|
Văn xuôi Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Trong Nửa Thế Kỷ Của Tôi,
tuyển tập văn xuôi của Anna Akhmatova, có trích mấy đoạn, trong
Nhật Ký, bà viết về thành
phố của bà.
Post lên đây như “chim mồi”, lấy hứng, viết
về Sài Gòn Của Gấu ngày nào.
Nữ văn sĩ Bắc Kít, Lờ Mờ Hờ, khi mới viết, cũng
có những dòng thật đẹp về Hà Nội.
Nhưng Hà Nội của Gấu khác, và Sài Gòn,
thì tất nhiên, khác, vì bà này làm gì có!
"Suốt khoảng phố gần trường
toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa, lọt vào một nhà cửa sổ chấn song
sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày nào đi học tôi cũng thấy
treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối. Nhưng
tiếng hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang
do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán hàng. Có
những đứa trẻ ăn mặc đẹp hơn tôi, chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến
đó học đàn. Chúng làm tôi tủi thân nhiều hơn là thẹn. Có một lần
tôi bị tụt quai dép cao su và tôi chẳng còn cách nào hơn là lếch
thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi bộ trên hè phố trước mặt
chúng nó.
Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những
hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim giống như
nùi cỏ rối (....) Nhưng không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi nghe
tiếng dương cầm vang lên lập cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ con
không quen biết..."
"Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn. Tôi
không biết đó là bản gì. Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố
lên đèn ấy tôi nhớ lập tức. Tiếng đàn mới cao sang làm sao. Trong
vắt. Róc rách. Dường như những thân sao đen cao vút đang từ từ vướn
lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu trời đen thẫm, mịn màng như một đĩa
thạch và chi chít sao."
"Chiến tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ
ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là vì tôi lớn hơn và biết
sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để lại Hà Nội những hầm
công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước ngày mưa.
Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động nghe hết hồn
hết vía rú lên từ phía Nhà Hát Lớn..."
".... Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa khi
đi qua Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết
nhà nó thì dừng và hôm đó là hôm nó về lấy gạo nuôi em."
(Những giọt trầm, truyện ngắn Lê Minh Hà)
Và phấp phỏng như
nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố.
Tuyệt!
|
|
Saigon
ngày nào của GCC
V/v NS. Trên Blog Ðoàn
Nhã Văn có 1 bài viết về ông. Post lại ở đây.
Nhà văn và những chuyện liên quan
(3)
Một người bạn vừa email hỏi:
"Ông biết câu này trong bài thơ nào không?" và viết tiếp "Bia lên
tìm chỗ ta nằm / Non cao duỗi cẳng, em còn thấy đâu", là sao?...
Anh bạn cho biết: câu thơ đọc được trong 1 bài báo của
1 tờ báo "chợ" tại địa phương. Báo "chợ" là báo tặng miễn phí, thường
phát hành tại các chợ người Việt tại Mỹ. Đây là những tờ báo địa phương,
sống bằng quảng cáo của các cơ sở thương mại trong vùng.
Trở lại câu hỏi của người bạn. 'Bia' trong câu này không
phải là bia ... uống, bia hơi. "Bia lên" không hề là nâng bia lên
để cùng uống. Và, "bia lên" càng không hề là bia ...ôm.
Bia, ở đây, là tấm bia nơi trường bắn. Là mục tiêu tác
xạ của những người lính mới.
Câu thơ trên là 1 câu trong bài thơ "Sân bắn" của nhà
thơ Nguyên Sa, mà câu kết là 1 câu thơ đẹp:
"Hầm bia buồn đến mộ sâu
ngàn cây nến thắp trên đầu đạn bay..."
Tôi nghĩ, đây có thể là
bài khởi đầu trong mạch lục bát của Nguyên Sa. Và cũng nên nói thẳng
rằng: Nguyên Sa làm rất ít lục bát, ngay cả những năm tháng sống ngoài
nước. Và cũng nói luôn, theo tôi, lục bát không phải là điểm mạnh
của ông, dù rằng trong số những bài lục bát ấy, có nhiều câu thơ đẹp.
Xin chép lại bài "Sân Bắn"
Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch thấy đời lãng du,
Thấy tay dư, thấy thân thừa,
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không...
Một đời phơ phất hình nhân
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau,
Bia lên thấy mẹ u sầu
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta...
Trời cao ngó xuống thịt da
Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh,
Bia lên tìm chỗ ta nằm
Non cao duỗi cẳng, em còn thấy đâu...
Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay...
Bài này ông làm năm 1966,
thời kỳ ông bị động viên theo học khóa 24 Thủ Đức. Chuyện bị động viên
của ông cũng rất .. hài hước. Ba mươi mấy tuổi, đang dạy học ngon lành,
ông nhận giấy lên đường. Lúc đó, Tổng Trưởng giáo dục là ông Bùi
Tường Huân. Nhưng NS tin rằng: sau ông Huân phải có "đại ca thủ lãnh".
Đại ca mượn ông BTH mà xuống tay với ông. Dĩ nhiên, trước khi vào Thủ
Đức NS cũng đã nhờ những tên tuổi khác, chống lưng một thời gian, để sắp
xếp công việc nhà. Và khi mọi việc đã sắp xếp xong, ông "phơi phới lên
đường".
Và ở quân trường Thủ Đức,
"Sân Bắn" đã ra đời. Nó ra đời từ những mệnh lệnh:
- Hầm bia chuẩn bị
-Xạ thủ chuẩn bị!
-Mở khóa an toàn!
-Bia lên
-Bắn
Và thi sĩ (chứ không phải
xạ thủ) đã bật ra:
"Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay..."
Note: Chuyện động viên
thì ai cũng dính hết, khó mà… “hài hước” được. Sở dĩ NS "ba muơi mấy
tuổi đang dạy học ngon lành", bị gọi động viên, theo như Gấu suy nghĩ,
trước đó, ông đã được ai đó vờ đi. Và BTH đã làm đúng việc của ông,
nghĩa là hỏi thăm sức khoẻ của NS.
Ðây là 1 cái may lớn của
NS, thực sự là vậy. Về già ông phải cám ơn BTH. Nhờ đi lính, ông làm
thơ, bài thơ trên, viết văn, không phải thứ “dễ dãi và sung sướng”, mà
là thứ có mùi người chết [những ngày ông phục vụ ở chung sự vụ).
Mấy thằng bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC làm sao có được
cái may như NS. Bị gọi, ông sợ lắm, phải đưa đi nhà thương tâm thần,
TPG nhân đó, đi một đường vấn an thật xỏ lá, để đáp lễ cái cú NS đánh
ông, khiến 1 phần nào làm ông mất job!
Trên TV có cái Tin Văn Vắn ký tên Thư Trung, tức TPG nhưng
không làm sao kiếm ra.
Trong đời viết văn cũng cả nửa thế kỷ đâu có ít, Gấu chưa từng có ý nghĩ
nhìn lại những trang viết cũ, và cũng chẳng hề mong có ai viết về mình,
theo cái kiểu nhà văn của thế kỷ, như Thầy Cuốc phán về VP. Gấu thực
sự mong có người viết về mình, như "tri âm tri
kỷ", kẻ thù càng tốt, như trong Ngư Ông
và Biển Cả.
Một nhà phê bình, khi đưa
ra 1 nhận xét "chìa khoá" về 1 tác phẩm, hay 1 tác giả, thì chẳng khác
gì 1 anh học trò phải chứng minh một định lý, hay giải 1 bài toán.
Giải 1 bài toán thì phải dựa vào những giả thiết, ở đầu bài. Bài toán
phán, cho 1 tam giác cân, lập tức anh học trò biết ngay, anh ta có 1 tam
giác, tam giác đó có 1 đỉnh, hai đáy, hai cạnh bằng nhau, hai góc đáy
bằng nhau. Và anh ta sẽ phải dựa vào đó để chứng minh. Giả thiết không
thể thừa, không thể thiếu. Thiếu, không giải được. Thừa vô nghĩa, bài toán
ra trật.
Với nhà phê bình, khi phán, là phải dựa vào những giả
thiết như thế. Nhưng với anh ta, giả thiết do anh ta tìm ra, không ai
cho, và có thể, càng nhiều giả thiết, thì càng dễ thuyết phục người đọc.
Câu phán cũng chỉ có tính thuyết phục thôi, chứ không phải là chân
lý.
Chúng ta lấy câu phán của Thầy Cuốc về Võ Phiến, nhà văn
của thế kỷ 20, để bàn thử.
Bất cứ nhà văn nào sống
cùng thời với VP, đều có thể nói ta là nhà văn của thế kỷ 20 được.
Một độc giả sau khi đọc câu phán, nếu như quan tâm, thì
bèn tìm hiểu, thế kỷ 20 có cái gì, và VP có mắc mớ tới cái gì đó không,
thì sẽ nảy sinh 1 số vấn đề, thế kỷ 20 là thế kỷ của bạo lực, của
cái ác ngự trị, của Lò Thiêu, Trại Cải Tạo, Gulag…
VP có mắc mớ tới những
thứ đó không?
“Hình như” không.
Nói ông là nhà văn của
thế kỷ 20 do chống Cộng cũng sai, vì tác phẩm của VP không chống Cộng.
Ðặt ông vào cái thế đó là hạ thấp tác phẩm của ông. Tụi VC đã làm
như thế, thành ra chúng đếch cho ông về, phong cho ông là Tổ Sư Chống
Cộng cả trước 1975, và sau đó, ở hải ngoại. Bữa trước, Gấu đọc đâu đó
1 bài về ông, hình như của PLT thì phải, ông này về trong nước và
có hỏi ý VC, liệu VP có về được không, VC lắc đầu, và PLT rất lấy làm
buồn cho VP.
Quá nhảm.
Một người như VP mà phải
năn nỉ xin về ư?
Nếu sự thực VP ướm lời, thì VC phải sướng điên lên, trải
thảm đỏ mời ông về thì mới đúng chứ, sao lại lắc đầu.
Bởi thế, chúng đâu có thực sự hoà giải. Coi trường hợp
PD, Kỳ Râu Kẽm là biết. Chúng tìm đủ cách dụ hai ông này về. PD thì dùng
tiền nhử. Nửa triệu đô chứ đâu có ít. Kỳ Râu Kẽm, thì chỉ mong nắm
xương tàn sẽ được nằm ở xứ Ðoài mây trắng lắm, sau khi hoàn tất cái
công trình của thế kỷ ở Vịnh Hạ Long! Về, là chúng chửi như chửi chó.
PD thì bị chính 1 ông nhạc sĩ, bố của ông ta bị VC làm thịt, chửi.
Kỳ bị một đấng cùng quê Sơn Tây. Tên khốn này chửi xong, phán, thôi
tha cho tên tội đồ!
Cô con gái đâu thấy đau, lại quay qua chửi đám hải ngoại,
mấy ông thầy chùa ở Cali đã nhận tiền tụng kinh cho Râu Kẽm, sau lắc
đầu!
Khốn nạn thế.
Monday, October 10, 2011 2:23
PM
Hà Nội 1954
Không biết mày đã từng xuống
tàu này để vào Nam năm 1954 hay không.
Không được thư mày trả lời thư tao thăm hỏi sức khỏe mày.
Tuy nhiên, tao cứ cho rằng mày vẫn an lành mọi mặt. Nhân tiện, tao
nêu mấy chi tiết không quan trọng đọc thấy trong 'Nơi Người Chết Mỉm Cười'
mà thư trước tao quên không nói tới. Vụ biểu tình chống Văn Tiến Dũng
năm xưa, mày và tao có tham dự, xảy ra ở khách sạn Galie'ni (?) chứ không
phải Majestic. Trường của ông Nguyễn Khắc Kham ở đường Ngô Tùng Châu có
tên là Văn Hóa, không phải Văn Lang của ông Ngô Duy Cầu. Ngoài ra, về
chữ dịch, mày dịch Hope abandoned là Hi vọng rã rời thì không biết có phải
mày định nói 'hi vọng đã rời xa hay hi vọng xa rời hay không. Một ý khác,
.....vấn đề có liên quan đến đất cát (Câu này tao muốn trích nguyên văn
nhưng tìm thoáng qua lại không thấy. Có phải mày định nói ... có liên
quan đến nơi sinh, sống?)
Lủng
Tao trả lời mày liền rồi, cả ở trên
Tin Văn.
Tao và mày biểu tình ở cả hai khách sạn.
Ở Galliéni trước, sau quay qua Majestic. Ở Majestic, mày
phá cửa phòng của 1 em đầm, nó khóc thảm thiết, sợ bị giết. Tao nhớ
rõ lắm, làm sao quên được?
Có tí mùi đầm, ngay đầu
đời nữa, làm sao quên?
Tao đi tầu Marine Serpent, Rắn Biển của Ðệ Thất
Hạm Ðội. Ðúng chuyến có Ðức Hồng Y Spellman lên tầu thăm dân di cư.
V/v tên trường Văn Hóa.
Tks. NQT
Hope abandoned: Hy vọng tan hoang,
rã rời, tao dịch theo ý của tao, không theo nguyên ý của câu tiếng Anh,
hope abandoned, hy vọng bị bỏ rơi.
V/v Hình di cư xin coi
Blog Tin Văn. NQT
Một
trong những Chợ Giời như thế này, mở ra ngay trước nhà của Gấu, villa số
60 đường Nguyễn Du, Hà Nội, vòng quanh 1 phần bờ hồ Hallais. Trộm cắp như
rươi. Gấu thủ một khúc gậy, đêm nằm ngay hành lang căn trộm. Trộm vô thật.
Nhè khúc bờ tường thấp, đúng nơi Gấu, những lần đi ciné về muộn, cổng đóng,
leo tường vô nhà. Nhưng, vì bên nhà Gấu đâu có gì ngoài hai cái bếp, và
1 hồ nước, nhà trên thì khoá, thế là chúng leo qua nhà hàng xóm,
một bảo sanh viện, dinh đâu mớ quần áo, tã lót, bàn ủi, mấy cái phích
đựng nước sôi cho con nít. Nghe động, mấy bà đẻ thức giấc, chúng bỏ chạy.
Gấu nghe tiếng hô hoán, bật dậy, vác gậy đuổi theo, chúng leo tường
thoát ra ngoài, đánh rớt lại 1 cái bàn ủi. Gấu đứng dưới bờ tường với
đưa lên cho 1 mụ đàn bà. Bà này lại nghĩ Gấu là đồng bọn, mở cổng cho chúng
vô nhà Gấu, rồi theo đường đó leo qua nhà bảo sanh, vì có cái thang lộ
thiên kế bên tường.
Sáng hôm sau, lũ đàn bà đẻ lào xào sao đó tới tai bà cô
Gấu. Buổi chiều, bà đứng ngay sân chửi cho một trận thật tàn khốc. Ui
chao ơi, tới khi đó, Gấu mới biết tài chửi của bà cô của mình. Mấy
đứa nhỏ, con tay bác sĩ chủ nhà bảo sanh hình như
cũng học Nguyễn Trãi. Chúng nói với bố. Hôm sau đích thân ông bác sĩ sang
gặp bà cô của Gấu xin lỗi.
Không
phải bà chỉ chửi mấy con mụ đàn bà mà chửi luôn cả Gấu. Sao mà
mày ngu đến như thế, may mà không mất mạng!
Nhìn cái hình DTH đứng giữa Paris, trong 1
số báo ML, thì lại nhớ đến bà cô của Gấu, đứng giữa sân nhà
xỉa xói qua nhà kế bên. May có thằng cháu kế đó, không thì bà cũng
dám vỗ đồm độp
như SCN một lần mất vịt!
GCC & Nguyễn Đông Ngạc, nhà
xb Sóng @ Niagara Falls cc 1996
Những truyện ngắn hay nhất của quê hương
chúng ta.
Gấu “sống sót” cuộc chiến,
và có được cuộc đời thứ nhì ở hải ngoại là nhờ cuốn này. Bức hình độc nhất
của suốt 1 thời trẻ tuổi, viết văn viết viếc, xì ke xì kiếc, cùng tí tiểu
sử, trong có ghi "phê bình, điểm sách", trở thành bùa cứu mạng, Gấu lèm
bèm về nó nhiều lần rồi, nhân 30 Tháng Tư bèn tự sướng thêm 1 cú!
3.4.2008
@ Little Sàigon
30.4.1975
with Đỗ Khờ
Trong quân đội miền Nam, sĩ
quan gốc Võ bị Quốc gia Đà Lạt là thành phần ưu tú, không bao giờ để bị
nhầm lẫn với lại sĩ quan xuất thân từ trường Bộ binh trừ bị Thủ Đức, Long
Thành. Vì vậy mà những bút ký của Phan Nhật Nam (Mùa Hè Đỏ Lửa, Dọc Đường
Số 1...) mặc dù tác giả không ý thức hay là chủ ý, không phải là những
bút ký về "người lính Việt Nam Cộng hòa" mà là về sĩ quan Võ bị.
DK
Theo GCC, nhận xét này sai.
Gấu đọc PNN, không thấy cái gọi là không ý thức hay chủ ý,
mà chỉ thấy anh chọn nghề binh, chọn cả chuyện chống cộng ở trong đó.
Chứng cớ, là, khi đi tù cũng không thay đổi, đếch thèm nhận quà thăm nuôi
của phía thắng trận, đếch thèm tiếp phần “họ” của mình, ở ngoài Bắc.
Võ Bị Đà Lạt là của đám chọn binh nghiệp, khác hẳn Thủ Đức,
là của những người bị động viên, phải vô lính. PNN có những dòng thổi Võ
Bị Đà Lạt, tất nhiên, là cái nôi của anh, làm sao không. Nhưng đâu có dòng
nào coi khinh đám Thủ Đức.
Nhận xét về văn nghiệp của PNN như thế, thì cũng cho phép GCC
nhận xét về văn của DK, cũng y thế, một thứ văn chương Thủ Đức, đếch phải
văn chương thứ thiệt của Đà Lạt, như của PNN!
Viết tiếng Việt còn thấy đỡ đỡ, bày đặt viết tiếng Tây, ai
đọc?
Thú thực, đọc đám Mít viết tiếng Tây, GCC thấy buồn cười.
Tởm, đúng hơn.
Đó là thứ tiếng Tây viết đúng văn phạm, nhưng đếch phải văn
chương.
Văn chương, là thể nào cũng có cái gì đó, có tính u hoài, gọi
đại như vầy, về 1 xứ Mít đã mất. Linda Lê có bao giờ nhận bà là người
Mít đâu, vậy mà đọc, vẫn cảm thấy cái đó, dù bà phán, tôi viết văn như
kẻ giảng đạo ở giữa sa mạc.
NQT
Phạm Duy Khiêm, xưa chê đám
Mít viết văn bằng tiếng Mít, là tụi “ratés”, thất bại.
Có thể, vì tiếng Mít hồi đó còn hoang dại lắm.
Nhưng ratés, bi giờ là để chỉ đám viết văn bằng tiếng Tây,
nhất là đám con cháu VC!
Chúng đếch biết viết, bằng thứ tiếng gì nữa, mặt trái/theo
kiểu Kafka phán, tớ nói tất cả ngôn ngữ, nhưng bằng tiếng Do Thái
Với Kafka, là hãnh diện, còn đối với đám CCCC/VC này, là nhục
nhã, mặt phải/theo kiểu Malaparte chửi Đồng Minh:
Thắng trận nhục nhã lắm!
Bạn DK này, ở Mẽo, nhưng đọc,
thấy có vẻ rất ghét Mẽo!
Y chang đám Bắc Kít!
Hà, hà!
Ngô Khánh Lãng & Vũ Bạch
Tuyến & Nguyễn Hải Hà
Trụ ơi !
Tớ
còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè 1972, Trụ còn rủ bọn này đi
"bát phố Bonnard" như ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi trên sườn xe đạp của
tớ từ nhà anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn gác sau BV Bình Dân đến trường
Thành Công của Ô. Chu Tử trên đường Lê Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam,
Đoàn Đức Long, Mai Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không ? (tất cả đều
không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà Trỵ đó.
(1)
Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc đến 18/9 mới về nên không
gặp và hẹn Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn Trọng Văn và Quyên Hải quân
nữa....nhưng Lãng có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy.
Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali. khoảng tháng 10 này,
phải không ? Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến biết, có thể chúng
mình sẽ gặp lại nhau sau 40 năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến
Ngô Tùng Lam thì nhớ quá chứ,
còn mấy bạn kia quên sạch.
Mai Ngọc Liên?
Có phải anh bạn ở bên Thủ Thiêm, rớt Tú Tài I, đi Đà Lạt ngay khóa
đầu?
Tớ chơi xì ke chừng vài chục
năm [cc 1970-1989, cỡ đó] khi “hồi phục”, mất hẳn 1 khoảng thời gian, không
làm sao nhớ lại được.
May là còn ngờ ngợ ra bạn!
Tháng tới, tớ qua Cali, sẽ gặp nhau
Gửi lời chúc tới gia đình và tất cả bè bạn
NQT
Đây là Phà Thủ Thiêm, nhưng
trong hình, không có con phà, mà chỉ có những con đò.
Thời gian trọ học bên Thủ Thiêm,
gần ngay bờ phía bên kia, hàng ngày đi học, Gấu dùng phà, vì có giá đặc
biệt cho học sinh. Chỉ tới sau 1975, thì mới qua lại bằng bến đò Thủ Thiêm,
nơi cột cờ Thủ Ngữ, vì phiá bên kia là khu xóm chích.
Quen Phạm Văn Hàm ở bên đó, vì cùng trọ học. Hàm dân Hố Nai, sau học
Luật, ra trường làm lớn, ở Tòa Sài Gòn. Anh nhớ nhiều về thời gian trọ học,
Gấu gần như quên sạch.
Đầu tiên người chủ trọ là 1 ông
đàn ông, sau ông ngày nhường mối cho 1 người bà con, có chồng, nhưng chồng
mất, có mấy đứa con, hình như đều là con trai.
Để căn chừng người đàn bà có con không có chồng, là ông bố chồng.
Hàm còn nhớ tên tất cả, có lần qua Cali, Gấu hỏi, anh trả lời, nhưng lúc
này, Gấu chẳng nhớ.
Nhưng nhớ cái kỷ niệm thật đáng nhớ về bà chủ trọ, kiêm nấu cơm trọ,
cho 1 đám thanh niên mới lớn.
Gấu nhớ là, đứa con trai của
bà rất thông minh, và hay quấn quýt với Gấu. Một lần, bế thằng bé, Gấu chỉ
trái bầu trên giàn, hỏi trái gì, nó nói, trái bầu, hỏi tiếp trái bầu giống
cái gì, nó nghĩ và trả lời, giống cái chai, hỏi nữa, nữa, sau cùng trở
lại với trái bầu, và khi Gấu hỏi trái bầu giống cái gì, nó khóa họng Gấu
bằng câu trả lời:
-Giống 1 trái bầu khác!
Tuyệt!
Gấu xoa đầu thằng bé khen um
lên, bà mẹ cũng mừng quá, cười quá là cuời, cái cảnh Gấu bế thằng bé, tung
lên trời rồi ôm vào lòng, và hình như là bắt đầu thương.... Gấu, đúng
vào lúc đó!
Hà, hà!
Phải đến chót đời, thì Gấu mới
hiểu được người đàn bà có chồng một mình nuôi con này thương… Gấu, khi nhớ
lại một buổi trưa, nhà chẳng có ai, Gấu và thằng bé đang nô đùa, người đàn
bà nói, ông cụ nhà tôi chửi tôi mê trai, Gấu ngạc nhiên, hỏi mê trai, mà
mê ai chứ, người đàn bà mặt đỏ ửng, bẽn lẽn nói, mê... cậu.
Gấu khi đó, thực sự không biết
ba cái chuyện này, ngu thế.
Thành thử nghe xong, cũng… bỏ qua, chán thế!
Về già, tiếc hùi hụi!
Thủ
Thiêm
Nhìn hình, và
đều già cằn, nhưng làm
sao quên được kỷ niệm nhưng ngày mới vô Sài Gòn, mà, nếu không có bạn
Tuyến, không làm sao đi học được tại trường Thành Công, và nếu có đi được,
thì cũng trần ai, vì phải đi bộ. Suốt thời gian học Thành Công, bạn
Tuyến ngày nào cũng phải chở Gấu đi học.
Cũng thế, thời gian trọ học Thủ Thiêm, bạn Hàm cho mượn chiếc xe
đạp. Chỉ đến khi đậu cái bằng Tú Tài 1, được Bà Trẻ lôi về nuôi, thì
mới lấy lại cái xe.
Bạn Tuyến có thể quên, nhưng Gấu gặp lại bạn 1 lần, ở 1 con hẻm,
nơi Cổng Xe Lửa Số 6, nơi nhà ông Hiếu Chân, sau khi dời Chợ Vườn Chuối,
mua cái nhà ở đó. Bà chị họ, vợ ông HC tiếp tục cái nghề bán bún chả, ở
chợ Trương Minh Giảng. Chắc là bạn đến chơi gia đình 1 ngươi quen, kêu
Gấu.
Gấu "hi" 1 phát, rồi chuồn.
Lúc đó ghiền nặng quá, ngượng, chẳng muốn gặp lại bạn cũ.
http://huyvespa.blogspot.com/2015/11/thanh-tam-tuyen-tren-khoi-hanh-series.html
Giấc Mơ BHD
Tuổi thơ là một cơn mộng không biết là cơn mộng.
Trong nhiều năm
nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi,
giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của con phố
Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh
một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm,
tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là
những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời
kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong
trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một
lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai
tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển,
trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng
ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể
của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên
tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi
bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng
tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn
nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa
sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn
nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi
chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân
vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có
một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh
tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này cho
tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng
thay, tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì
thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc.
Một thứ cảm giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa
từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có
ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được
đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu
Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc
đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác
lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được
mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa
tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật
Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm
thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà chọc trời tuyệt
vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên ấn
định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa
sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng
tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng
có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc
mơ là thực. Nhưng, chỉ có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt
vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào
trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi,
nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi
nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời
của khu Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để
ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và
chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ
ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước.
Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong
đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi
khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của
giấc mơ, thì không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên
tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa
trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng
bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ
ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng
cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó,
Bông Hồng Đen từ bỏ nó.
“Y hệt như là,
bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của
một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và
bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị
nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.
Và nàng
nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”
Hình như,
luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này,
là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi,
vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc
Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.
Theo Enrique Vila-Matas
Nhưng mà, này, vẫn thuổng Vila-Matas, liệu có
một thánh nữ có tên là Bông Hồng Đen?
(1)
Béatrice exista-t-elle vraiment?
AUTOFICTION
Une seule certitude: l'autofiction
est un néologisme inventé par le professeur et romancier français
Serge Doubrovskyen 1977. Il désigne une variante moderne de l'autobiographie
romancée. En anglais, ce même genre littéraire s'appelle faction,
fusion des mots fact et fiction.
C'est tout ce que je sais sur l'autofiction.
Je me rends tout à coup compte en rougissant
que je dois demander pardon, parce que je sais quelques autres
choses à ce sujet. Vous voyez bien comment je suis. Sans y songer
vraiment, je m'étais déjà mis à faire de l'autofiction. Oui, je
sais certaines choses de plus. Je sais, par exemple, ce qu'a exactement
dit Doubrovsky. Il a dit qu'il y a autofiction quand « l'auteur devient
lui-même sujet et objet de son récit ». Et je sais aussi ou crois savoir
ce qui distingue l'autobiographie de l'autofiction. C'est tout simple:
l'autofiction, c'est l'autobiographie faisant l'objet d'un soupçon. Celui
qui raconte sa vie la transforme en roman et passe la frontière qui le
mène vers les domaines de la fabulation. Ce qui veut dire que nous ne
devons plus comprendre l'autobiographie uniquement de façon classique
(simple reproduction exacte du moi), mais comme un ensemble de matériaux
utilisés pour la fiction, si bien que l'auteur auto-invente son autobiographie.
Il n'est pas indispensable d'être comme les
autres veulent nous voir, mais que l'écriture nous serve à
construire notre propre personnalité et notre biographie. Nous
pouvons renoncer aux liens chaotiques avec les événements de notre
vie et essayer de nous autocréer, de modeler notre propre personnage
et notre propre biographie pour l'usage du lecteur, de notre fiancée,
de notre épouse ou de notre belle-mère.
Ce que fit, par exemple, Gombrowicz dans son
célèbre Journal. À la base, il y a évidemment des faits réels
de la vie de l'auteur, de la vie de Gombrowicz. Ce sont des faits
racontés plus ou moins minutieusement tandis que, simultanément,
des fragments d'essais philosophiques, de brillantes polémiques,
des passages lyriques, des plaisanteries grotesques, et aussi, ouvertement,
de la fiction littéraire accèdent au même statut.
Cela dit, par bonheur, Gombrowicz n'avait jamais
entendu parler d'autofiction. Pour ma part, j'ai du mal à m'habituer
à ce mot apporté au monde par Doubrovsky. Bien des annnées
avant d'entendre parler d'autofiction, j'ai écrit, je me souviens,
un livre intitulé “Souvenirs inventés” (1) dans lequel je m'appropriais
les souvenirs d'autres personnes pour consstruire mes souvenirs personnels.
Je ne sais toujours pas si c'était de l'autofiction. Toujours est-il
qu'avec le temps, ces souvenirs sont devenus pour moi tout à fait
vrais. Je dirais même que ce sont mes souvenirs.
Pour ce livre, j'avais volé à Antonio Tabucchi
ses souvenirs de Porto Pim dans les Açores. Mais Tabucchi ne
l'a pas mal pris et a donné un double tour d'écrou à cette
histoire en transformant les souvenirs que je lui avais volés en
souvenirs à lui, de son invention. Ce double tour d'écrou n'a,
pour l'instant, aucun néologisme qui le désigne, il attend son Doubrovsky,
mais à vrai dire, je préférerais qu'il n'yen ait pas d'autre, parce
qu'il ne me semble pas indispensable de donner des noms à toutes les variantes
du prétendu nouuveau genre, et si je dis « prétendu nouveau genre
», c'est parce que Dante et Rousseau l'ont déjà pratiqué.
Si l'on s'en tient à ce qu'a dit Borges, Dante
écrivit La Divine Comédie uniquement pour y inclure, de temps
à autre, des scènes de ses renconntres avec l'irrécupérable
Béatrice, dont le regard le comblait d'une inntolérable béatitude.
Béatrice qui s'habillait en général de rouge. Béatrice à qui
il avait tant pensé qu'il fut étonné que des pèlerins qu'il vit un
matin à Florence n'eusssent jamais entendu parler d'elle.
Béatrice exista-t-elle vraiment?
L'ombre d'un léger soupçon pèse sur elle.
Et une autre sur Dante. Avait-il, par hasard, des souvenirs inventés?
Je crains fort que l'autofiction ne soit une
invention de Dante. Lacan disait que la vérité est structurée
comme une fiction. Dante aurait, à coup sûr, souscrit de
son plein gré à cette phrase .•
Traduit de l'espagnol par André Gabastou
(1) Non disponible en français.
Magazine Littéraire Nov 2005
Tất cả cái gọi là thơ xuôi thì không
thực.
hay,
Làm đếch gì có cái gọi là thơ
xuôi
Điều này chính xác: tự động
giả tưởng là một tân luận lý được phát minh bởi một vị giáo
sư, tiểu thuyết gia người Pháp, Serge Doubrovskyen,
vào năm 1977, để chỉ 1 thể loại
văn học hiện đại qua đó, tự thuật được tiểu thuyết hóa. Trong
tiếng Anh, cũng có 1 thứ tương tự có tên là “faction”, do “fact”
[sự kiện] trộn với giả tưởng [fiction].
Đường Lê Lợi. 1968
Hình manhhai
Nhà thương Đô Thành, phía
bên phải. GCC ăn mìn
VC ở Mỹ Cảnh, được cảnh sát khiêng ra xe, rồi đưa vô đây.
Khi ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện, còn là
thầy dạy học trường Quốc Gia Bưu Điện, Thầy Nguyễn Văn Điều, vô
thăm, thấy kiến bu vết thương, phán, cho nó vô Grall - nhà thương
Đồn Đất, của Tẩy.
Kế nhà thương, là bót Lê Văn Ken, GCC cũng đã
bị bắt, đưa vô đây, đã kể rồi, trong Lần Cuối Saigon.
Capstan: Cho anh phát súng
tim anh nát!
Grall là nhà thương tư, Gấu vô
đó, là phải trả tiền. Khi ông Tổng Giám Đốc phán như thế,
là nhà nước phải trả tiền. Sau đó, trừ vào lương. Phải mất đâu cả
1, hay 2 năm, Gấu mới thanh toán hết tiền nằm Grall.
Bót Lê Văn Ken. GCC lầm là Bót Hàng Ken.
Thảo Trường, hồi chưa di xa, mail, chỉ cho cái sai.
Khi GCC nằm nhà thương Đô Thành,
BHD không dám vô thăm. Đọc báo Chính Luận, thấy GCC thuộc loại bị
thương nặng, khóc, mà không dám dụi mắt, sợ mắt sẽ đỏ, mọi người trong
nhà sẽ biết. Khi Gấu chuyển vô Grall, ghé thăm đâu cũng được một, hai
lần; một lần, trên đường đi, ghé 1 tiệm sách ở Lê Lợi, mua 1 cuốn
của J.H. Chase, Un beau matin d’été, Một sáng đẹp mùa hè. Hỏi, đọc
chưa. Gấu ngu quá, nói đọc rồi, em, mặt xịu xuống, H. cũng nghĩ là anh
đọc rồi.
Khi về nhà dưỡng thương, ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú
Nhuận, có ghé, rồi, khi về Đài làm việc, với cái tay băng bột,
cũng ghé.
Khi tháo băng bột, là mối tình chấm dứt.
Cái đoạn, chạy theo em, nơi cổng trường Đại Học Khoa Học,
Đại lộ Cộng Hòa, xẩy ra đúng như vậy. Gấu không thêm bớt, tưởng
tượng.
Sau này, nghe qua Vy, cô em họ, em nói, học Y Khoa
mấy năm dài, làm sao bắt anh Gấu đợi. Mà đợi, thì cũng chắc gì đã
nên vợ, nên chồng. Hơn nữa, anh Gấu, có bằng cấp, công chức chánh
ngạch Bưu Điện, có nhà nhà nước cấp, lại viết văn nữa, thiếu gì người
lo cho anh ấy…
Em tính toán y hệt 1 cô gái Bắc Kít. Thật là chu
đáo. Nhưng lý do chính, là, em không muốn Gấu phải gọi ông bố của
em là bố!
Nhớ, lần đi chơi trong Chợ Lớn, về, ghé hình như cũng
đường Lê Lợi, để em đi bộ về nhà. Ra khỏi xe, có một bà và 1 cô
gái, đứng bên hè đường đợi tắc xi, hóa ra là cô bạn cùng lớp, và
bà mẹ của cô. Cả hai cùng trố mắt nhìn. Gấu hoảng quá. Em tỉnh
bơ, như người Hà Nội, chào, và giới thiệu Gấu, không phải bạn trai,
mà là bạn của ông anh.
Thật là chững chạc.
Ui chao, sau đọc MCNK, cũng có 1 cảnh y chang. Nhưng thê
lương hơn nhiều.
Đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ, khi
chàng tỉnh táo, nhận ra những khuôn mặt thân thương trong gia đình,
chàng cố gắng cất tiếng nói nhưng không thể, và chàng cảm thấy thật
rõ ràng một điều, chàng sẽ chết trong đêm, và trước khi chết, chàng
sẽ được gặp nàng lần cuối cùng. Trước khi chết, chàng sẽ còn đủ thì
giờ để nói với nàng, rằng chàng yêu nàng vô cùng, và tình yêu đó
chẳng liên can gì đến đời sống hoặc cái chết, rằng nó phải như vậy, nếu
không đã chẳng thể nào có nàng và chàng ở trên đời, và điều chàng
ân hận, là chàng đã yêu nàng nhiều quá, như một lần chàng đã viết,
"Chúng ta không sợ chúng ta không yêu thương nhau mà chỉ sợ chúng ta
yêu thương nhau nhiều quá." Chàng cảm thấy đời chàng sẽ kết thúc như
vậy, và chẳng thể nào khác.
Sáng sớm hôm sau, khi chàng nhận thấy
đã chống cự nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa dối được định mệnh, đồng
thời chàng cũng nhận ra một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng
như có một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc sai, dư, thừa, bất
toàn, một giọng hát lạc giữa một bài ca, sự sống sót của chàng
là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và
nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
Trong khi lần hồi sống lại, trong những
lần nàng vào nhà thương Grall thăm chàng, nghe nàng kể chuyện,
khi được tin, nàng đã khóc và không dám giụi mắt, vì sợ mắt sẽ đỏ,
và người trong nhà sẽ biết. Chàng nghe kể lại, vừa cảm động vừa
hổ thẹn....
Ngày 28 tháng 3, tôi gặp lại H. lần cuối cùng. Trời bữa đó mưa.
Trận mưa mở đầu mùa. Thời tiết thay đổi, khí hậu ẩm ướt làm cánh tay
trái của tôi trở nên đau nhức, khó chịu. Tôi ra Sài Gòn, tìm một
quán nước, vừa uống cà phê vừa ngó mưa. Quán này, ngày trước tôi và
H. thỉnh thoảng có ghé. Tôi còn nhớ, một lần ngồi đây, cũng tại bàn
này, tôi uống bia, và chợt có ý định muốn hôn nàng. Lúc đó buổi trưa,
trong quán chỉ có một hai người ngoại quốc đang dùng bữa. Họ vừa ăn
vừa cắm cúi đọc báo. Ngày hôm sau, nàng bảo tôi, nàng biết ý định của
tôi lúc đó, và phải quay đi, để che giấu nụ cười.
Đang ngồi, đột nhiên nhớ đến nàng, đột
nhiên tôi có ý định phải gặp nàng, và chỉ cần nhìn mặt nàng lúc này, là tôi
biết rõ, nàng có còn yêu tôi hay không. Tôi đến Đại Học Khoa Học, và ngồi
ở hiên ngoài, cũng là nơi tôi vẫn thường ngồi với bạn bè, hoặc ngồi một mình
đọc sách, thay vì ngồi bên trong giảng đường nghe giáo sư giảng bài.
Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi
chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng
mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi vừa đứng
đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt,
chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi
nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo,
chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là
không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng
chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt,
tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc
rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn
mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi
đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi
bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối
với nàng đã hết.
Sơ Dạ Hương
Trong khi Kiệt bị quấy rầy, Oanh châm
thuốc lá hút, nhấm nháp ly rượu hồng nhạt. Nàng đóng kiểu
cách vênh váo lạ mắt, nghênh nghênh trông ra cửa sổ làm vẻ không
chú ý đến kẻ nhiễu sự. Thái độ của nàng hơi quá đáng nhưng Kiệt thích.
Oanh càng lúc càng vui vẻ, điệu
bộ ngôn ngữ linh hoạt. Nhiều lúc nửa say nửa tỉnh, nàng bộp chộp
gấp gáp khiến Kiệt phì cười. Đó là những phút vui thê thiết. Những
lúc ấy Kiệt nắm tay Oanh, níu nàng lại, không cho tiến thêm. Chàng
cũng có cảm tưởng hai người đang tựa nhau trong cơn lảo đảo để khỏi té
nhào. Và Oanh cười long lanh nước mắt.
Cuối bữa ăn, không khí bớt ồn
tạp. Oanh bình tĩnh, thong thả hơn. Kiệt thấm rượu choáng váng.
Họ ăn món tráng miệng đặt trên mặt bàn đã thay khăn trải, vẻ thật
nghiêm chỉnh.
Trong phòng nổi mấy khúc nhạc
tối qua. Nhà hàng có lẽ chỉ có vài ba băng
nhạc và mở lên theo một trật tự bất biến. Kiệt lại nghe Hòa Tấu Khúc
số 5, nhưng chàng không hát theo vì còn gặm miếng bánh ngọt. Oanh
khời khời từng muỗng nhỏ trái cây hộp. Hai người âm thầm ngắm lẫn nhau,
cùng ngưng thần sửa soạn vượt chặng gian nan nhất của cuộc tình ngắn ngủi.
Kiệt biết vậy. Và Kiệt biết, người thiếu nữ lạ lùng vừa sống trọn với
mình một ngày chủ nhật, cũng biết thế.
Tu es vraiment femme.
Gấu thực
sự không biết BHD có đọc Gấu, những ngày còn Saigon. Nhưng cái xen
chạy theo em, trên, về già, Gấu biết, gây “chấn động”, ở 1 vài độc giả.
Trong có cô em gái của HPA, cùng học lớp BHD, thời học trường Kiến Thiết,
trên đường Trần Quí Cáp, phía bên đường, căn nhà của BHD, ở đường Phan Đình
Phùng.
Ấy là có lần HPA chê Gấu viết văn vãi linh hồn, và cho biết
cô em của anh, đọc, khúc trên, khóc nức nở.
Cô này, thời gian học cùng lớp với BHD, có lần nhờ Gấu giải
giùm 1 bài toán hình học. Cô ngớ người, và nói với ông anh, Gấu giỏi toán,
còn hơn cả ông thầy của cô!
Saigon_scenes 1967 by Francois Sully - Đường Yersin. Phía
trước là ngã tư Hồ văn Ngà - Yersin, thẳng lên là Khu Dân Sinh.
Francois Sully, ký giả Tẩy, chết cùng Đỗ Cao Trí,
khi trực thăng rớt. GCC nhớ là tờ báo Mẽo mà ông là nhân viên, sau
đó, đi 1 đường điều tra, và kết luận, máy bay để dơ quá, nên rớt, không
phải VC bắn hạ, hình như ở Tây Ninh.
Chữ & Việc
Note: Thú thực Gấu không nhớ
là đã từng giữ mục “Chữ và Việc” cho “Tập San Văn Chương”.
Tks. All of U.
NQT
Đọc, bồi hồi, muốn khóc.
Vì có địa chỉ của BHD, có số điện thoại của BHD nữa!
Hà, hà!
Già rồi, khóc hoài, con nít nó
cười cho!
Người gì mà dai như đỉa thế!
Sorry, NQT
Một thảm kịch vô phương cứu
chữa vẽ nên khuôn mặt nát tan tuyệt vời của tình yêu:
Đúng là nó vận vào anh cu Gấu thật!
Số nhà thì không quên, nhưng
số điện thoại, làm sao mà nhớ nổi, nhưng không quên, cái lần đầu nhờ
cô Nga, nữ điện thoại viên trên Đài gọi giùm, gặp ông bố hắc ám, tất
nhiên. Tra vấn 1 hồi, mới kêu cô con gái. Nói chuyện cũng lâu lắm. Cô
em họ, cô Vy, dân Đà Lạt, hỏi ai đấy, nghe nói Gấu, cô chạy qua nhà kế
bên, có điện thoại, kêu đúng số trên, để cùng nghe. BHD cười quá. Hỏi
về boyfriend, biết là có rồi, bạn cùng học, cũng dân y khoa, sau qua Cali,
thôi nhau, có được 1 đấng con trai.
Qua đây, GCC có mấy cơ hội để có được số điện thoại,
nhưng ngu quá, tự ái nữa, chỉ nhờ 1 anh bạn nhắn giùm, em trả lời qua
anh bạn, để em kêu. Ui chao GCC chờ hoài, em quên, chắc là chờ đi rồi,
sẽ gọi từ phía bên kia.
Đó cũng là lần em kể chuyện boyfriend nghe Sài Gòn rục
rịch có biểu tình là khệ nệ vác mấy bao gạo tới nhà trình ông bố vợ,
và phán, Gấu không làm nổi chuyện đó đâu.
Đúng, không làm nổi.
Mà có làm nổi thì em cũng cấm không cho làm.
Bởi là vì, nếu Gấu làm nổi, thì em đâu cần có thêm 1
thằng vác gạo khác nữa?
manhhai
Vietnam war Photo - Fall of Saigon, April 1975
Marcus, gmp3157 and 5 more people faved this
ngao5 7h
13-4-1975, trực thăng CH-47 Chinook di tản binh
sĩ Sư đoàn 18 bộ binh và gia đình ra khỏi Xuân Lộc. Ảnh: Dirck
Halstead
GCC biết Dirck Halstead trở lại Việt Nam làm phóng
sự di tản cho Time, quá trễ, qua Nhung, cũng 1 chuyên viên Bưu
Điện, cũng làm part time cho tụi báo chí Mẽo, đúng ngày Dương Văn
Minh ra lệnh Mẽo cút khỏi Miền Nam. Đến khách sạn anh ở, ở đường Nguyễn
Huệ, anh nói, cầm cái camera theo tao, lên trực thăng, ra hạm đội
7, hết C.130 rồi, Gấu không thể bỏ gia đình, lắc đầu, anh móc túi
lấy hết số tiền Ngụy còn lại giúi vô tay Gấu, miệng nói bye, bye. Gấu
xuống Ngã Sáu, làm 1 shot, chắc phải 2, rồi về nhà nằm phê!
Mới nhận mail của Dirck, liền tức
thì:
From:
Date: Thursday, July 21, 2005 11:36:18
PM
To: Nguyen_Quoc_Tru
Subject: Re:
It's wonderful to hear
from you Tru. How are you?
We missed you at the reunion
in Saigon in May.
Cuộc hội ngộ vào tháng
Năm, the reunion in Saigon in May, là vào năm 1985, khi VC kỷ niệm
Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân. Mời mấy anh ký giả Mẽo tới, trong có
Dirck.
Hai Lúa lúc đó ở trong
Trại Bà Bèo, sau chuyến đi Vàm Láng thất bại, như đã kể sơ sơ trong
một bài viết.
Khi về được Sài Gòn thì
lễ lạc đã qua. Tình cờ gặp Tám, nhân viên phòng tối. Anh nói,
thằng Dirck hỏi thăm mày, nhưng tao với nó phải đứng xa nhau cả mười
mấy thước, ở ngay trước Tòa Đô Chính, chỗ bùng binh phun nước.
Sợ mấy ảnh, đầy đường
lúc đó.
Tám nói, cũng là tình cờ
tao nhìn thấy thằng Dirck từ đằng xa. Chính nó kêu tao.
Tám, nhân viên phòng tối,
trốn lính, suốt ngày đêm đóng đô tại văn phòng UPI. Bữa đó, cuồng
cẳng quá, mò ra ngoài, lang thang mấy snack bar kế bên văn phòng
tại đường Ngô Đức Kế, phía đi ra Nguyễn Huệ, bị tóm liền.
Bữa sau, Hai Lúa xuống
văn phòng, gặp Tư Râu, người chuyên đưa hình lên Đài cho HL chuyển
đi. Anh nói, mở mấy ngăn kéo riêng của thằng Tám, thấy toàn xú
chiêng, quần lót của bướm!
Dirck cũng từng đề nghị
với Hai Lúa, mày có muốn đi làm tại văn phòng UPI Tokyo, tao lo
cho. Đó là lúc cuộc chiến "hứa hẹn những điều khủng khiếp".
Lạ một điều, Hai Lúa chưa
từng có ý định rời bỏ Sài Gòn, chờ cho cuộc chiến qua đi, rồi lại
mò về. Đi tu nghiệp hai năm thì được. Nhưng do làm UPI, HL từ bỏ một
hai cơ hội tu nghiệp Huê Kỳ. Nhớ lại, lúc đó, chỉ mong được đi Tây.
Cho Gấu tí Paris
Để Gấu làm thi sĩ!
Đại khái vậy!
Chuyến đi "liên can" tới
lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người CS. Người
bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin, những
tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học tập,
tình cảnh vợ con ở nhà, và ... MIA.
Bài Surprise là do một độc giả Tin Văn
[ĐLK, cộng tác viên thường trực của Tin Văn, đúng hơn], chuyển cho.
Nhờ vậy, liên lạc được với Dirck. Tks. Hai Lúa.
Giấc Mơ BHD
Tuổi thơ là một cơn mộng
không biết là cơn mộng.
Trong nhiều năm nhiều năm, một
giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi
tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó,
đứa trẻ là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và
trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung
quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của
thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong
trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một lúc,
một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ
như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn
lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một
đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng,
hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên
tài tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy
cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong
những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi
cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn,
một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau,
tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang
tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà
cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này
cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay,
tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ
TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm
giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên
cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ
ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì
thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa
nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời,
giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để
đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn,
và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li,
tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà
chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và
hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra
cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng
tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì
khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng,
chỉ có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt
vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào trong
bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng
có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài ra bên ngoài
cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn
thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu
phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi
nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái
sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong
đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá
ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không
phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ
sự, luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng
tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và
tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng
cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng
Đen từ bỏ nó.
“Y hệt như là, bất thình
lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa
sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao,
vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.
Và nàng nói, “Bây giờ H.
hết lãng mạn rồi!”
Hình như, luôn luôn là, đối
với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần
của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc
Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.
Theo Enrique Vila-Matas
Trang Vila-Matas
Ui chao, mò ra được bài viết
trên, sướng mê tơi.
Của Người Phước Ta.
Cám ơn ông Vila-Matas một phát!
Tks Both [Hai Bac] of U. NQT
manhhai
SAIGON 1967 - Đường Nguyễn Du, cổng Vườn Tao Đàn
Cổng vô vườn Tao Đàn, phía đường Nguyễn Du. Lần đầu tiên,
Gấu đậu cái xô lếch bên hè đường, phía bên trong vườn. Em đi bộ, phía
bên kia đường, vô vườn, Gấu vòng xe hoa, em thản nhiên ngồi lên, đúng
như em viết trong 1 lá thư sau đó.
Nhớ là thời gian đó, cuối năm, lạnh, Gấu dậy sớm, chắc là do lạnh,
nên nhớ Hà Nội, xứ Bắc Kít, thế rồi bất thình lình, nhớ Em khủng khiếp,
và thế là lấy cái xô lếch phóng 1 mách…
Chiếc xô lếch, là của bạn Chất. Bà cụ Chất nói, mày lấy cái xe,
đi làm, đừng đi xe đạp nữa, có tiền rồi. Tao mua chiếc xe Nhật cho nó....
1967, đúng thời gian này.
|