|
1986: Turin
AFTER THE
SEASON OF AUSCHWITZ
Sau Mùa Lò Thiêu
Are you
ashamed because you are alive in place of
another? And in particular, of a man more generous, more sensitive,
more
useful, wiser, worthier of living than you? You cannot block out such
feelings:
'you examine yourself, you review your memories, hoping to find them
all, and that
none of them are masked or disguised. No, you find no obvious
transgressions,
you did not usurp anyone's place, you did not beat anyone (but would
you have
had the strength to do so?), you did not accept positions (but none
were offered
to you ... ), you did not steal anyone's bread; nevertheless you cannot
exclude
it. It is no more than a supposition, indeed the shadow of a suspicion:
that
each man is his brother's Cain, that each one of us (but this time I
say us in a much vaster, indeed, universal
sense) has usurped his neighbor's place
and lived in his stead. It is a supposition, but it gnaws at us; it has
nestled
deeply like a woodworm; although unseen from the outside,
it gnaws and rasps.
After my
return from imprisonment at Auschwitz, I was visited by a friend older
than myself,
mild and intransigent, the cultivator of a personal religion, which,
however;
always seemed to me severe and serious. He was glad to find me alive
and
basically unhurt, perhaps matured and fortified, certainly enriched. He
told me
that my having survived could not be the work of chance, of an
accumulation of
fortunate circumstances (as I did then and still do maintain) but
rather of
Providence. I bore the mark, I was an elect: I, the nonbeliever, and
even less
of a believer after the season of Auschwitz, was a person touched by
Grace, a
saved man. And why me? It is impossible to know, he answered. Perhaps
because I
had to write, and by writing bear witness: wasn't I in fact then, in
1946,
writing a book about my imprisonment?
Such an opinion seemed monstrous to me. It
pained me, as when one touches an exposed nerve, and kindled the doubt
I spoke
of before: I might be alive in the place of another, at the expense of
another;
I might have usurped, that is, in fact, killed. The "saved" of the
Lager [the concentration camps] were not the best, those predestined to
do
good, the bearers of a message: what I had seen and lived through
proved the
exact contrary. Preferably the worst survived, the selfish, the
violent, the
insensitive, the collaborators of the "gray zone," the spies. it was
not a certain rule (there were none, nor are there certain rules in
human
matters), but it was nevertheless a rule. I felt innocent, yes, but
enrolled
among the saved and therefore in permanent search of a justification in
my own eyes
and those of others. The worst survived, that is, the fittest; the best
all
died.
Chaim died,
a watchmaker from Krakow, a pious Jew who despite the language
difficuties made
an effort to understand and be understood, and explained to me, the
foreigner, the
essential rules for survival during the first crucial days of
captivity; Szabo
died, the taciturn Hungarian peasant who was almost two meters tall and
so was
the hungriest of all, and yet, as long as he had the strength, did not
hesitate
to help his weaker companions to pull and push; and Robert, a professor
at the
Sorbonne who spread courage and trust all around him, spoke five
languages,
wore himself out recording everything in his prodigious memory, and had
he
lived would have answered the questions that I do not know how to
answer; and Baruch
died, a longshoreman from Livorno, immediately, on the first day,
because he
had answered the first punch he had received with punches and was
massacred by
three kapos in coalition. These, and innumerable others, died not
despite their
valor but because of it.
My religious friend had told me that I survived so
that I could bear witness. I have done so, as best I could, and I also
could
not have done so; and I am still doing so, whenever the opportunity
presents
itself; but the thought that this testifying of mine could by itself
gain for
me the privilege of surviving and living for many years without serious
problems troubles me because I cannot see any proportion between the
privilege
and its outcome.
I must repeat: we, the survivors, are not the true
witnesses. This is an uncomfortable notion of which I have become
conscious
little by little, reading the memoirs of others and reading mine at a
distance
of years. We survivors are not only an exiguous but also an anomalous
minority:
we are those who by their prevarications or abilities or good luck did
not touch
bottom. Those who did so, those who saw the Gorgon, have not returned
to tell
about it or have returned mute, but they are the submerged, the
complete
witnesses, the ones whose deposition would have a general significance.
They
are the rule, we are the exception. We who were
favored by fate tried, with more or less wisdom, to recount not only
fate but
also that of the others, indeed of the drowned, but this was a
discourse
"on behalf of third parties," the story of things seen at close hand,
not experienced personally. The destruction brought to an end, the job
completed, was not told by anyone, just as no one ever returned to
describe his
own death. Even if they had paper and pen, the drowned would not have
testified,
because their death had begun before that of their body. Weeks and
months
before being snuffed out, they had already lost the ability to observe,
to
remember, to compare and express themselves. We speak in their stead,
by proxy.
Primo
Levi, from “The Drowned and the Saved”.
Arrested for his involvement in the Italian
resistance during World Word II, Levi entered Auschwitz on February 26,
1944,
and the identifying number 174517 was tattooed on his arm. Soviet
troops liberated
the camp eleven months later, and he made his way home to Turin by foot
and by
train. He published Survival in Auschwitz in 1947 and The Periodic
Table in
1975. Levi died, apparently by suicide, in 1987 at the age of
sixty-seven-in
the same house in which he was born.
Lapham's Death
Khe Sanh,1968
MICHAEL HERR IN A
BLOODSWARM
I looked and
there was a pale green horse! Its rider's name was Death, and Hades
followed
with him.
-Book
of Revelations, c. 90
Tôi nhìn và
thấy 1 con ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần Chết, và Diêm Vương,
đằng sau
anh ta.
Khe Sanh
1968, Sarajevo 1992, Cõi Khác 1969... là cùng dạng “memoir”, kể cả "Nỗi
Buồn
Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Chúng có chung cái air "độc thoại".
Đoạn mở ra Sarajevo, đọc 1 phát là nhập vô liền:
There was
spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city
last
April, veering over the green foothills of Mount Igman.
Có mưa Xuân
và sương mù lợt tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi chiếc phi cơ của
tôi
loay hoay chọn hướng đáp xuống thành phố, bên trên những ngọn đồi thấp,
màu
xanh, của núi Mount Igman.
Câu văn còn
làm nhớ câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận xác chồng”,
cái gì gì,
“phi cơ đáp xuống một chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm vài kiếp nữa, chắc vẫn chưa quên nổi cuộc
chiến.
Mà quên làm khỉ gì không biết!
(1)
Tưởng như còn
người yêu
Ngày mai đi
nhận xác chồng
Say đi để thấy
mình không là mình
Ngày mai đi
nhận xác anh
Cuồng si thuở
ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên
hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa
phụ nhạt mờ vết son
Tình ta
không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng
như còn người yêu
Phi cơ đáp
xuống một chiều
Khung mây
bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát
khúc thương ca
Thân côi
khép kín trong tà áo đen
Chao ôi !
Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn
sẽ đêm đêm đợi chờ
Bây giờ anh
phủ mầu cờ
Bây giờ anh
phủ mầu cờ
Em không
nhìn được xác chàng
Anh lên lon
giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ
tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng
ôm vòng người yêu !
Lê Thị Ý
[net]
Lần đầu
tiên
Gấu nghe, 1 buổi sáng Chủ Nhật không phải đi lao động, tại nông trường
cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng Sát cũ. Nghe 1 phát là rùng hết cả
mình,
nhớ lần đi lấy xác đứa em trai tử trận tại Sóc Trăng.
Đó cũng là lần đầu Gấu biết
được mùi thịt chuột, và nó ngon đến cỡ nào, và phải cơ may [“máy trời”
xoay
chuyển] như thế nào mới được thưởng thức!
Hình Paris
Match, 18-24 Juillet, 2013, số đặc biệt về cặp Kennedy &
Jackie:
Time / 14 May 1973
- You write that 'Ngo Dinh
Diem and his ambitious brother Ngo Dinh Nhu ... were toppled in a 1963
coup that had active US encouragement' [2 April]. Well, perhaps
'toppled' is not so bad a word to choose for 'murdered', though it
would be more accurately applied to the fate of Louis XVI and Charles
I, who certainly lost their 'tops'. (You do not mention a third
brother, the Governor of Hue, who took refuge in the US Consulate and
was handed over by the American authorities to his 'topplers'. The
fourth brother, an archbishop, was, luckily for himself, in Rome,
though President Kennedy might have had scruples in toppling a member
of the ecclesiastical hierarchy. Did it ever occur to him that he who
lives by toppling will die by toppling?)
Now there is another word, insurgent, which you use to describe the
opponents of Lon Nol in Cambodia, who was himself surely an
'insurgent', with American aid, against the neutral Prince Sihanouk.
Perhaps it is time that Lon Nol was 'toppled'.
Graham Greene: Yours etc.
[Letters to the Press]
Thư này cũng thú. Greene
chửi tờ Time, về cách dùng từ, [nhạy cảm hay không nhạy cảm],
những kẻ “lật đổ” hay là “sát nhân”, trong vụ Mẽo làm thịt mấy anh em
ông Diệm.
Những kẻ lật đổ và bị lật
đổ
Mi viết, xừ Diệm và ông em
tham vọng, Nhu… bị lật đổ trong cú 1963, và cú này được sự khuyến khích
tích cực của Mẽo [báo Time ngày 2 Tháng Tư]. OK. Có lẽ “bị lật
đổ” là 1 từ không đến nỗi tệ, để thay thế từ “bị làm thịt”, nhưng có lẽ
cái từ “tóp, tóp” như thế đó, đúng ra, nên áp dụng cho những trường hợp
của vua Louis 16, và Charles Ðệ Nhất, vì hai xừ này bị chúng chặt mẹ
mất chỗ đội nón, [their tops]!
Mi quên không nhắc tới viên Tổng Trấn Huế, đã chạy vô được Tòa lãnh Sự
Mẽo xin ẩn trú, nhưng bị Mẽo giao cho “những kẻ lật đổ”.
Ông anh Thứ Tư, một vị giám mục, may cho ông ta, ở La Mã; Tông Tông
Mẽo, Kennedy hẳn cũng phải có tí ngần ngại, khi toan tính lật đổ một
chức sắc nhà thờ.
Nhưng xừ luỷ có bao giờ nghĩ đến câu, kẻ nào dùng gươm thì sẽ chết vì
gươm, mi tính chặt đầu người khác, thì cũng có kẻ khác tính chặt đầu mi!
Note: GCC đọc Hitchens,
viết về
Kennedy và cú làm thịt Diệm mới hỡi ơi, về những “biên cương mới”,
“đừng hỏi đất
nước làm gì cho bạn...”
Hitchens
kết án, đúng là hành động của lũ
găng tơ.
Thú vị hơn, Orwell cũng dùng từ này, để chỉ, chính nước Anh của ông:
“Đế quốc Anh ở Miến Điện, là chủ nghĩa găng tơ”
"L'impérialisme britanique en Birmanie, c'est du gangstérisme" (1)
Đây chính là câu hỏi mà 40 năm
sau vụ sát hại một tổng thống Mỹ,
tờ Paris Match số đề ngày 16-22 tháng Mười, 2003, bằng một phóng sự đặc
biệt +
hình ảnh, gồm 16 trang, cho biết, một cuộc điều tra của đài Canal+ của
Pháp, và
một cuốn sách, Người Chứng Cuối Cùng, tác giả Billie Sol Estes, nhân
chứng độc
nhất còn sống trong vụ mưu sát, xác nhận: Phó Tổng Thống Mỹ, Johnson,
là người
chủ mưu vụ giết Kennedy. Nguyên nhân: vàng đen Texas.
Theo tờ báo, phải luôn luôn
đánh thức lịch sử, đọc đi đọc lại
những trang đen tối nhất của nó, nêu đích danh thủ phạm, cho dù chúng
biến mất
từ đời tám hoánh nào rồi.
Hơn nữa, người ta cũng không
thể biện minh cho cái ác, bằng… hậu
quả tốt đẹp của nó. Đây là đề tài của một cuốn tiểu thuyết của G.
Steiner,
trong đó, ông để cho nhân vật giả tưởng của ông là Hitler biện minh
trước lịch
sử: Nếu không có… tui, và vụ Lò Thiêu, làm sao có quốc gia Do
Thái như
hiện nay ?
[Liệu sẽ có một ông nào đó,
biện minh: Nếu không có “tội ác..
1975”, làm sao có quốc gia có tên là Thuyền Nhân, hay Việt Kiều Yêu
Nước?].
Tờ Paris Match nêu trên, khi khui lại
vụ giết Kennedy, đã
lên án cái gọi là dối trá chính trị, theo tờ báo, nó giống như gỉ sắt,
làm đắm
tầu, làm mất niềm tin của dân chúng. (2)
Khe Sanh,1968
MICHAEL
HERR
IN A BLOODSWARM
(The only Vietnamese many
of us knew was the words "Bao Chi! Bao Chi!" - Journalist!
Journalist!- or even "Bao Chi
Fap!"- French journalist!- which was the same as crying, Don't
shoot!
Don't shoot!)
From
Dispatches.
The conflict in Vietnam between the communist North and anticommunist
South began
after the North defeated the French colonial administration in 1954. By
1965
President Johnson had committed over 180,000 US. troops to the country.
Herr
served six months of active duty in the Army Reserve in 1963 and 1964
and was
in Vietnam in the late 1960s as a correspondent for Esquire. In 1977 he
published his memoir, Dispatches,
which John le Carré called ''the best
book I
have ever read on men and war in our time. "
Mấy từ tiếng
Mít độc nhất mà đa số chúng tôi biết, là "Báo chí! Báo chí!", hay, "Báo
Chí Pháp", và nó có nghĩa, “Đừng bắn! Đừng bắn!” “Tha mạng cho tôi!”
John le Carré
phán, số dách! Tớ chưa từng đọc cái nào bảnh hơn nó, viết về đờn ông và
chiến tranh,
trong cái
thời của chúng ta!
Ui chao, giá
mà xừ luý đọc “Tứ Tấu Khúc”, hay “Cõi Khác”, của Gấu Cà Chớn, nhỉ!
Đau khổ nhất
là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ
máy
móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên
ngoài địa
ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến
tranh rồi sẽ
qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ
tưởng mình ở
trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên
cuồng
đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang
cùng
ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không
còn chỗ để
ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người
Nhật,
người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến
tiếc đất
nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế
giới, cả
loài người đều nghe...
Cho người chết
gật đầu thông cảm.
|