẽ anh buồn
vì anh đã mời tôi, như vậy tôi nên
đi thì hơn", và tôi tính đứng dậy.
Nhưng anh ta vươn tay qua bàn đẩy tôi ngồi xuống. "Hãy
ở lại", anh ta nói, "đây chỉ là một cuộc xét
nghiệm. Kẻ nào không trả lời những câu hỏi, là
qua được cuộc xét nghiệm".
Nên nhớ,
Kafka đã từng phán, Ông Trời năn
nỉ tôi, đừng viết, NO!
Đọc, với ông,
chắc cũng
rứa.
Nhưng căng nhất,
là đọc cái gì?
Một anh Tẫu chẳng
đã phán, thứ nhà văn bảnh nhất
trên đời, là thứ, đếch thích viết!
Vưỡn cũng thế, thứ độc giả bảnh, đếch thích đọc!
Có thể nói,
tất cả cái đọc của GCC, là 1 thử thách,
của Ông Trời, nhắm trả lời cuộc xét nghiệm,
liệu mi chịu nổi...
Lò Thiêu?
Hà, hà!
Phách lối
thật
Chọc chúng
chửi!
Larry Burrows
In 1997 Horst Faas and Tim Page published Requiem,
a homage to the 135 photographers who died while covering the wars
in Indochina and Vietnam. The work of Larry Burrows, who photographed the
war in Vietnam from 1962 until he died in a helicopter shot down on the
border with Laos in 1971, was central to that undertaking. Vietnam, a
more extensive selection of his work, enables us to see his achievement
more extensively and to define it more clearly.
Burrows was born in London in 1926.
He left school at sixteen and got a job in Life magazine's
London bureau, where he printed thousands of pictures by Robert Capa
and others. It would be hard to exaggerate the effect of this apprenticeship
on his subsequent career. Capa practically invented the genre of
combat photography and defined the standards by which it would be
judged. If your- pictures aren't good enough, he was fond of saying,
thats because you're not close enough. Burrows took Capa at his word.
In Vietnam a colleague decided that Burrows was either the bravest man
in the world or the most short-sighted. Tales of that myopic bravery
are legion, and Burrows himself thought 'the best thing that happens
. . . is when someone turns around and says, "Well, you've taken your
chances with the rest of us. '" Like other photographers in Vietnam
Burrows fell into- the habit of edging right up to death, but whereas
Page and Sean Flynn (son of Errol) were swash-buckling, wild, stoned,
Burrows was distinguished by his patience and meticulous calm. It is possible
to detect these qualities in the formal elegance of the work. While Capa
said he would 'rather have a strong image that is technically bad than
vice-versa', Burrows was obsessed with making strong, technically perfect
images. Looking at his best photos reminds me of some documentary footage
I once saw of men coming suddenly under fire in Bosnia. Everyone hit the
dirt. It took a while to take in what was so strange and unnerving about
this footage. Then I realized that the camera recording it all had remained
absolutely steady
This unflinching quality is seen to
dramatic effect in a black-and- white' photo-essay published in Life
in April 1963. Burrows was photographing a Marine helicopter' squadron,
focusing on James Farley, a fresh-faced twenty-one-year-old gunner.
In the course of what was expected to be a routine mission the squad
comes under heavy fire. One of the helicopters goes down and Farley's
chopper lands nearby, attempting to rescue the crew. By the time they
are airborne again two badly wounded men are sprawled on the floor of
the helicopter. One of them dies. The resulting photos have all the cramped
panic and horror of Snowdon's death in Catch-22. But what makes them into
a perfect story is the shot of Farley back at base, sobbing, aged by more
than a decade in the course of a dozen photographs.
That was the luxury of working for Life:
an absence of deadlines and the freedom to construct a narrative around
photographs rather than taking them to illustrate breaking news.
Burrows used these freedoms to similar effect in the color sequence
on Operation Prairie (1966), which culminates in the famous image
of the wounded black sergeant apparently reaching towards his white
comrade, also wounded. On the one hand it's an unadulterated image of
the chaos, mud and blood of the aftermath of combat. But it is also
a classic Life-like image in that it is, simultaneously, a statement
of fact (this really happened) and, precisely by virtue of the unimpeachable
quality : its evidence, an illustration of a larger truth (in this case
the equality of suffering and tenderness between races) which might not
: true at all. What we have, in other words, is a vivid example of e camera's
unique capability: not the creation of a myth but its depiction.
It would be a mistake, therefore, to
see images like this as proof the photographer's anti-war stance. At
that time, in fact, Burrows was still, in his own words, 'rather a hawk'.
It was only later, in 1969, that he attained A Degree of Disillusion. That
was the title of another photo-essay, belatedly focusing on the impact of
the war on the Vietnamese' as Philip Jones Griffiths had done throughout
his time there. By then Burrows said the faces all over Vietnam were 'more
tired' and 'dazed' than he had ever known. In Roger Mattingly's well-known
1971 portrait that fatigue can be seen in Burrows' own face. He looks
exactly like one of the combat-numbed grunts he had so often pictured:
a sign of how the gap between photographer and his subjects was shrinking,
lethally. This is suggested still more powerfully by Henri Huets picture
in ReqUiem of Burrows helping to carry a wounded soldier, whipped back
by a chopper's downdraught. Burrows' thick- framed spectacles make him
instantly recognizable, which is slightly odd given that the photo is
so like one by him, thereby forcing the viewer to concede that a Burrows
image is not as instantly recognizable as is often claimed. Indeed,
to this observer, Huet's images and Burrows' are often almost interchangeable.
Since the two photographers died together on that helicopter flight on
the Laos border this is not inappropriate. But the images in the pages
of Vietnam also have much in common with those in Page's Nam (1983). Page
was spectacularly high on the 'glamour' of war; according to his epitaph
in Life, on the other hand, when Burrows looked at war 'what he saw was
people'. Except, it turns out, his coverage of 'The Air War' shows Burrows
to be just as intoxicated by the psychedelic technology of American fire-
power as Page was. Two almost identically framed shots, taken at the same
moment, in 1969, in Cholon - one in color by Burrows, the other in black-and-white
by Griffiths - of a blood-drenched woman with a soldier kneeling over her,
staring nine hundred yards into the distance, crop up in both Vietnam and
Vietnam Inc. (the Welshman's camera can be seen in the bottom right-hand
comer of Burrows' picture). *
This is not to diminish Burrows' individual
talent or achievement. It is simply to recognize the accuracy of
Sontag's judgement from the '70s, namely that 'the very success
of photojournalism lies in the difficulty of distinguishing one superior
photographer's work from another, except insofar as he or she has
monopolized a particular subject' - and in Vietnam they were all shooting
the same subject. Similarly, Burrows has always been praised for his
humanity and compassion when, if you think about it, what would really
set a photographer apart would be the ability to photograph injury,
suffering and death with a lack of compassion, even, possibly, with
a touch of glee. No, Burrows is a great photographer less because of what
distinguishes him as an artist than because of what he has in common
with his colleagues and subjects. And I think that those trademark spectacles
of his enable us to view his legend (in the cartographic sense) more clearly:
It's a classic sixth-form debate: whether to take photographs
of the injured or to try to help them. Burrows repeatedly took photographs
of wounded men being helped by their comrades, even when they were
themselves wounded. He was drawn to such scenes because they dramatized
that ethical dilemma so clearly as to simultaneously resolve it. Looking
at photos like this it is striking how often one or more of the people
doing the helping are wearing spectacles like Burrows'. Maybe it's just
a coincidence (though that in itself is almost meaningless in a medium
that is about visual coincidences) but it is difficult not to regard
these bespectacled helpers as the active representatives of Burrows's
own seared conviction: that showing the wound was also a way of tending
to it.
2002
* Actually, they are even more similar than I thought:
although Jones Griffiths' image is printed in black-and-white in
Vietnam Inc., it was shot in color.
Note: Kinh Cầu, trước Tin Văn có post, lấy
từ trang báo điện tử của Dirck Halstead, nhưng sau bị cấm,
trang báo cũng cấm luôn.
Nghe nói, nó được về VN, thêm hình
ảnh nhiếp ảnh viên VC.
Cũng được.
Tin Văn post bài này, nhân nhớ bạn
cũ Sawada, và cái lần anh mò lên nhà
Gấu, ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, nhân có
hình cần gửi gấp.
Cái đọc, cái viết, cái việc làm
1 thằng kỹ thuật viên Bưu Điện trông coi mạch VTD quốc
tế.... tất cả là để sửa soạn cho cú vô Lò
Thiêu, khi sống đời thứ nhì của GCC, ở hải ngoại.
Moi, je traine le fardeau de la faute collective,
dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác
và hình phạt, Par-delà
le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói
như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác
Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?