In the
thirteen rich stories that make up Something
I've Been Meaning to Tell You,
Alice Munro demonstrates the precise observation, straightforward prose
style,
and masterful technique that have won her comparisons to Chekhov.
Exploring the
mysteries, dangers, joys, and bewilderment in the lives of ordinary
girls and
women, Munro tells of sisters, mothers and daughters, aunts,
grandmothers, and
friends who shimmer with hope and love, anger and reconciliation, as
they
contend with their histories and their present, and what they can see
of the
future,
"[Munro]
is one of those few living writers who, in the way of greats, must
simply be
read," The Globe and Mail
Trong 13
truyện ngắn giầu có làm thành tập truyện “Một điều gì tôi tính nói với
bạn”,
Munro chứng tỏ một sự quan sát chính xác, một thứ văn xuôi thẳng, trực,
và một kỹ
thuật viết bậc thầy, nhờ vậy, bà thường được so với Chekhov.
Trong bài viết
giới thiệu Chekhov, của Oz, (1) trên Tin Văn, ông viết:
Đó là một
thành phố nhỏ, thê thảm còn hơn cả một làng quê. Toàn những người già,
họa hoằn
lắm mới chịu nằm xuống, thế mới bực! Hơn nữa, ít khi người ta cần tới
quan tài,
dù là ở nhà thương, hay ở nhà tù. Nói ngắn gọn, chẳng làm sao buôn bán
làm ăn ở
đây. Nếu Yakov Ivanov làm nghề đóng hòm ở một chốn thị tứ, chắc là ông
đã có được
một căn nhà, và được gọi là Ông Ivanov. Nhưng ở cái chốn tệ mạt này,
giản dị chỉ
là Yakov. Vì một lý do nào đó, ngoài đường họ gọi ông bằng biệt hiệu
Đồng. Ông
sống nghèo khổ như bất cứ một người dân quê bình thường trong một túp
lều, cùng
với bà vợ Marfa, một cái bếp, cái giường, mấy cái hòm...
.... Viên cảnh
sát địa phương bịnh dầm dề hai năm ròng, và đang chờ đi luôn. Yakov
nóng ruột,
đợi hoài đợi hủy chuyến tầu suốt của ông này. Nhưng viên cảnh sát dời
lên thành
phố chính để chữa trị, và chắc là phó thác linh hồn cho quỉ ma ở đó...
thế là mất
toi ít nhất 10 rúp, bởi vì đây là thứ hòm đắt tiền. Cứ đêm đêm Yakov
lại bị nỗi
mất mát lớn lao hành hạ. Ông để cây vĩ cầm kế bên giường và những lúc
không thể
chịu đựng nổi cơn dầy vò, ông mân mê mấy sợi dây. Cây vĩ cầm "tinh,
tinh" trong đêm tối, và ông ta cảm thấy đỡ đi.
Cái buồn dìu
dịu, cái diễu ấm áp, nhân hậu, tha thứ... thật không ăn khớp gì với
cách chọn lọc
thật lạnh lùng những chi tiết, cách nhìn thiên nhiên như một ông y sĩ
giải phẫu,
cách đo đạc thật chi ly khoảng cách giữa nhân vật và sự thực.
Những nhân vật
thường chẳng để ý, hoặc chẳng thừa nhận chân lý, sự thực, nhưng độc giả
được mời
nhận ra nó, giữa những dòng chữ. Ở đây cũng như ở trong những chuyện
khác,
Chekhov tạo một sự cân bằng thật chính xác, như một nhà hóa học cân đo
đong đếm,
giữa dị hợm (ridiculous) và nỗi đau xé ruột xé gan. Khế ước là sự đồng
cảm, giữa
người đọc và người kể, qua những con chữ. Thường xuyên người đọc phải
nhận ra bằng
cách đảo ngược. Thí dụ như những câu mở đầu: nỗi khóc than ca cẩm, về
chuyện
"hiếm" người chết ở trong làng, về chuyện người già "họa hoằn mới
chết và chuyện này thật là bực". Khế ước là từ người kể chuyện, không
phải
từ nhân vật, nhưng người đọc nhận ra, sau khi đã hết ngỡ ngàng, đây
chính là lời
than van của người làm hòm, do công việc ế ẩm. Cũng vậy, "Marfa, cái
bếp,
mấy cái hòm...", người để kế bên vật; ở đây độc giả biết, người kể đã
trộn
giọng nói của mình với giọng của "Đồng không tim".
Đồng ngần ngại
làm hòm cho con nít, "mất thì giờ vì chuyện không đâu", chi tiết này,
ngay ở đầu truyện, cho thấy đây là một con người biển lận. Nhưng tới
nửa truyện,
người đọc biết, Đồng cố xóa khỏi trí nhớ, và cuộc đời, cái chết của bé
gái độc
nhất của hai vợ chồng, 50 năm trước. Chỉ sau khi bà vợ chết, độc giả
mới hiểu,
Đồng cố làm cho trái tim của ông trơ ra, để cho ông đỡ đau.
Như thế, sự
quan sát chi ly chính xác, ở nơi Chekhov, 1 phần nào đó, là còn của 1
thầy thuốc, một nhà hoá học - khi cân đo đong đếm dược phẩm & độc
phẩm làm sống
& làm chết người - của ông mà ra.
Italo Calvino, cũng nhận
ra điều này,
khi nhận
xét về cái nhỏ bé của con người ở Chekhov:
Càng nhìn sâu
vô con người, ông càng nhìn ra cái xấu xa cái biển lận… nhưng khi lưỡi
dao thầy
thuốc của ông ngoáy tới thịt tươi, ở tít bên dưới, thì ông kiếm thấy
cái gọi là
"phẩm giá của con người", cũng trong tên khốn kiếp đó!
Hà, hà!
Dans
la nouvelle La Fille d' Albion, qui date
de 1885, nous trouvons déjà Tchekhov à son plus haut degré, et le métal
dont il
forge ses contrastes comiques ou dramatiques : la dignité de l'homme.
Dans des
nouvelles comme celle-ci, ou comme La Choriste (1886), plus il
fouaille
ses petits humains, plus il en découvre les égoismes, les faussetés et
les
mesquineries sous le masque de leur fausse «dignité», plus se révèle à
nous
quelque chose qui résiste à la dégradation, quelque chose de supérieur
à la
bassesse générale, une qualité impalpable que nous devons recommencer à
appeler
dignité humaine, une dignité tout à fait opposée à celle, hypocrite et
formelle, des moeurs bourgeoises. Mais Tchekhov atteint ses meilleurs
résultats
lorsque la decouverte de la fausse dignité et les retrouvailles avec la
vraie
ont lieu chez le même personnage ; lorsque le couteau qui ouvre l'
abcès touche
la chair vive. Et l'on voit apparaitre alors la «pitié» de Tchekhov,
toujours
d'autant plus présente qu'il est «sans pitié » : voilà que, après avoir
découvert sous le personnage le petit-bourgeois - sa mesquinerie et son
horreur
historique -, sous le petit-bourgeois, il découvre l 'homme. (2)
Calvino còn
tiên tri ra được 1 tên Nazi nằm trong nhân vật của ông nhà văn thầy
thuốc người Nga này.
Nói rõ hơn,
chỉ tới đỉnh cao Nazi, chỉ tới khi đó, thì mới ló ra con quỉ Á
Châu, bậc đàn anh của nó!
Tchekhov, le
médecin éducateur à l'ombre de la culture positiviste, et qui avait
saisi ce
qu'il y avait en elle d'élan humanitaire et progressiste, en cerne
aussi, avec
une sensibilité précise, les crises et les déviations. Dans Le Duel, il
nous a
donné, en 1891, un portrait parfait de nazi, un naturaliste qui
soutient la
suppression des plus faibles de la part des plus forts, un portrait où
il n'y a
rien à changer, ni le type physique, ni les discours, ni le nom
allemand, ni
l'idéologie pseudo-scientifique, pour retrouver en face de nous un de
ceux qui,
cinquante ans plus tard, vont torturer l'Europe.
Sở dĩ GCC phải
dài dòng văn tự, như trên, để chứng minh, lần từ Munro, ra Chekhov, chỉ
mới được
nửa đường, có cái giống giữa thầy và trò, nhưng trò không làm sao bằng
Thầy được,
bởi là vì đằng sau Thầy là Cái Ác Á Châu, cái ác làm cho măng “không
lớn
thành
người được”, cứ đắng ngắt, như “ý” của Updike [“lời” của GCC], khi đọc
Mạc Ngôn:
Bằng
1 văn phong mà với những ai không rành về văn học Trung Quốc, tác phẩm
của ông
gợi ra một món nộm, không phải của Đông Phương, mà là Tây Phương: Trộn
ở trong
đó, là Rabelais (với những quá đáng của ông Tây này), Kafka (những ẩn
dụ),
Gunter Grass (sự rạch ròi trong những vấn nạn chính trị và gia đình),
Garcia
Marquez (hơi thở nóng bỏng của sử thi), ông đã vẽ nên được cuộc chiến
đấu dai dẳng,
có từ thời khai thiên lập địa, của, không chỉ dân TQ mà còn của rất
nhiều giống
dân Á Châu khác, trong có lũ Mít - Bắc Kít đúng hơn - chống lại
Cái Ác khủng
khiếp ngự trị trên phần đất này. Đọc ông 1 phát, là ngửi ngay ra vị
đắng chát của
măng non, không bao giờ trở thành tre già!
Nói rõ hơn
nữa, ở 1 xứ như Mít, Tẫu không bao giờ có con người trưởng
thành, xã
hội trưởng thành, như 1 xứ Tây Phương, thí dụ Canada của GCC!
Rushdie
gọi, những xã hội một nửa. Updike, xã hội đắng nghét của măng non.