|
Bưu
điện Sài Gòn, cc 1904
Bùng
Binh (1) Sài Gòn.
Bên trái, là đường Lê Lợi, có Bót Hàng Ken,
nơi Gấu bị mấy anh cảnh sát
cho ăn bạt tai, vì cái tật bép xép.
Có Nhà thương Đô
Thành nơi
mấy anh cảnh sát chở Gấu tới, sau khi ăn mìn
VC tại nhà hàng Mỹ Cảnh.
Có rạp Vĩnh Lợi [?]
nơi Have U Ever
Seen The Rain? (2)
(1) Bùng Binh, từ tiếng Tây,
Rond Point, hẳn thế.
(2 )Have
you ever seen the rain?
Lần đầu nghe câu hát này, Hai Lúa giật mình tự hỏi, tại sao lại có một
lời ca lạ
kỳ như vậy.
Rồi chẳng bao giờ Hai Lúa tìm hiểu những lời tiếp theo.
Bởi vì câu hát đó, đến đó, là trọn vẹn đối với Hai Lúa.Câu hát trọn vẹn
của nó
đối với Hai Lúa là như vầy:
Em có bao giờ nhìn thấy mưa rơi trên tóc, trên mặt, trên má em, bữa hai
đứa
mình đứng trú mưa, tại vỉa hè đường Lê Lợi, ngay trước rạp hát, kế bên
Nhà
Thương Đô Thành... (1).
Làm sao em nhìn thấy được!
Và bây giờ, sau bao nhiêu năm, làm sao em nhớ được!
Chỉ có một mình anh nhớ, cho cả anh và em.
Và cũng chẳng ai thèm nhìn, thèm để ý, trừ cái thằng ngố đứng sững như
trời trồng,
buổi sáng bữa đó.
Đâu có thua gì Barbara, của Prévert.
Cũng có một cuộc chiến chó đẻ, rình rập.
Cũng cố vội vàng, hạnh phúc.
(1) Rạp Vĩnh Lợi, nhớ ra rồi. Còn Lê Lợi là rạp chiếu phim thường
trực, ở sau
chợ Sài Gòn, gần trường Văn Khoa cũ, nơi có lần Hai Lúa rủ em đi coi
movie, hết
ghế, chật cứng người, phải đứng coi ngay gần cửa, chưa đầy phút, em đã
đi ra,
nói, có một thằng khốn nạn đứng phía sau em.
Bếp
Lửa trong Văn Chương
Hemingway
revealed as failed
KGB spy
Papa
Hemingway đã từng là một KGB cà chớn!
carnets
de lecture
par
Enrique Vila-Matas
À
CHAQUE JOUR SUFFIT SON
TABAC
Ngày nào cữ đó!
Holy
Smoke, de l'écrivain
cubain Cabrera Infante, vient d'être traduit en français
Tout commença par une
commande d'une revue américaine, que l'écrivain cubain Cabrera Infante
n'honora
jamais.On lui demanda quatorze feuillets sur le tabac et il en écrivit
quarante-cinq. L'article ne fut, bien sûr, jamais publié. Son agent
américain
lui proposa alors de continuer à écrire sur le sujet pour en faire une
sorte de
brochure illustrée. Cabrera écrivit trois cents pages et la brochure
finit par
se transsformer en Holy Smoke, son premier livre écrit en anglais, l'un
des
meilleurs de cet écrivain inégal mais qui avait commencé, il est vrai,
par un
livre exceptionnel, Trois Tristes Tigres (éd. Gallimard, 1970) le roman
sur le
monde nocturne de La Havane qui le fit connaître en 1964 et lui fit
gagner le
Biblioteca Breve, le plus prestigieux des prix en langue espagnole de
l'époque.
Un livre passionnant, dont le centre névralgique n'est ni les
personnages ni
l'intrigue mais le langage. Le roman tout entier est une brillante fête
du
Langage avec majuscule, très insolite dans le paysage romanesque des
lettres en
langue espagnole de l'époque: jeux de mots constants, calembours,
allitérations
et rôle central attribué à la littérature elle-même.
Holy
Smoke, qui paraît enfin
en France
(1), est un autre livre important de cet écrivain. Le titre provient
d'une
exclamation courante dans la bouche des plus divers acteurs de
Holllywood,
notamment dans celle
de Cary Grant qui la répétait tout le temps. Cette exclamation dérivait
d'un
juron très populaire, Holy Moses, mais quand la censure décida que l'on
ne
pouvait utiliser le nom de Moïse à tort et à travers, même si l'on
faisait de
lui un saint, quelqu'un, plus féru de théologie que de censure, proposa
de le
remplacer par le familier Holy Smoke, pensant qu'il ferait à l'oreille,
ne
fût-ce que vaguement, le même effet que le juron interdit. Cabrera
Infante le
prit pour titre parce qu'il faisait, vaguement aussi, allusion au
tabac. Les
jeux de mots l'avaient toujours beaucoup amusé et il s'intéressait à la
littérature s'inscrivant dans la filiation de James Joyce. Et le livre
Holy Smoke-comment
aurait-il pu en être autrement? - était pur jeu - Puro Humo (2) est le
titre de
la version espagnole-, pur savoir, pur cinéma, pur Cabrera Infante, pur
divertissement, métaphore pure et exacte du monde et du tabac comme
écume des
jours. Holy Smoke est tout cela et beaucoup plus encore, un livre
difficile à
classer qui entrelace brillamment et allègrement jeux verbaux les plus
excitants, diverses passions et multiples équivoques tout en étant une
parfaite
leçon de sagesse sur la géographie du monde des cigares, des mots et du
cinéma,
et même une chronique de l'histoire du tabac.
Je me souviens que Cabrera
Infante considérait Holy Smoke comme l'autobiographie d'un fumeur
invétéré, un
catalogue raisonné de films, d'acteurs et de musiques enfumées et le «
guide un
peu prétentieux de la façon de fumer les cigares: le mieux étant deux
par jour,
après les repas ». Le livre était aussi pour lui un hommage au plaisir
(et au
danger) de vivre: « Il faudrait appliquer les étiquettes à la vie.
Vivre nuit
gravement à la santé. »
Je me rendis, il y a des
années, à la présentation de la version espagnole de Holy Smoke à
Madrid et
j'en ai gardé le souvenir de la conférence de presse la plus enfumée de
l'histoire.
Cabrera Infante y avait évoqué le torero Rafael el Gallo (« je suis
aussi
irrégulier à l'oral que lui dans l'arène »), Bill Clinton («inventeur
d'un
nouvel usage des cigares »), Cary Grant (« je m'étais mis à fumer la
pipe dans
la prétention insensée de lui ressembler ), et Bette Davis (« grande
fumeuse
qui, avec Bogart, rendit dangereux le fait de fumer »).
Ne pouvoir retourner à Cuba à cause de
son anticastrisme radical fut sans doute pour lui une catastrophe. Il
rompit
avec la révolution en 1965 et vécut à Londres jusqu'à sa mort. Mais La
Havane
ne cessa jamais d'être son véritable monde et son véritable rêve. Aucun
écrivain cubain n'eut sûrement plus besoin que lui de remettre les
pieds sur sa
terre. C'est peut -être pourquoi tout Holy Smoke est imprégné du tabac
et de la
fumée de la nostalgie et du désir du retour impossible.
Traduit de l'espagnol par
André Gabastou
(1) Holy Smoke, Guillermo
Cabrera Infante, traduit de l'espagnol (Cuba) par Albert
Bensoussan.
Présentation et postface de Patrick Amine, éd. Passage du Nord-Ouest,
2007.
(2) Littéralement, “Cigare
Fumée”. “Cigare” se dit en espagnol cigarro puro, ou plus communément puro.
SÁCH MỚI TRẦN MỘNG TÚ
Trân
Trọng
Giới Thiệu
Hai Tác Phẩm Mới của Trần Mộng Tú
*
Giọt mưa
trời khóc ngàn năm
trước
Phê bình gia thứ
thiệt, Nabokov có lần đưa ra nhận
xét, là người đọc, không phải với cái đầu, mà bằng xương sống lưng của
anh ta.
Hắn
ta, giống như Gấu, đọc, đến giây phút diệu kỳ, giọt lệ trời biến thành
giọt
lệ người, bỗng thấy một làn hơi hạnh phúc từ huyệt bách hội ở trên đỉnh
đầu,
theo xương sống lưng chạy xuống, rồi tỏa ra khắp cơ thể, tới từng lỗ
chân lông,
và cứ thế tê lịm người đi, và thế là biết liền tù tì, đây là thơ thần.
*
-Phách
lối vừa vừa thôi, cha
nội. Bộ mi nghĩ, mi là phê bình gia thứ thiệt?
-Phê
bình gia thứ thiệt hay không, chưa cần biết. Nhưng giây phút tê lịm
người
thì có thiệt.
*
Date:
Sun, 23 Jan 2005
11:41:44 -0800 (PST)
From:
Subject:
hey
To:
Hey
ong Gau, ong la cai gi tren doi nay ma viet van phach loi , hay tu kiem
diem lai xem minh co xung dang khong?
Mot
doc gia
Trường hợp Lê
Công Định
I returned to my
city,
familiar to tears,
to
my childhood's tonsils and
varicose
veins.
You
have returned here-then
swallow
the Leningrad
streetlamps' cod-liver oil.
Recognize now the day of
December fog
when ominous street-tar is
mixed with the yolk of egg.
Petersburg,
I
do not want to die yet
I have your telephone numbers
in my head.
Petersburg,
I still have
addresses at which I will find the
voice of the dead.
I
live on a black stair, and
into my temple
strikes
the doorbell, torn
out with flesh.
And
all night long I await
the dear guests,
and
I jangle my fetters, the
chains on the door.
[Osip
Mandelstam, Selected
Poems, translated by David McDuff. Cambridge:
River Press, 1973, p.111]
This
was the world that Dostoevsky
had dimly foreseen: the somber, sooty, slimy, foggy city and the dark, claustrophobia-inducing
staircases and landings of its tenements are at the
same time tangible realities and symbols of the savagery of a system in
which
all is permitted. Dostoevsky's characters had speculated on the
grotesque
consequences of such a doctrine: Akhmatova and Mandelstam illustrated
them in
their poetry when outspokenness was punishable by death. "We live
without
feeling the country beneath us, / our speech at ten paces inaudible":
the
poem about Stalin that began with those lines sealed Mandelstam's fate.
He
would die in a camp. Akhmatova's caustic irony rings as a
counter-refrain throughout the
Stalin years. Mandelstam's wife, Nadezhda. recalls her fury
whenever she heard someone speculating about why an individual had been
arrested: "What do you mean, what for? It's time you understood that
people are arrested for nothing at all.”
The
work of these two poets
is a powerful demonstration that sanity, moral integrity, and even hope
can
survive in an absurd world. Mandelstarn expressed his faith
that "the
word" -poetry-would not perish: "For that blessed
senseless word/I shall pray in the Soviet night." Requiem ends with the hope
that, if a monument is raised to the
poet, it will be before the prison walls:
...
where I endured three
hundred hours
in
line before the implacable
iron bars ....
And
from my motionless bronze-lidded
sockets
may
the melting snow, like
teardrops, slowly trickle,
and
a prison dove coo somewhere,
over and over,
as
the ships sail softly down
the flowing Neva.
One
of the paradoxes of Petersburg
is that the
"deepest hell of senseless and abnormal life" (as one of Dostoevsky's
characters describes the city) could produce such luminous
personalities.
The
New
York Review Feb 20 1997
*
Bức
hình, sân chúng cư mà căn phòng của Dos ở gần ngay đâu đó,
những dòng thơ của Mandelstam và Akhmatova, là trong bài viết "Nơi
người chết mỉm cười" của Aileen Kelly, điểm cuốn St. Petersburg: A
Cultural History [Thành phố St. Petersbug, một lịch sử văn hóa]
của
Solomon Volkov, trên số NYRB, 20 tháng Hai, 1997, thời gian Gấu vừa mới
tới xứ lạnh được ba niên, viết Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG, thấy
bài hay quá, và nhớ Sài Gòn quá, bèn bằng thứ tiếng Anh ăn
đong, đi một đường Nơi ngưòi chết
mỉm cười.
Nơi, ở đây, là Sài Gòn.
*
Trong
khi dọn nhà, lại vớ lại số báo tính quăng đi, bèn tái đi một đường tạp
ghi, nhân cái cú LCD vừa xẩy ra:
One of the paradoxes of Petersburg is that the
"deepest hell of senseless and abnormal life" (as one of Dostoevsky's
characters describes the city) could produce such luminous
personalities.
Liệu Víp Va Ka, có đọc... Dos, và nhân đó, tưởng tượng:
Nhìn vầng trán các cháu ngoan Bác
Hồ của thành phố mang tên Bác, mà thấy cả tương lai một đất nước?
Bởi vì quả là, từ cái "địa ngục sâu thẳm của một cuộc đời vô ý nghĩa,
quái quỉ chẳng giống ai, đang bị bệnh thời khí ruồi hóa đó", vẫn có
thể sản xuất ra những nhân cách cực bảnh, sáng ngời như thế đấy!
The
work of these two poets
is a powerful demonstration that sanity, moral integrity, and even hope
can
survive in an absurd world.
Những bài viết của LCD, ở một tầm mức nào đó, xứng
đáng nhận những lời khen tặng trên: Lành mạnh, vẹn toàn đạo đức, và
ngay cả hy vọng có thể sống sót một thế giới phi lý. NQT
*
Tôi trở lại
thành phố của
tôi, thân quen với những dòng lệ,
với cơn đau thịt thừa
trong cổ họng thuở ấu
thơ,
và chứng chướng tĩnh mạch
Bạn đã trở về đây - vậy
thì hãy nuốt
dầu đèn phố
Leningrad
Hãy nhận ra bây giờ ngày
tháng Chạp mù sương...
Petersburg, tôi chưa muốn
chết
Tôi có số điện
thoại của bạn ở trong đầu Petersburg,
tôi vẫn có những địa chỉ,
tại đó, tôi sẽ
tìm ra tiếng nói của những người đã chết...
(Osip Mandelstam, Leningrad)
Và Kinh Cầu của Akhmatova tận cùng
bằng những dòng:
..nơi tôi kéo lê 300 giờ đồng hồ sắp hàng trước song sắt.
Và
từ trong hốc mắt bất động của tôi,
có thể tuyết đông, như
những giọt lệ,
từ từ
nhỏ xuống,
một con chim bồ câu nhà
tù gù gù đâu đó, gù gù, gù gù
trong khi những con tầu
từ từ xuôi dòng Neva.
Như
một người ghi lại Cuộc Khủng Bố, sự quan trọng của Akhmatova không phải
chỉ vì
bà đã có khả năng tạo nên lòng xót thương đối với những nạn nhân,
nhưng, bằng
sức mạnh mang chất Dostoevsky, bà đã sử dụng thực tại cụ thể của thành
phố để
chuyên chở sự tầm phào của cái ác (the banality of evil), một điều mà
những bạn
đường của bà cố gắng chứng thực, nhân danh những thành quả lịch sử lớn
lao.
Trong một thành phố, nơi người chết mỉm cười, sung sướng vì sau cùng đã
được
bình an, nơi người sống "hơi thở thua người chết, hình hài thân xác
thua
đám sương mù trên thành phố...."
Tê
giác hoá vs Ruồi hoá
Dọn Kít
Trong
ba lớp
trí thức cánh
tả Miền Nam
trước 1975 được tác giả kể ra,
thiếu một lớp, đông nhất, không phải lớp tiếp tục tham gia và cộng
tác tích
cực với CQCS sau 1975, mà là lớp biến thành ruồi. Bạn của những
đấng bản lĩnh và dũng cảm Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự…
Cái này là do Đào Hiếu nói. Ông không hiểu tại sao, họ ăn phải cái
gì mà gen đột biến, biến thành ruồi.
Ionesco cho biết, đây là tiến trình huỷ hoại con người,
déshumanisation,
hay, "ruồi hoá".
*
«
excusez-moi, je ne suis pas juif, je suis un être humain ».
C'est
stupide.
Hannah Arendt.
"Xin lỗi, tớ đếch phải là Mít. Tớ là Ca na điền!
*
Si
tu lis les premières
pages du
Manifeste communiste, c'est le plus fameux éloge du capitalisme qu'on
ait
jamais vu.
Nếu
bạn đọc những dòng đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì đó là những dòng
vinh danh hiển hách chủ nghĩa tư bản mà tôi đã từng đọc.
Hannh Arendt
*
Đọc bài viết mới của Mai Thái Lĩnh, thấy
đỡ hơn tất cả những gì đã đọc từ mấy đấng VC nằm vùng trước 1975.
Đổi mới, chán quá!
Sự
quan trọng của Simone Weil
Nước
Pháp dâng tặng một món
quà hiếm cho thế giới đương đại, ở nơi con người, là Simone Weil. Sự
hiển hiện
ra một nhà văn như thế, ở trong thế kỷ 20 đúng là ngược với tất cả
những qui
luật của xác xuất, tuy nhiên những điều không chắc, chưa chắc, vẫn xẩy
ra.
*
The
great mistake of
the Marxists and of the whole of the nineteenth century was to think
that by
walking straight ahead one would rise into the air."
Simone
Weil
"Lầm lẫn lớn của những người Mác xít và trọn thế kỷ 20 là đã nghĩ
rằng, cứ bước thẳng tới, là có thể bay lên trời!"
Mấy anh VC chẳng đã từng bốc phét, với sức người sỏi đá cũng thành cơm!
*
Vào
năm 1938, Simone Weil, “bị tóm bắt bởi
Christ”, chữ của
bà. Không ai có quyền coi tiểu sử của bà như một “thiện căn cải đạo”,
qua đó
diễn biến càng dữ dội bao nhiêu, thì sự chối từ niềm tin trước đó càng
đầy đủ cỡ
đó, và càng tốt cho mục tiêu giáo dục. Trong trường hợp của bà, có lẽ
không nên
dùng từ “cải đạo”.
Bà nói, bà chưa hề tin tưởng,
trước khi có được một sự tiếp xúc cá nhân như vậy [bị tóm bắt]. Nhưng
bà cũng nói,
xuyên suốt cuộc đời ý thức của bà, thì hành vi, cách cư xử, thái độ của
bà, là
mang tính Ky tô giáo. Tôi [Milosz] trích dẫn: “Một người chỉ có thể
vâng lời
Thượng Đế nếu người đó nhận được chỉ thị. Làm sao trong thuở còn trẻ
tôi nhận
được chỉ thị, khi mà tôi truyền bá tư tưởng vô thần?" Tôi trích dẫn
thêm, “Tôn
giáo, cho đến nay, là một nguồn an ủi, và như thế, nó là một cản trở
đối với niềm
tin thực sự: Và theo nghĩa này, thì chủ nghĩa vô thần là một sự thanh
tẩy. Tôi phải vô thần, với cái phần của chính tôi, cái phần chẳng
mắc mớ gì tới Thượng
Đế. Trong số những người, mà, với họ, cái phần siêu nhiên ở trong họ
chưa chịu
ngóc đầu dậy, cứ ngủ mãi ngàn năm, thì những kẻ vô thần có lý, những
tín hữu,
sai.”
*
Có
thể, khi phán về Thượng Đế, Steiner đã
dẫn ý của Weil, như sau đây:
Thị kiến của riêng tôi, hầu như chỉ xoáy về một
điểm. Khi còn là một gã quá trẻ, tôi cho xuất bản cuốn Tolstoy hay là
Dostoevsky, trong đó, tôi nhắc đi nhắc lại mãi, rằng điều phân biệt hai
nhà văn
này với một Flaubert hay một Balzac, đó cũng là điều làm họ giống
Melville, và
đó là chiều thần học (theological dimension), tức là câu hỏi về sự hiện
hữu của
Thượng Đế. Cuốn sách nói về điều mà Những Hiện Diện Thực mở rộng ba
mươi lăm
năm sau đó. Tôi tin tưởng rằng có một số chiều nào đó, trong văn
chương, nghệ thuật,
âm nhạc, và cả trong triết học: chúng sẽ không thể nắm bắt được, nếu
câu hỏi,
có hay không một đấng Thượng Đế, bị coi là vô nghĩa. Kẻ vô thần
mạch lạc,
là một sinh vật rất ư hiếm hoi. Anh ta gây hứng khởi cho tôi, thứ hứng
khởi bao
gồm khiếp sợ lẫn kính nể sâu thẳm nhất. Chín mươi tám phần trăm chúng
ta sống
trong thứ nước dơ gồm các mê tín, mộng tưởng, sợ hãi, và hy vọng lưu
cữu từ bao
đời, mỗi lần có tiếng chuông điện thoại reo trong đêm, và chúng ta
nghe, rằng
con cái của chúng ta đang trong một tai nạn xe cộ, chúng ta bắt đầu kêu
gào
Thượng Đế, cách này hoặc cách khác. Đó là một thân phận nhục nhã. Một
kẻ vô
thần thực sự, và một tín đồ với một niềm tin sâu thẳm thực sự – một
người mà
theo người đó, có một trật tự trong vũ trụ, một người mà ngay cả cái
chết của
đứa con mình, thật không thể chịu nổi, ngay cả một cái chết như vậy
cũng có một
ý nghĩa theo một chiều hướng nào đó – những con người ấy mới ít ỏi, mới
đáng tự
hào làm sao! Chúng mình nói tới niềm tin sâu xa của tôi, rằng có một
cái ác
tuyệt đối. Tôi cầu mong tôi cũng được tin tưởng sâu xa như vậy, về một
cái tốt
tuyệt đối. Nhưng tôi cảm thấy rõ ràng là, chúng ta ở Tây Phương sẽ
không
còn có thể sản xuất ra những trật tự nào đó, về văn chương và nghệ
thuật và âm
nhạc và tư tưởng, nếu sự nhất trí văn hóa là cái điều mà chủ nghĩa thực
chứng
luận lý và triết ngữ học ở Oxbridge, sẽ nói: rằng một câu trong có chứa
từ
Thượng Đế bắt buộc phải là một câu vô nghĩa. Nếu quan điểm này lấn
lướt, tôi
nghĩ chẳng còn gì để nói nữa.
Phỏng
Vấn Steiner
*
Trong
một bài trả lời tờ Le Magazine Littéraire, "Hạnh phúc làm Thầy",
Steiner nói thêm:
- Ce qui implique
une
croyance en Dieu.
- J'ai un respect profond
pour l'athée conséquent mais j'en ai très rarement rencontré. Certains
scientifiques expliquent qu'une angoisse personnelle n'a aucun statut
statistique et ne veut rien dire sur la vie. Mais si le téléphone sonne
à 3
heures du matin pour annoncer la perte d'un enfant dans un accident de
voiture,
la plupart des parents se mettent à hurler « O Dieu, O Dieu aide moi! »
même
s'ils se sont déclarés agnostiques ou athées. Rares sont ceux qui se
taisent et
continuent d'affirmer que cette horreur n'a pas de signification plus
large que
la douleur privée. Ce qui compte pour moi c'est que la question de
l'existence
ou de la non-existence de Dieu reste une interrogation sérieuse et
capitale
pour une pensée philosophique, esthétique, politique, morale. Je fais
l'hypothèque que si cette question devient une mauvaise plaisanterie,
ou un
archaïsme freudien préinfantile, certains domaines de la création
esthétique ou
philosophique disparaîtront. Y aura-t-il-
c'est ce que j'évoque dans le dernier chapitre de Grammaire de la création -
des chefs-d'œuvre athées comparables aux Frères
Karamazov ou à Parsifal? La
question de l'existence de Dieu habite chaque vers de Paul Celan qui
est pour
moi le sommet de la poésie moderne. Elle habite les grands écrivains,
les
grands peintres, les grands musiciens.
- C'est ce
que vous essayez
de démontrer dans La Nostalgie de l'absolu: la question de Dieu reste
présente
chez Marx, Freud ou Lévi-Strauss ...
-
Ils l'ont effectivement
traduite en des termes différents, mais elle est toujours là. Cette
question
disparaît vraiment face au constat que sur notre planète où la
circulation de
l'argent devient capitale, les industries les plus actives sont la
pornographie
et la drogue. Si la laïcisation, la tolérance agnostique, la
libéraalité
voltairienne aboutissent à ça, c'est très grave. S'il n'y a pas de
Dieu,
toucher sexuellement un enfant - ce qui est pour moi l'horreur ultime,
avec la
torture - peut devenir anodin: c'est un monde que je n'ai pas envie de
voir. On
vend maintenant dans les bonnes libraires des BD pornos sadiques avec
des
aspects pédophiles, c'est très triste. Notre culture est très triste.
Où est la
joie? Il y a deux pays où les jeunes rient encore énormément: l'Irlande
où la
création littéraire et théâtrale explose et l'Espagne, après la longue
période
franquiste. Mais pour le reste de l'Europe!
Liệu đã có tác phẩm vô thần nào" ké né" đứng kế bên Anh em nhà Karamavov?
Vấn đề sự hiện hữu của Thượng Đế có ở trong từng câu
thơ của Paul Celan, một thi sĩ mà theo tôi, ngự trên đỉnh của thơ ca
hiện đại.
Vị
trí độc nhất của Simone
Weil trong thế giới hiện đại là do sự liên tục hoàn hảo của suy tưởng
của bà.
Không giống những người khác, khi trở thành tín hữu Ky tô, là quẳng đi
quá khứ
của họ,
bà phát triển những ý nghĩ của bà từ trước 1938, và có thể còn trước
hơn nữa
nhiều, đưa thêm trật tự vào trong đó, nhờ ánh sáng mới mẻ. Những tư
tưởng
liên
quan tới lịch sử, chủ nghĩa Marx, khoa học.
Hung bạo trong phán đoán, không
khoan nhượng, Simone Weil, ít nhất, do tính khí của bà cho thấy, bà là
một
Albigensian, một Cathar, và đây là chìa khoá dẫn tới tư tưởng của bà.
Bà rút ra
những kết luận cùng cực, từ dòng tư tưởng Plato, ở trong Ky tô giáo. Ở
đây, chúng
ta đụng tới những mắc míu ẩn tàng, giữa bà và Camus. Tác phẩm đầu tiên
của
Camus, là một luận đề đại học về Saint Augustine. Camus, theo quan
điểm của tôi, cũng là một
Cathar, một Cathar ròng, và nếu ông từ chối Thượng Đế, thì đó không
phải là do
không yêu, mà là do không thể chứng minh được sự hiện hữu của Người.
Cuốn tiểu
thuyết sau chót của ông, Sa đọa, là
gì nếu không phải là một luận đề về Ân sủng
- thiếu vắng ân sủng, đúng hơn – tuy nhiên, đây còn là một bài biếm
văn: Cái
anh chàng tối ngày lèm bèm ở trong đó, đảo ngược lời của Đấng Christ,
“Đừng xét
đoán ai, nếu không muốn bị ai xét đoán”, thành, “Hãy xét đoán, thì mi
sẽ không
bị xét đoán”, tôi nghi rằng, và có nhiều lý do để nghi rằng, tay này,
ngoài đời,
chính là me-xừ Jean-Paul Sartre!
Vài năm trước đây, tôi trải
qua rất nhiều những buổi chiều, trong căn phòng của gia đình của bà,
nhìn ra Vườn Luxembourg,
ngồi ngay tại cái bàn của bà, mặt bàn đầy những vết mực, từ cây viết
của bà, nói chuyện với bà mẹ
của bà, một người đàn bà chừng 80, thật tuyệt vời. Camus, cũng trốn vào
căn phòng
này, khi ông được Nobel, để thoát khỏi sự săn đuổi của đám nhà báo.
Milosz
Trí Tuệ và
Những Bông Hồng
Đỉnh
cao chói lọi
Ceux qui ne tirent
pas les
leçons du passé sont condamnés à le revivre.
Kẻ nào không rút ra được những bài học quá khứ, kẻ đó bị kết án phải
sống
lại nó.
Hannah
Arendt.
*
DTH:
Nobel văn chương?
Gấu
ngửi ra cái vụ này, khi anh
Tây làm rùm beng, lần ra mắt cuốn
Chốn Vắng, và để làm rùm beng
thêm,
trong giới Mít, Tin Văn đi liền mấy bài…
Tuy nhiên, điều lo âu của Gấu,
là
những bản dịch tiếng Tây, văn phong, cùng tính khí của Bà.. .
Sở dĩ CHK được Nobel, là nhờ người dịch ông
hiểu ông. Mít ta chưa có ai “mê văn” DTH, để mà dịch qua tiếng Tây như
trường
hợp CHK.
Nói chung là, căng lắm, khó lắm.
Vậy cũng mừng cho VC!
Nobel văn
chương hồi sau này, cho, chỉ cần một cuốn. Gấu nhớ, DTH có cuốn viết về
một em
đi lao động Liên Xô, để nuôi cả một đại gia đình Yankee mũi tẹt, và nếu
đúng
như thế, thì chỉ cần một cuốn đó, là đủ.
Vả chăng, tiếng nói của CHK là tiếng nói của một cá nhân chống lại
tiếng ồn của đám đông.
Còn của DTH? Không lẽ chỉ để tìm chân lý về một Bác Hồ?
Còn
về cuộc chiến?
Cái nhìn của DTH về cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến ngu xuẩn, theo Gấu,
sai.
Giọng
văn DTH đanh đá quá, hằn học quá, lên gân quá, thành ra rất cần một
dịch
giả đủ tài, đủ mê văn bà, để chuyển tải cái phần đẹp đẽ nhất của nó,
làm bật ra người đàn bà Bắc Kỳ, suốt chiều dài lịch sử dân Yankee mũi
tẹt, chống lại Cái
Ác Bắc Kít, tượng trưng bằng Ông Bố Bắc Kít, liệu có thể nói như
thế?
NQT
DTH
còn thiếu cả, tầm nhìn sau đây, sau khi ngồi vệ đường Sài Gòn, khóc
cuộc chiến ngu xuẩn.
Tản
mạn về Ba Người
Khác
Cũng
nhiều người miền Bắc không may họ hàng phân tán chia ly trong chiến
tranh,
bây giờ hay nhắc đến chú bác cô dì, ông nội ông ngoại đã từng làm tướng
tá hay
viên chức trong chính phủ Việt Nam Cộng Hoà một cách công khai, đôi khi
pha lẫn
tự hào.
Đỗ
Hoàng Diệu: Con ngáo ộp là có thật !
*
Nhân
nhắc tới DTH, Tin Văn post bài điểm cuốn Hành
trình thơ ấu của bà:
LES
LIVRES DU MOIS
LE
CHOIX DES MOTS DE MINUIT
par
Philippe Lefait
«
Un an loin des parents et
l'expérience de la vie grandit d'un empan. Quand elle atteint la taille
d'un
arbre qui pousse sur les cimes des montagnes, alors on peut dire qu'on
connaît la
vie. » Itinéraire d'enfance, le dernier livre traduit en français de
Duong Thu
Huong est un roman de formation dans le Vietnam de 1985, marqué par la
résistance contre le colon français et englué dans des pesanteurs
idéologiques
et partisanes qui font exclure de sa classe une gamine qui ignore
encore que
vérité et « autocritique» sont antagonistes. Rebelle, celle-ci décide,
avec son
amie Loan Graine-de-jacquier, de partir retrouver son père,
garde-frontière
depuis des années aux confins de la Chine. Itinéraire d'enfance décrit
ce
voyage sans le sou, les rencontres et l'appprentissage qu'il permet,
l'évidence
d'une filiation. C'est aussi un documentaire ethhnologique où l'on
apprend, par
exemple, les secrets de fabrication de la gélatine de tigre ou l'art
d'accommoder le cochon. La
simplicité du style fait sa fluidité. C'est une écriture qui prend par
la main.
Il y a les odeurs, les paysages, presque un conte sur le désir que la
réalité
fracasse. Duong Thu Huong a poétisé la révolution, adhéré au parti
communiste
avant de préférer les droits de l'homme. « Si je veux cracher sur le
pouuvoir,
je n'ai pas le droit de craindre », dit celle qui a dénoncé la dérive,
été
exclue en 1990 de l'Union des écrivains vietnamiens, a connu la prison
et une
résidence surveillée. Ses livres ont été interdits. Elle est désormais
publiée
en France,
où elle vit depuis la publication l'an dernier chez Sabine Wespieser du
puisssant Terre
des oublis.
À 60 ans,
elle voit sa destinée comme celle
d'un animal doulouureux condamné à souffrir. « La nostalgie de mon pays
me
ronge, mais j'ai la liberté. ».
Itinéraire
d'enfance Duong
Thu Huong
Trad.
du vietnamien par
Phuong Dang Tran
Éd.
Sabine Wespieser, 380 p.,
24 €.
Des
mot de minuit
*
Le Magazine littéraire
participe un mercredi par mois à l'émission Des mots de minuit.
*
Des mots de minuit, tous
les mercredis, la nuit sur France
2. Rediffusion le dimanche suivant sur France 4 à minuit.
[Le
Magazine Littéraire,
Juillet & Aout, 2007]
*
Gấu
đọc Marx qua Trần Văn Toàn, khi mới lớn, và chỉ còn nhớ một câu của
ông, một hình ảnh đúng hơn:: Cái bóng của Hegel trùm lên Marx, và còn
kéo dài ra mãi.
Già, đọc Hannah Arendt, bà cũng phán y chang:
La
cruauté du capitalisme aux XVIIe, XVIIIe et XIXe siècles a aussi été, à
l'évidence, écrasante. Il ne faut pas le perdre de vue quand on lit le
formidable éloge que Marx fait du capiitalisme. Alors qu'il baignait au
milieu
des conséquences les plus abominables de ce système, il n'en a pas
moins cru
que c'était une grande affaire.
Bien entendu, il était aussi hégélien
et
croyait à la force du négatif. Eh bien, pour ma part, je ny crois pas,
à la
force du négatif, de la négation, si elle fait le malheur terrible des
autres
.
Tuyệt!
Có vẻ như mấy anh Mít Đỏ
- Yankee mũi tẹt, khỏi nói,
vì chẳng có cơ hội, nhưng đám VC nằm vùng Miền Nam- chẳng hề biết đến
Hannah Arendt.
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
To CM: It's OK now,
Tks. NQT
Cesare Pavese
Quít làm, Cam chịu
[Lịch sử]
Sư phụ, khi chủ
nghĩa CS của chúng ta ngoạm được nước Pháp, chúng ta sẽ làm gì với
Joyce?
Gide,
sau một lúc suy tư, trả lời:
-Chúng
ta kệ mẹ ông ta.
«
Maître, quand nous aurons le communisme en France, que ferons-nous de
Joyce?».
Gide,
après une longue réflexion:
«Nous
le laisserons tranquille. »
Vừa
nhắc
tới ông Trùm Gorky, là thấy quan tài, là bèn nhỏ lệ (1).
(1)
Đây là văn chương chưởng: Mi chưa đi mưa chưa biết lạnh, chưa thấy quan
tài
chưa nhỏ lệ!
Hình:
Gide đọc ai điếu, trong đám táng Gorky,
tại Quảng Trường Đỏ.
*
Nói
chuyện
cam chịu lịch sử, và nổi tiếng nhờ nó, bảnh nhất, theo Gấu, là nhà văn
Anh gốc
Nhật, viết văn bằng tiếng Anh 'hách hơn Ăng lê', Kazuo Ishiguro,
tác giả Tàn
Ngày, được Booker Prize. Ông thuộc trào lưu những nhà văn trẻ bảnh của
Anh, gồm
Martin Amis, Salman Rushdie… Trên số báo Le Magazine Littéraire, April
2006, đặc
biệt về 'em' Duras, cô đầm ở xứ An Nam Mít, có bài phỏng vần ông, do
Trần Minh
Huy thực hiện, ‘K.I., thời của hoài nhớ’, ‘K.I, chúng ta là những đứa
trẻ mồ côi’... Khi được hỏi, sự thiếu vắng nổi loạn thật là rõ ràng
trong tất cả các tác phẩm
của ông, K.I. trả lời: "Đúng như thế, những nhân
vật như Stevens trong Tàn Ngày, họ chấp
nhận những gì đời đem đến cho họ, và, bằng mọi cách, đóng trọn vai trò
cam chịu
lịch sử, thay vì nổi loạn, bỏ chạy… và cố tìm trong đó, cái gọi là nhân
phẩm,
chẳng bao giờ tra hỏi chế độ."
Cái gọi là nhân phẩm, bật ra từ Tàn
Ngày, và là chủ đề của cuốn tiểu thuyết đưa ông đài danh vọng, và đã
được quay thành phim…
"Tôi
[K.I. muốn
chứng minh sự can đảm của Stevens, nhân phẩm của anh ta, khi đối mặt
với cái điều,
là, người ta đã làm hỏng đời của anh ta”.
K.I có một câu phán thật tuyệt, và thật đúng, nếu áp dụng vào "thời của
Gấu
và BHD": Có một thứ hoài nhớ đếch mắc mớ gì tới Lịch Sử, mà tất cả
chúng ta đều cảm nhận được, những nhớ nhung về một thời mà chúng ta đều
ngây thơ, hơn cả... Chúa, khi chưa lên Ngôi.
Hình như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên có câu: Chúa khi chưa đắc đạo,
Phật khi chưa giác ngộ, chắc gì đã mê gái như ta?
Kỷ
niệm, kỷ niệm
|