Tôi đọc truyện ngắn Có Yêu Em Không của Khánh Trường ở
trong trại
cấm Sikiew, Thái Lan, trong lúc chờ kết quả thanh lọc. Chấn động do nó
gây nên,
sau này phải nhớ lại, tôi thấy chẳng khác, nếu phải so với lần
đầu tiên
được nghe bản Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, của Phạm
Duy, thời gian ở trong trại
cải tạo, nghĩa là người nghe lần đầu, là tôi đó, đã có một khoảng cách
thật xa
với lúc bản nhạc ra đời.
Tôi vẫn thường nghĩ, có những tác phẩm, nó như không chịu gặp bạn
ngay, vì nó biết rằng, gặp ngay là hỏng!
Bản Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng
là vậy đối với tôi. Như thể nó được
Phạm Duy sáng tác, để dành riêng cho tôi, bao nhiêu năm tháng sau, khi
cuộc chiến
đã chấm dứt, để cho tôi gặp nó, bản nhạc, ở trong một trại tù ở miền
nam. Tôi
nhắc lại, phải là một trại tù, ở miền nam, có thể cũng không xa lắm,
cái nơi mà
người vợ đã từng tới, để nhận xác chồng.
Có thể, bởi vì tôi đã ở có lần đi nhận xác thằng em trai, tử trận
tại Sóc Trăng, trước Mậu Thân một năm.
Bất thình lình, giữa chốn lao tù không biết ngày nào về, bản nhạc
cất lên, và nó làm tôi sống lại những ngày tháng cay nghiệt, thê lương
đó....
Như một "dấu báo", cho riêng tôi, truyện ngắn KT, Có Yêu
Em Không, bản nhạc Phạm Duy, Ngày
Mai Đi Nhận Xác Chồng, những sự kiện riêng lẻ
chẳng liên quan gì tới nhau đó, lạ một điều, chúng quyện vào với nhau,
xung
quanh cái chết của đứa em trai. Sự kiện "giả tưởng", trung tâm truyện
ngắn KT, cái xen xẩy ra ở trên gác xép, bên dưới đèn nhang khấn bái
chung quanh
chiếc hòm của người chết đó, đã thực sự xẩy ra, tuy không ngay bên cạnh
chiếc
hòm của thằng em trai tại nhà hội thị xã Sóc Trăng, nhưng cũng cách đó
chẳng
xa, giữa một số sĩ quan bạn bè của thằng em, và mấy cô gái làng chơi,
sau này
tôi được nghe kể lại, từ một người bạn, cũng sĩ quan, đã cùng đi với
tôi, xuống
nhận xác thằng em.
Lần về, trong khi tôi theo
chiếc C.130 về Sài Gòn cùng xác thằng
em, cô bạn gái của nó, bà mẹ của cô gái, anh bạn đi xe đò trở về Cần
Thơ, là
nơi đơn vị anh đang đóng quân, chiếc xe đò đi trước xe anh bị mìn. Sau
này, anh
vẫn tự hỏi, hay là thằng Sĩ đã "xúi" tao đừng nhảy lên chuyến xe đầu
tiên?
Một cách nào đó, nó còn liên
quan tới sự kiện giả tưởng ở trong cuốn
tiểu thuyết Trăm Năm Cô Đơn,
của Garcia Marquez. Bạn có nhớ cái xen làm tình giữa
hai kẻ cùng huyết thống, trên chiếc võng, và bao nhiêu mồ hôi, tinh khí
, máu
trinh... chưa kịp rớt xuống sàn nhà, là đã bị những sợi võng nóng bỏng
nuốt sạch,
rồi bạn tưởng tượng ra cái cảnh ở trên gác xép trong truyện ngắn KT, và
làm một
cú so sánh, thì sẽ thấy, cảnh ở trong truyện KT hung bạo gấp mấy lần
của Garcia
Marquez: Hãy tưởng tượng những máu lệ, những sung sướng, đau khổ,
những
rên xiết quằn quại của cặp trai gái... bị những tiếng cầu kinh, những
sợi nhang
khói nuốt sạch, không để lại một chút nào cho cái cuộc chiến khốn kiếp
đó! (1)
Trong những truyện ngắn hay
nhất thế giới, có một, của Nhật, kể
câu chuyện, một anh chàng sinh ra, lớn lên học hành thành tài, ra đời,
lấy vợ,
đẻ con, sống [ngu ngốc] cái cuộc đời đầy những hạnh phúc [ngu ngốc] như
thế đó,
bỗng một bữa, trên đường đi làm, động đất [hình như vậy], phải chạy vội
vào một
ổ tạm trú. Ở đó, anh gặp một đứa con gái, dơ dáy, bẩn thỉu, thuộc loại
ăn xin
ăn mày trong thành phố. Trong khi chờ chết, cả hai "hì hục, hăm hở, mê
mải....
làm tình" và cho tới lúc đó, anh đàn ông mới hiểu ra được "làm
tình" nghĩa là gì, hạnh phúc nghĩa là gì.
Tôi nghĩ, truyện ngắn Có Yêu Em Không của KT có cái mùi
vị hạnh
phúc tương tự.
Cho dù là được viết ở hải ngoại, nhưng Có Yêu Em Không là cũng từ
những năm tháng đó mà ra.
Trong những năm chiến tranh,
Gấu tui may mắn có được một vài dịp bỏ chạy cuộc
chiến, nhưng có thể, bởi vì nó dai như đỉa đói, cho nên, cuối cùng đều
hỏng cả.
Thời gian Gấu vừa làm chuyên viên Bưu Điện vừa làm "part
time" cho hãng RCA, trụ sở chính ở Manila, đám chuyên viên Phi làm
chung
thích Gấu quá, cứ xúi, mày đi Manila đi, tụi tao nói với Sếp lo cho.
Chả là, tụi nó biết tôi suýt chết, trong vụ mìn Mỹ Cảnh, trong khi
đi cùng hai người bạn Phi. Chính hai người bạn Phi vừa mới chân ướt
chân ráo tới
Sài Gòn đã che cho Gấu, và hứng hết những mảnh mìn Claymore, tại nhà
hàng nổi Mỹ
Cảnh bên bờ sông Sài Gòn, trong dịp biệt động thành chào mừng Mẽo đổ
quân tại
bãi biển Đà Nẵng, 1965. "Sự cố" này, Gấu tôi đã kể trong truyện ngắn
đầu tay Những Ngày Ở Sài Gòn.
Chắc là chúng muốn "bắt" một thằng, "thế" cho hai thằng đã
chết. Lúc này Gấu tuy chưa vợ con dầm dề, nhưng chỉ mê đi Tây. Cứ muốn
"xin một tí Paris để được làm thi sĩ".
Rồi thời gian làm cho UPI, tay sếp cũng muốn tìm cách cho đi
Tokyo.
Nói chung là tụi nó đều mê Gấu, không phải vì tài viết văn, mà tài
sửa máy. Gấu nổi tiếng là một chuyên viên kỹ thuật, "không sửa máy bằng
tay, mà bằng đầu," như một tay chuyên viên Mẽo từ California tới Sài
Gòn,
đã từng khen.
Có lần, vào phút chót, tưởng đi mười mươi, lại khựng lại. Lý do khựng
lại, không phải do ngoại cảnh, mà như thể có một người nào, ở bên trong
Gấu,
xúi bậy xúi bạ, này đừng, ra đi là... hết rồi, là khốn nạn đấy con ạ,
đi là
không thể nào trở về được đâu, mà có trở về, thì cũng chẳng còn gì nữa.
Có nhớ
chàng Lưu, chàng Nguyễn không? Đến Thiên Thai làm gì cho khốn khổ khốn
nạn, khi
trở về là hết đời của mình rồi! [Đào thơm đâu cần phải đến Thiên Thai
mí có!]
Chỉ vào những năm gần chót đời, khi phải nhìn lại, tôi mới nhận ra
một sự thực thê lương là, đời của lũ chúng tôi, chính là cuộc
chiến khốn
kiếp đó!
"Đời của mi đâu rồi, hôm nay
sao không đi đón mi?"
Gấu tôi chợt nhớ Bông Hồng Đen, và câu nói đùa của bạn cô, những lần
Gấu tôi bận
việc sở không thể đi đón, khi tan trường...
NQT
Chú thích:
(1) Cái xen ở trong Trăm Năm Cô
Đơn, là như thế này:
".... Cô chỉ
còn kịp cám ơn
Thượng Đế đã sinh ra mình, trước
khi lương tri bị chìm nghỉm trong niềm khoái lạc đê mê át cả cái đau
đớn, để
giãy giụa ở trong lòng chiếc võng bốc hơi nghi ngút. Cái võng như một
tờ giấy
thấm đã hút ngay máu trinh của cô chảy ra."
[Bản dịch
của Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi -
Nguyễn Quốc Dũng, nhà xb Văn Học Hà Nội, 2000] (1)
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
"Death in
Venice" vs "Trăng Huyết"
Vargas
Llosa, trong 1 bài viết về Chết ở
Venice, của Thomas Mann, đã coi nó xứng đáng
đứng kế Hóa Thân của Kafka, Cái chết của Ivan Ilyich của
Tolstoy. Độc giả dù đọc
đi đọc lại, cũng cảm thấy có 1 điều gì đó, vượt ra khỏi tay họ, the
text is still
withholding a mystery even from the most attentive reader. Một điều gì
đó, u ám,
dữ dằn, và có thể nói, đê tiện, abject, ở nơi nhân vật chính, và còn là
1 kinh
nghiệm chung của nhân loại. Freud gọi nó là “death wish”, Sade, “ao ước
tự do”,
desir in freedom, còn Bataille, evil.
Lạ, là đọc bài
viết, Gấu bèn nhớ đến Trăng Huyết
của Ngọc Minh [tức Minh Ngọc sau này]
Lời giới
thiệu
của Đinh Bá Anh [Diễn đàn eVăn, cũ]:
Khi nhận được Trăng
Huyết của Nguyễn Thị Minh Ngọc,
tôi không hề biết rằng truyện ngắn này đã được viết cách đây trên ba
mươi năm.
Tôi đã đọc nó như đọc một tác phẩm mới được sáng tác, nghĩa là với một
hình
dung nhất định về tâm thế của các tác giả đương đại. Đọc xong mấy lần,
vẫn thấy
phân vân, tôi đưa cho một người bạn có cảm thụ đặc biệt về văn học xem
và đề
nghị cô cho biết ý kiến. Cô nói: "Đây có lẽ là truyện ngắn của một cô
gái
cỡ hai mươi tuổi. Nó in đậm dấu ấn tâm lý của tuổi ấy. Dù sao, truyện
rất hay.
Rõ ràng là một tài năng."
Tôi không khỏi
ngạc nhiên về nhận xét của cô bạn. Qua trao đổi với tác giả (trước đó
tôi chưa
hề biết Nguyễn Thị Minh Ngọc), tôi biết rằng chị đã viết Trăng
Huyết vào khoảng năm 1970-1971, tức là khi mới 17-18 tuổi (chị
Ngọc sinh năm 1953). Lúc ấy chị đang sống ở Phan Thiết. Khi truyện ngắn
này được
đăng trên tờ Thời Tập (Viên Linh phụ
trách), giới văn nghệ Sài Gòn thời ấy đã "phát hoảng" bởi sự lạ lùng
của nó. Tuy vậy, đã không có những bài phê bình đáng kể - người ta ghi
nhận nó
trong một giới hẹp. Hơn hai mươi năm sau, năm 1993, Trăng
Huyết được tái bản trong tập Ngọn nến bên kia gương
(NXB Trẻ), song cũng không gây được sự chú ý
của công chúng văn chương. Nguyễn Thị Minh Ngọc được biết đến trước hết
như một
nghệ sĩ kiêm đạo diễn kiêm kịch tác gia sân khấu, người thỉnh thoảng có
viết
văn và đoạt một số giải thưởng cho văn học thiếu nhi và văn học tuổi
xanh. Bản
thân tác giả thừa nhận, sân khấu đã phá hỏng văn của chị và hiện nay,
chị đang
cố gắng tìm lại phong độ của thời Trăng
Huyết.
Thứ Tư
25/8/2004
*
Trăng Huyết có post trên Tin Văn, Gấu
còn nhớ
mài mại, câu chuyện ông anh và cô em cùng lớn lên, ông anh cứng cỏi,
hung bạo,
có lần đèo cô em đi chơi bằng xe máy, [xe đạp], làm em té, bị thương,
đi cà nhắc,
thành thử cô em cần tới ông anh, đủ hai ba thứ đường cần, anh là anh,
là người
yêu, là nguời bảo vệ, là người đền bù, vì làm em què dở, rồi ai… lấy em?...
Thế rồi ông
anh có bồ, cô em cảm thấy bị phản bội, cũng kiếm một ông bồ già, để trả
thù. Tất
cả những chuyện đó, cùng một lúc, xẩy ra vào lần đầu tiên cô thấy cô có
kinh,
vào đúng tuần trăng khủng khiếp đó.
Thành thử
cái ông ban cho 'sáng tác đầu tiên' của ổng, cái tên Trăng
Huyết, hoặc là ông không hiểu thế nào là trăng huyết, hoặc hiểu,
nhưng vẫn coi đây là trăng huyết, theo nghĩa, tác phẩm đầu tiên của
nhân loại,
chăng?
Đông Phương
Bất Bại chẳng đã ao ước, giá như là đàn bà, như Thánh Cô, thì hạnh phúc
biết là
dường nào!
Những lèm
bèm về Trăng Huyết, ở trên, là do Gấu
tưởng tượng ra, truyện chưa chắc đã như vậy.
Huyên hơn
tôi gần mười tuổi nên khi chơi với Huyên, tôi có cái dáng lúc thúc của
một con
gà con. Đúng hơn là con gà què. Một chuyến lên núi Tà Cú nhân dịp Trung
Thu,
cái bánh xe đạp sau quấn nghiến bàn chân tôi, Huyên cõng tôi vào bỏ
trong bụng
ông Phật nằm, dài 49 thước, để đi kiếm thuốc. Trăng đêm đó cũng là
trăng huyết.
Hơi trăng hắt sáng qua khe mắt Phật rọi trên gót chân bầm tím của tôi
lạnh như
ai rắc băng trong tủy. Sau này tôi đi hơi cà nhót. Sao chẳng lúc nào
tôi tỏ ý -
dù ý thầm - oán giận Huyên.
*
Về chu kỳ
hành kinh, vấn đề kinh nguyệt của phái nữ, đực rựa không được phép lèm
bèm,
nhưng đây quả là một vấn nạn, không chỉ dành riêng cho một nửa nhân
loại.
Trong bộ Thần Thoại của Lévi-Strauss, [hình như
trong cuốn Les manières de table, Những
cách đặt bàn ăn], ông đã mất công sắp xếp, lắp đặt, cả một lô những
huyền
thoại, thành một con đường - của một chiếc thuyền độc mộc, theo những
dòng sông
dẫn tới mặt trăng - chỉ để chứng minh, chúng nói về con đường hành kinh
của người
phụ nữ.
Cô thiếu nữ,
trong Những Dòng Sông, như con cá hồi
lần hồi tìm về con kinh, con rạch ngày nào, khi còn một đứa con nít, cô
vẫn thường
bơi lội, và chợt nhớ ra, lần đang tắm, như một đứa con nít, thấy dòng
nước hồng
hồng ấm ấm từ trong mình tỏa ra con kinh, biết rằng mình hết còn là con
nít, và
lần này trở về, không còn là con nít, là thiếu nữ, là phụ nữ, mà là một
hạt bụi,
cái chu kỳ hành kinh như thế, là cả một đời người.
Có những đấng
đàn ông - phần nhiều là có thiên hướng gay - rất lấy làm buồn phiền ông
Trời, tại
làm sao mà 'delete' một trong những thú đau thương nhất nhất tuyệt
tuyệt như thế,
đối với cái PC của họ. Và cái ông nào đó, khi đặt tên đứa con tinh thần
chỉ có
một nửa, bằng cái tên Trăng Huyết, một
cách nào đó, là đòi 'save' cái thú đau thường kỳ tuyệt này, ít ra là
cho riêng
ông ta.
Nhưng, đây
là một lời nguyền, một sự trù ẻo, hay một ân sủng?
*
Có những
giây phút, những thời điểm "lịch sử" giầu có vô cùng. Khi phải nhìn lại
lịch sử văn học miền nam - lịch sử của đám chúng tôi! - văn học những
năm 1960
quả là giầu có vô cùng.
Chỉ với một
vài truyện ngắn của nó.
Nếu đi hết biển
*
Trăng Huyết còn nhiều tên gọi.
Với Tuý Hồng,
nó có tên là Vết thương dậy thì. [Lẽ
dĩ nhiên vết thương dậy thì có thể còn một phụ nghĩa, khác]
Giới khoa học
gọi bằng cái tên Vết Thương Khôn, The Wise Wound: tên tác phẩm của Penelope Shuttle
&
Peter Redgrove, bàn về
kinh nguyệt và về mỗi/mọi đàn bà [everywoman]
Trăng huyết? Does the Moon Menstruate?
Liệu vầng
trăng kia cũng có... tháng?
Quả có thế.
Trong tiếng Anh cổ, chu kỳ kinh nguyệt, the menstrual cycle, menstrual từ tiếng La tinh mens, mensis, có nghĩa là
month, month/ moon. (1)
(1) Does the
Moon Menstruate?
....
But why?
What event in human lives corresponds in any way to the moon's events?
Is there
any connection between human fertility and the moon? It seems a strange
coincidence, if coincidence it is, that lost of the medical books say
that the
average length of a woman's menstrual cycle is twenty-eight days. This
might be
no more than a coincidence, since, as Paula Weideger has pointed out,
the
figure is only an average one composed of the cycle-length of thousands
of
women added together and divided by the number of women. She says that
it is
quite possible in the statistical samples that no woman had a
twenty-eight-day
cycle, since it is quite normal to have fifteen-day cycles or
forty-one-day
cycles. What she says is true – nevertheless is also true that the vast
majority of cycles cluster round this figure of twenty-eight. Around
four weeks
is a very usual length of cycle. The coincidence is that the length of
the
moon's cycle from new moon to new moon also averages out at about four
weeks,
or 29*53 days (mean synodic month). Even the name of the cycle, the
menstrual
cycle, according to the OED, comes from the Latin mens, mensis, leaning
'month', and the same authority also reminds us that nonth' means
'moon'.
Partridge's dictionary goes further. If you look up 'month' there, you
will be
referred to 'measure'. He tells us that the changes of the icon
afforded the
earliest measure of time longer than a day. Under “Menstruation' we are
referred also to 'measure'. The paragraphs tell s that 'menstruation'
does come
from 'month' which comes from noon'. Moreover, he tells us that the
following
words for ideas come from the measurement that the moon makes in the
sky:
measurement, censurable, mensuration, commensurate, dimension,
immensity,
metre, metric, diameter, parameter, preimeter, meal, and many others. A
suspicion grows that perhaps many of our ideas come from the
moon-measure. All
the words for 'reason’ certainly come from 'ratus', meaning to count,
calculate, reckon; and all the words for mind, reminder, mental,
comment,
monitor, admonish, mania, maenad, automatic and even money appear to be
associated with this Latin word mens, or Greek menos, which both mean
'mind' or
'spirit'; or the Latin for 'moon' or 'monthly'. The Greek word for moon
is
mene.
The Wise
Wound
Death in
Venice
The Call to
the Abyss
Mời Gọi xuống Vực Thẳm
Despite its
brevity, Death in Venice
tells a story that is as complex and deep as any that
Thomas Mann would develop more extensively in his vast novels. And he
achieves
this so economically and with such stylistic perfection that this short
novel
deserves to figure alongside masterworks of the genre like Kafka's Metamorphosis or Tolstoy's The Death of Ivan
Ilyich. All three are
beautifully crafted, tell a fascinating story and, above all, set up an
almost
infinite number of associations, symbols and echoes in the mind of the
reader.
After reading and
rereading it on numerous occasions, we are
left with the unsettling feeling that the text is still withholding a
mystery even
from the most attentive reader. Something murky and violent, almost
abject,
which can be found in the protagonist and which is also a common
experience of
humankind: a secret yearning that suddenly reappears, frightening us,
because
we thought that it had been banished once and for all from our midst
through
the work of culture, faith and public morals, or simply as a result of
our need
to live together in society
How can we define this
subterranean presence which works of
art usually reveal involuntarily, indirectly, a will-o'-the-wisp that
suddenly
appears without the author's permission? Freud called it the death
wish, Sade
desire in freedom and Bataille, evil. It is the quest for the integral
sovereignty of the individual that predates the conventions and rules
that
every society - some more, some less - imposes in order to make
coexistence
possible and prevent society from falling apart and reverting to
barbarism. The
core of any definition of civilization is that individual desires and
passion
must be reined in so that private desires, stimulated by imagination,
do not endanger
social organization. This is a clear and healthy idea whose benefit for
the human
race cannot be denied rationally because it has enhanced life and kept
at a
distance, usually at a great distance, the precarious and harsh
primordial
lives that preceded the horde and the cannibal clan. But life is not
formed
just by reason but also by passions. The angel that lives within men
and women
has never been able entirely to defeat the devil that also lives
within, even when
it seems that advanced societies have managed to do so. The story of
Gustav von
Aschenbach shows us that even these fine examples of healthy citizens,
whose
intelligence and moral discipline seem to have tamed all the
destructive forces
of personality, can succumb at any moment to the temptation of the
abyss.
Reason,
order and virtue ensure the progress of human society
but they rarely suffice to make individuals happy, for instincts, that
are kept
in check in the name of social good, are always on the lookout, waiting
for an
opportunity to come out and demand of life both intensity and excess
that, as a
last resort, lead to destruction and death. Sex is the privileged
domain where
these transgressive demons lurk, in the recesses of our personality,
and in
some circumstances it is impossible to keep them at bay because they
are also
part of human reality. What is more, even though their presence always
implies
a risk for the individual and a threat of dissolution and violence for
society,
to exile them completely would impoverish life, depriving it of
euphoria and
elation - fiesta and adventure – which are also integral to life. These
are the
thorny issues that Death in Venice
illuminates with its twilight tones.
May mắn tôi
là người rời nhà đầu tiên. Huyên có tổ chức một buổi rượu tiễn. Dành
cho tôi bất
ngờ, anh có mời ông Hạo. Huyên kiêm luôn chức đầu bếp. Món thịt nướng
anh làm
thật tuyệt. Đủ cả tỏi, quế, ngũ vị hương, cà-ri cay... Mấy chai Mai Quế
Lộ được
đào lên... càng về khuya tôi càng sợ hãi trước sự bình tĩnh của Huyên
và vẻ mặt
ngây ngô của ông Hạo. Dưới sự điều động của Huyên, ông khóc cười như
một đứa trẻ.
Lòng tôn quý của tôi đối với ông tiêu tan như nỗi buồn không còn đọng
vết trong
mắt ông. Huyên bây giờ độc ác như một gã phù thủy. Mắt anh đỏ những
đường gân
chằng chịt, cơ hồ rượu đổ ngụt vào hai cái hố khủng khiếp ấy. Tôi chịu
hết nổi.
Chạy vòng ra sau nhà. Thấy Tần ngồi khóc bên đống lông chuột, tôi nghĩ
rằng chị
đã hiểu lờ mờ. Nhưng tôi thì hiểu thấu suốt mọi sự. Tôi cào nát cổ vẫn
không ói
được khối thịt thơm phức đã nuốt vào khi nãy. Ông Hạo đang chệnh choạng
múa may
bước ra cổng và ngã sóng soài giữa bậc đá. Má tôi mang khăn ướt ra lau
vết bầm
trên trán cho ông. Huyên liệng ra một tấm mền. Tôi ngẩng lên. Không
phải hai
con mắt lửa. Mà đó chính là hai vầng trăng huyết độc ác và thê lương sẽ
theo đuổi
tôi suốt cả cuộc đời. Trong chuyến đi xa ngày mai, tôi sẽ không còn lo
phòng những
bất trắc. Đánh đổi lại, sẽ là những mảnh tình không. Ông Hạo! Ông Hạo!
Và những
ai sau này nữa. Hãy tha thứ cho tôi. Hãy tha thứ cho anh em tôi...
Độc giả phải
hiểu như thế nào, về lời xin lỗi của cô em gái?
V/v evil,
trong Trăng Huyết.
Có lần
nói
chuyện với MN, GCC đưa ra nhận xét, có 1 cái gì đó rất ma quái ở trong Trăng Huyết. MN gật đầu, nhà em có 1 người
ghiền. Cái "ma quái" mà anh nói đó, có thể do ghiền, và vì anh cũng
ghiền, nên nhận ra.
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
Sự khác biệt
giữa truyện ngắn và truyện dài, 1 cách nào đó, cũng là sự khác biệt
giữa thơ và
văn xuôi, nếu bạn đọc đoạn trên đây, khi Solz chê Kinh Cầu của
Akhmatova.
"A
good poem, of course. Beautiful. Sonorous. But
after all, a nation suffered, tens of millions, and it's a poem about
an
individual case, about one mother and son .... I said to her that the
duty of a
Russian poet is to write about the sufferings of Russia, to rise above
personal
grief and speak of the nation's grief. ... She was silent, reflecting.
Perhaps
she didn't like that-she's accustomed to flattery, raptures. But she's
a great
poet. And a truly great theme. That has to be said."
Trong nhận định về truyện
ngắn của Lukacs, hàm chứa ý của Joseph Brodsky
về thơ,
vào cái lúc nhân loại mấp mé bờ huỷ diệt, nếu có nhớ chăng, thì là 1
dòng thơ!
At certain periods of history
it is only poetry that is capable of
dealing with reality by condensing it into something graspable,
something that
otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole
nation
took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and
which, more
importantly enabled her to speak for the nation as well as to tell it
something
it didn't know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished,
strained, severed. She showed the revolutions first through the prism
of the
individual heart, then through the prism of history, such as it was.
This is
about as much as one gets in the way of optics anyway.
Brodsky: The Keening Muse [Bà Chúa
Thơ Sầu Muộn]
Vào một vài thời điểm lịch sử, chỉ có thơ là có thể đương đầu, ăn
thua đủ, hay, lèm bèm với thực tại, bằng cách nén nó lại thành một điều
gì gọn
thon lỏn, điều mà cái đầu đầu hàng không làm sao cất giữ.
Đó cũng là điều nhạc sến làm được!
G.
Lukacs,
trong Solzhenitsyn: Một Ngày Trong
Đời Ivan Denisovich (1969) [William David
Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971]
viết:
Liên hệ mỹ học
giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường
được phân
tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai
thể loại,
trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their
interrelationship throughout the course of literary development]. Tuy
nhiên,
đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học
hiện thời
[the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện
ngắn
[novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên
văn: tiền
thân, precursor] cho sự ra đời của hùng ca, sử thi, hay những hình thức
bi kịch
lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard], một cách viết ở tận cùng
một giai
đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là một Sẽ Có, [a Not-Yet,
Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer, Nichtmehr].
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
Sự khác biệt
giữa truyện ngắn và truyện dài, 1 cách nào đó, cũng là sự khác biệt
giữa thơ và
văn xuôi, nếu bạn đọc đoạn trên đây, khi Solz chê Kinh Cầu của
Akhmatova.
"A
good poem, of course. Beautiful. Sonorous. But
after all, a nation suffered, tens of millions, and it's a poem about
an
individual case, about one mother and son .... I said to her that the
duty of a
Russian poet is to write about the sufferings of Russia, to rise above
personal
grief and speak of the nation's grief. ... She was silent, reflecting.
Perhaps
she didn't like that-she's accustomed to flattery, raptures. But she's
a great
poet. And a truly great theme. That has to be said."
Trong nhận định về truyện
ngắn của Lukacs, hàm chứa ý của Joseph Brodsky
về thơ,
vào cái lúc nhân loại mấp mé bờ huỷ diệt, nếu có nhớ chăng, thì là 1
dòng thơ!
At certain periods of history
it is only poetry that is capable of
dealing with reality by condensing it into something graspable,
something that
otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole
nation
took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and
which, more
importantly enabled her to speak for the nation as well as to tell it
something
it didn't know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished,
strained, severed. She showed the revolutions first through the prism
of the
individual heart, then through the prism of history, such as it was.
This is
about as much as one gets in the way of optics anyway.
Brodsky: The Keening Muse [Bà Chúa
Thơ Sầu Muộn]
Vào một vài thời điểm lịch sử, chỉ có thơ là có thể đương đầu, ăn
thua đủ, hay, lèm bèm với thực tại, bằng cách nén nó lại thành một điều
gì gọn
thon lỏn, điều mà cái đầu đầu hàng không làm sao cất giữ.
Đó cũng là điều nhạc sến làm được!
G. Lukacs,
trong Solzhenitsyn: Một Ngày Trong
Đời Ivan Denisovich (1969) [William David
Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971]
viết:
Liên hệ mỹ học
giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường
được phân
tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai
thể loại,
trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their
interrelationship throughout the course of literary development]. Tuy
nhiên,
đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học
hiện thời
[the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện
ngắn
[novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên
văn: tiền
thân, precursor] cho sự ra đời của hùng ca, sử thi, hay những hình thức
bi kịch
lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard], một cách viết ở tận cùng
một giai
đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là một Sẽ Có, [a Not-Yet,
Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer, Nichtmehr].
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
Đọc bài trả
lời phỏng vấn của Trần Vũ, (1) trong có nói tới trường hợp dịch
truyện ngắn Mít ra
thế giới, đếch ai mặn, và thế giới hỏi lại, có “tỉu thít” không, điều
này hiểu
được, và theo Gấu, chẳng mắc mớ đến giá trị của ngắn hay dài. Thiên hạ
bi giờ vẫn
đọc truyện ngắn như ngày xưa, hay ngày mai. Nhưng truyện dài mới là… sử thi, mới là cái nhan sắc của một giai nhân,
tượng trưng cho 1 xứ Mít, sau cuộc chiến khủng khiếp, còn hay chết hết
rồi. “Tiểu
thuyết là để diễn tả cõi không nhà siêu việt” [Lukacs]. Ở đây, vẫn là
vấn nạn
Lukacs nêu ra, truyện ngắn là thế thủ, nó nói về cái cõi nhân gian bé tí, truyện dài là cái toàn thể, nó nói
tới con người toàn thể hay toàn thể con người.
Để khai triển ý trên, TV sẽ giới
thiệu thêm bài viết của Italo Calvio, về con người nhỏ tí của Chekhov.
La
petitesse
de l'homme chez Anton Tchekhov
De Tchekhov
et sur Tchekhov, cette année (1), date
du cinquantenaire de sa mort (1er juillet 1904), nous avons eu la
possibilité
de lire différentes choses, et chaque fois, au cours de ces lectures,
nous n'arrêtions
pas de nous demander: mais en quoi consiste vraiment le secret de cet
homme?
Quel est le secret qui le rend d'autant plus cher et grand et toujours
actuel
qu'il joue en «mineur », en décrivant une réalité limitée, quel est le
secret
qui le fait apprécier des lettrés les plus raffinés comme du grand
public des
quotidiens du soir (qui, aujourd'hui encore, lorsqu'ils veulent publier
une
nouvelle dont le succès sera certain, puisent à sa source)? Il existe
pour lui,
en Union soviétique, une affection qui touche à la vénération: et, de
ce petit
médecin au regard étincelant et ironique derrière son pince-nez, ils
font
presque un prophète de la sociéte socialiste; alors qu'en Occident il
est célèbre
tantôt comme un père du pessimisme et de l'agnosticisme libéraux,
tantôt même
comme un symboliste mystique. Et
tout
cela, il faut bien le souligner, sans que de son côté il ait jamais
fait preuve
de lègereté ou de flatterie; en restant toujours, au contraire,
obstinément fidèle
à lui-même, sans pitié dans ce qu'il avait à dire, en avancant sur un
chemin
sans détour, droit et linéaire. Cet amour, parfois très fort, que l' on
peut éprouver
pour lui, comme pour un frère péniblement retrouvé, avec lequel on va
pouvoir
enfin tout expliquer de soi-même et
tout comprendre de lui, comment se justifie-t-il, s'il est par ailleurs
le frère
de tant de gens, qui peuvent m'être sympathiques ou antipathiques, amis
ou
ennemis?
1. Pages écrites
en 1954 (NdT)
Lần đầu gặp
Calvino, là khi tôi được yêu cầu giới thiệu một bài đọc của ông tại
Riverside
Studios ở Luân Đôn, đầu thập niên 1980. Cuốn “Nếu vào một đêm hè, một
khách du
lịch” [If on a Winter’s Night a Traveler] của ông vừa được xuất bản tại
Anh và
tôi vừa làm một bài tiểu luận dài về tác phẩm của ông trên tờ Điểm Sách London.
Của đáng tội, đây là một trong những bài viết nghiêm trang, sớm sủa
nhất về
ông, xuất hiện trên báo chí Anh. Tôi biết, Calvino thích bài viết đó,
tuy
nhiên, tôi cảm thấy không được thoải mái, khi nói về ông, mà lại có ông
ở đó. Sự
không thoải mái càng tăng, khi ông muốn được coi bài giới thiệu của
tôi, trước
khi ông chường mặt ra trước công chúng. Tôi phải sử sự như thế nào, nếu
ông tỏ
ra không khoái nó?
Ông ta im lặng đọc, hơi
nhíu mày, đưa lại cho
tôi, và gật gật cái đầu. Hiển nhiên là tôi đã qua được cuộc hỏi cung,
đặc biệt
là, ông tỏ ra hài lòng, khi tôi so sánh tác phẩm của ông với của một
nhà văn cổ
điển Lucius Apulius, tác giả cuốn The Golden Ass [Con Lừa Vàng]
Salman
Rushdie: Ảnh hưởng
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
HOPE IN A
THIN SHELL
Thầy của Yiyun Li, là
William Trevor, nhà văn Ái-nhĩ-lan, và
xa hơn nữa, là Chekhov, và cái cõi nhân gian nhỏ xíu, “hy vọng trong
cái hến
mỏng dính”, cũng là đề tài ruột của Chekhov.
Tình cờ, GCC thấy cuốn
“Tại sao đọc những nhà văn cổ điển”,
của Italo Calvino, kế ngay bên, và tiện tay cầm lên, lật đúng bài ông
viết về
cõi nhân gian nhỏ tí, cái nhỏ tí của con người ở Chekhov, “La petitesse
de
l’homme chez Anton Tchekhov”, và đọc đúng câu, cái tình yêu của ông đối
với
Chekhov, như ông thú nhận, thường xuyên bị khuấy đảo, bởi lòng ghen
tuông, “mon
amour pour Tchekhov, je l’avoue, a souvent été tourmenté par la
jalousie”.
Tin Văn sẽ đi hai bài, một, phỏng vấn William Trevor, trong
Writers
& Company, New Conversations with CBC Radio's Eleanor Wachtel, và
bài của
Italo Calvino.
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
THE
BOOK OF
FANTASY
Vô tiệm sách
cũ, vớ được cuốn lạ, Borges biên tập. GCC chưa từng nghe tới cuốn này!
Kafka
đóng góp hai truyện, Josephine và
Trước Pháp Luật. Trang
Tử, Bướm mơ
người hay
người mơ bướm.
Một người
đàn bà ngồi một mình trong phòng. Bà biết trọn thế giới chỉ còn bà, mọi
cái gì sống
thì đều chết. Có tiếng chuông cửa.
The
Shadow
of the Players
In one of the tales which
make up the series of the Mabinogion,
two enemy kings play chess while in a nearby valley their respective
armies battle and destroy each other. Messengers arrive with reports of
the battle; the kings do not seem to hear them and, bent over the
silver chessboard, they move the gold pieces. Gradually it becomes
apparent that the vicissitudes of the battle follow the vicissitudes of
the game. Toward dusk, one of the kings overturns the board because he
has been checkmated, and presently a blood-spattered horseman comes to
tell him: 'Your army is in flight. You have lost the kingdom.'
- EDWIN
MORGAN
Bóng Kỳ
Thủ
Một trong những truyện của
chuỗi truyện Mabinogion, hai ông vua kẻ
thù ngồi chơi cờ, trong lúc tại thung lũng kế đó, hai đạo binh
của họ
quần thảo, làm thịt lẫn nhau. Giao liên, thiên sứ… liên
tiếp mang tin về, họ đếch thèm nghe,
chúi mũi vô mấy con cờ bằng vàng. Rõ ràng là tuồng ảo hoá bày
ra ở
thung lũng, nhập thành một, với tuồng cờ tướng. Sau cùng, vào lúc
chập tối,
1 ông vua xô đổ bàn cờ, khi bị chiếu bí, đúng lúc đó, tên kỵ
sĩ từ
chiến trường lao về, thưa hoàng thượng, VC lấy mẹ mất Xề Gòn rồi!
Hà, hà!
J.L. Borges: The
Book of Fantasy
Chu Fu Tze
không tin vào phép lạ, chết. Ông con rể ngồi canh xác. Gần sáng, cái
hòm từ từ
tự dâng lên và lơ lửng ở trên không, không gây 1 tiếng động. Ông con rể
sợ quá,
năn nỉ, Bố ơi Bố, đừng làm con tin là có phép lạ chứ. Bố cũng đâu có
tin vào mấy
trò ma quỉ đó. Hình như nghe ra, xác ông bố vợ trong chiếc áo quan bèn
từ từ hạ
xuống, và ông con rể có lại niềm tin của mình.
Guilty Eyes
Ah'med Ech Chiruani is a name
from a notebook, from a collection of folk tales. Nothing more
is known of him.
A man bought
a girl for the sum of four thousand denarii. Looking at her one day, he
burst
into tears. The girl asked why he wept. He replied: 'Your eyes are so
beautiful
that they make me forget to worship God.' Later, when she was alone,
the girl
plucked out her eyes. 'Why do you so disfigure yourself? You have
devalued your
own worth.' She replied: 'I would not wish any part of me to stop you
worshipping God.' That night, the man dreamed and heard a voice telling
him:
'The girl devalued herself in your eyes, but she increased her value in
ours
and we have taken her from you.' When he awoke, he found four thousand
denarii
under his pillow. The girl was dead.
THE BOOK OF
FANTASY
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
Patricia
Highsmith tin rằng tất cả những cuốn tiểu thuyết của Dos đều được coi
là tiểu
thuyết nghẹt thở, và bà lập lại ý của Ellery Queen, một chuyên gia về
tiểu thuyết
trinh thám, và còn là chủ bút 1 tờ báo mang tên ông, một truyện ngắn
hay phải là
1 truyện ngắn có tính nghẹt thở, có những chi tiết, những thắt mở giật
gân, nghẹt
thở, độc giả không làm sao đoán trước được.
Truyện ngắn của Pushkin đúng là
theo kiểu này. Mấy truyện ngắn thần sầu của ông, Phát Súng, Con Đầm
Pích, rồi
luôn cả những truyện vừa của ông, Con Gái Viên Đại Uý, thí dụ, đều có
những chi
tiết không làm sao đoán ra được, và làm cho bảnh hẳn lên, riêng hẳn ra.
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
Theo tôi, nhìn chung truyện ngắn thế giới đang tụt lùi,
ngay cả với Alice
Munro cũng vậy, hay thì hay, nhưng nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
ấy…
Lý Đợi
Trong lời dẫn
khi dịch Tập Truyện Ngắn, The
Collected Stories, của Roth, Michael Hofmann viết:
Hình như có
hai loại tiểu thuyết gia. Một, hãy nghĩ tới Kafka, hay Lawrence, hay
Hemingway,
hay Scott Fitzgerald, hay Thomas Mann, hay Jean Rhys, hay Paul Bowles,
là những
người có chút chú ý đặc biệt về cái gọi là truyện ngắn, [short
fiction], ban
cho nó một tí quan tâm, lại cũng đặc biệt, về kỹ thuật, và sau cùng,
"bèn" viết chúng. Và những người khác -
Dickens, Flaubert, Turgenev, Woolf, ngay cả Joyce
- là những người
cũng viết truyện ngắn, nhưng thường 'viết là viết', thoải mái, vô tư mà
viết,
giống như một thứ phó sản phẩm, hay là một phần của cái gọi là chuyện
nghề của
họ, 'đã đem nghiệp ấy vào thân', thì đành cũng thử xoay vần với cái gọi
là truyện
ngắn [với Nguyễn Du, cái gọi là lục bát], xem sao!
Với nhóm
trên, người đọc, khi đọc những truyện ngắn của họ, là tìm cái mẫn cảm,
cái có
giá trị, của cái gọi là văn chương. Với nhóm dưới, đọc họ thấy kỳ kỳ
[peculiar], cứ như là bị ép phải đọc! Không phải là họ viết dở, không
có chi là
đặc biệt ở trong đó, nhưng có lẽ, là do cảm giác này: những truyện ngắn
của họ
viết ra đó không hẳn là những truyện ngắn, không phải thứ tuyệt tác,
theo đúng
như cách mà người ta thường định nghĩa truyện ngắn là phải như vậy,
nhưng thuộc
vào cái khối đồ sộ là toàn bộ tác phẩm của họ, toàn thể cuộc đời của họ.
Joseph Roth
thuộc nhóm này.
Đọc câu của
Lý Đợi, Gấu bèn nhớ ra khúc trên.
Joseph Roth
[1894-1939]: Vị Hoàng Đế Của Hoài Nhớ
Theo
Hofmann, sở dĩ Roth viết thứ truyện ngắn ba vạ, nghe ra ngậm đắng nuốt
cay, đếch
phải truyện ngắn, một phần còn là do, là ký giả, lại nhậu dữ quá, đếch
có
thì giờ bỏ vô đó, nhiều, như 1 nhà văn khác. Gấu nhớ là trước
1975, có
Chàng Phi, viết cho Chính Luận, hay Ngôn Luận, ngày nào cũng đẻ ra ít
nhất 1
truyện ngắn. Anh quả đúng là ký giả-viết truyện ngắn. Anh hay ngồi với
Gấu, vào
buổi chiều, ở Quán Chùa, vào cái lúc đếch có bạn quí, thời gian Gấu
ghiền nặng.
Hành Khúc Radetzky
Với những độc giả Việt Nam
thường quan tâm tới văn học Việt Nam,
và số phận hẩm hiu của những nhà văn An Nam khổ như chó, nhất là của
những người
thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm,
đặc biệt là Văn Cao: họ đều mang bóng dáng những
nhân vật của Roth, đều cưu mang những đề tài của Roth. Chúng ta cứ tự
hỏi, tại
sao ông [Roth] không thể đi Mẽo: hãy giả dụ một ông Văn Cao di cư vào
Nam, và
sau đó vượt biên rồi nhập tịch Mẽo, là thấy ngay sự tiếu lâm của nó!
Đề tài cuốn Vị Khách Mời Của Trái Đất
[Tarbaras, The Guest on Earth], của Roth, thật hợp với
Văn Cao, nhưng với rất nhiều khác biệt. Đây là câu chuyện, một ông giết
người
sau đó trở thành thánh, và vì ông giết người, sau thú tội, và là người
độc nhất
thú tội, nên mới trở thành thánh!
Như lời giới thiệu trên trang bìa [ấn bản bìa
mỏng xuất bản lần thứ nhất, năm 2002, nhà xb The Overlook Press, New
York]: Đây
là một truyền thuyết xẩy vào những năm đầu Cách Mạng Nga, câu chuyện
một người
nông dân Nga, ngay từ nhỏ được một bà thầy bói tiên đoán số mệnh: sẽ
trở thành
một kẻ sát nhân, và một vị thánh.
Dưới bàn tay phù thuỷ của Roth, cả một giai
đoạn hung bạo của lịch sử đã được nhét vào một “lỗ đen”, là số phận của
một con
người. Hay như nhân vật trong cuốn Nhà
Tiên Tri Thầm Lặng, The Silent Prophet,
dựa vào cuộc đời một nhân vật có thực ở ngoài đời, là Trotsky, qua đó,
Roth khẳng
định, cuộc đời [của nhân vật chính] Kargan chỉ có một tí dây mơ rễ má
với sự kiện
lịch sử, như bất cứ một cuộc đời thực nào khác. Nhất quyết, nó không
được đưa
ra nhằm để chứng minh một quan điểm chính trị, nhưng mà là một chân lý
muôn đời,
cổ xưa, là, một cá nhân luôn thất bại, vào lúc sau cùng [... at
most, it
demonstrates the old and eternal truth that the individual is always
defeated
in the end].
Is Friedrick Kargan destined
finally to sink into oblivion?
Chẳng lẽ số mệnh của Friedrick
Kargan là sau cùng chìm vào quên
lãng?
Theo nghĩa đó, Nadine Gordimer,
nhà văn Nam Phi, Nobel văn
chương, trên tờ Điểm Sách Nữu Ước,
coi toàn bộ tác phẩm của ông, một “tragédie
humaine”, Bi Kịch của Con Người, được viết bằng kỹ thuật giả
tưởng hiện đại.
Và ngoài Roth ra, không nhà văn hiện đại nào, ngay cả Thomas Mann, tới
gần được
cái toàn thể, mục tiêu bất khả của chúng ta – our impossible aim - theo
nhà phê
bình Mác xít G. Lukacs.
Jennifer Tran
Thánh
Văn Cao. Thánh VC. Ông là tên VC độc nhất, dám nhận mình, giết người!
Có một bài
thơ trong mọi trang viết của Joseph Roth.
Joseph
Brodsky.
Quả thế thật.
Ký giả mà viết đại tác phẩm, Đường
Ra Trận Mùa này Đẹp Lắm, Hành Khúc
Radetzky. Viết truyện ngắn thì cứ như thơ, mà là viết vội, giữa
mấy ly rượu. Khủng
khiếp thực.
Gấu mê Roth,
nhưng ở Toronto, không kiếm thấy cuốn nào. Lần qua Mẽo, anh bạn từ hồi
còn đi học,
NTaV, bèn chở tới 1 tiệm sách mũi lõ. Vô, có gần đủ Roth. Chơi hết. Bạn
trố mắt
nhìn.
When the
Nazis took power in Germany in 1933, Roth immediately severed all his
ties with
the country. He lived in Paris-where he had been based for some
years-but also
in Amsterdam, Ostend, and the South of France, and wrote for émigré
publications. His royalist politics were mainly a mask for his
pessimism; his
last article was called "Goethe's Oak at Buchenwald." His final years
were difficult; he moved from hotel to hotel, drinking heavily, worried
about
money and the future. What precipitated his final collapse was hearing
the news
that the playwright Ernst Toller had hanged himself in New York. An
'invitation
from the American PEN Club (the organization that had brought Thomas
Mann and
many others to the States) was found among Roth's papers. It is
tantalizing but
ultimately impossible to imagine him taking ship to the New World, and
continuing to live and to write: His world was the old one, and he'd
used it
all up.
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
Hình từ Maclean's
Magazine
Một ngày đẹp
trời. Cứ như thể đánh bại tụi Nga trong môn hockey. Một tên Ca na điên
còm như
vậy trên net, khi nghe tin Munro được Nobel.
Đâu cần đến 1
tên Mít, "hay nhưng chưa phải bậc thầy".
Thua cả 1 em
Mít nữa chứ: Viết về nỗi lòng người nữ trong quan hệ với khái niệm dục
tình của đàn ông, Alice Munro ngày nay chắc gì đã sánh được, chứ đừng
nói vượt
được Nguyễn Thị Thụy Vũ từ 50 năm trước.
Giả như đúng
như thế, để "không phải Mít" nói, lịch sự hơn, noblesse oblige, trong
khi sự thực
không phải như vậy.
Nên nhớ sex trong truyện của TV là sex của cuộc chiến Mít,
vào lúc cao độ nhất của nó, Lao Vào
Lửa, Mèo Đêm, như những cái tên cho thấy.
Làm
sao so sánh làm tình xong là chết với làm tình xong lát nữa làm tiếp?
GCC bỗng
nhớ
đến 1 phim, cái chìa khóa, La Clé,
do Sophia Loren đóng, xem hình như cũng vào thời kỳ đọc TV. Anh bồ của
cô gái, tin
chắc là đụng trận này, là chết, bèn trao chìa khóa phòng cho thằng bạn
thân nhất.
Truyện ngắn của Thụy Vũ có cái mùi vị đó, nếu nói về sex. Thành ra rất
khó so sánh
với của Munro. Hạnh phúc, OK, nhưng đừng bao giờ nhiều quá.
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
Theo GCC, cái
từ “đương đại” ở trong vòng hoa Nobel trao cho Munro, là muốn tách
Nobel năm
nay, với những năm trước đó, và cùng lúc vinh danh cái nước Canada,
không hề biết
đến Cái Ác toàn trị, Nazi, vốn đầy rẫy ở trong tác phẩm của Nobel những
năm trước,
nào những Kertesz, Cao Hành Kiện, Muller, Jelinek, Mặc Ngôn....
“Việc nhỏ”, như tít
bài viết của Phạm Thị Hoài về truyện ngắn Munro, so với Cái Ác Lớn. Ở
đây, lại
thấy cái ý của Lukacs, khi coi truyện ngắn, ở 1 giai đoạn lịch sử nào
đó, giống
như hành động cố thủ, nhằm bảo vệ phẩm giá của con người, thay vì “sử
thi”, “nếu
đi hết biển”…
Đất nước
Canada chẳng những không kinh qua toàn trị, Nazi, mà còn không biết đến
ý nghĩa của từ “lost”, lạc. Manguel, cũng cư dân của nó, chẳng đã từng
kể 1 giai thoại tuyệt vời, về 1 anh bác sĩ ngoại
tới chơi xứ ông, nhờ 1 anh thổ dân dẫn đường, gặp 1 trận bão tuyết, ông
khách sợ quá, la lên, chúng ta lạc rồi, anh thổ dân ngạc nhiên quá,
chúng ta đâu lạc, chúng ta… ở đây mà!
Tờ Người
Nữu Ước vinh danh truyện ngắn của Lydia Davis, chuyên gia dịch
Proust,
"như Proust, nhưng ngắn hơn", và bồi thêm 1 cú thật tuyệt, khi phịa
cái 1 cái tên mới, cho 1 thứ truyện ngắn mới, “truyện ngắn dài”, “long
short
story”, dành cho thứ giả tưởng ngắn, gọn, súc tích “concise”, là những
truyện
ngắn của bà này.
Đọc mấy ông/bà Mít trả lời phỏng vấn, rồi còm kiệc, trên Da Mùi, thấy
quá đỗi
thê lương. Chẳng ai biết tí gì về văn chương cả, hễ có dịp là tự thổi
chính
mình. Ngoài ra còn mặc cảm Mít nữa, cộng thêm đố kỵ, nhỏ nhen: Ngay
trong câu hỏi,
khi nêu tên những nhà văn Mít viết truyện ngắn đường được, đã bỏ đi rất
nhiều người, không thuộc phe Da Mùi.
Đầu óc như thế làm sao viết?
Không kể tiền
chiến, thì trong số những truyện ngắn thần sầu của Mít, không theo 1
trật tự nào, nhớ tới đâu, bất ngờ phọt ra tên nào, là viết ra, với
riêng GCC.
-Vào lúc đang
chiến tranh:
"Ngoại Ô Dĩ
An và linh hồn tôi", của Cung Tích Biền
Ngụy Ngữ, "Con
Thú Tật Nguyền" do Mai Thảo chọn
"Dọc đường" của
Thanh Tâm Tuyền
Về phía nữ,
cùng thời đó, có "Trăng Huyết" của Minh Ngọc
Những truyện
của Võ Phiến, truyện nào cũng bảnh hết, cũng vào thời này
[còn tiếp]
Tứ Tấu Khúc,
của GCC, cũng viết cùng thời đó, mà chẳng bảnh sao?
Hà, hà!
Hay, Cõi Khác:
Những ngày Mậu
Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào
da thịt
thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của
thành phố
cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm
nhìn bóng
mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố,
trong lúc cảm
thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách
bình thường,
giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Note:
TV giới thiệu hai truyện cực ngắn của Lydia Davis, trong The Paris Review,
Summer, 2013
Lydia Davis - đã từng là
vợ của Paul Auster, sau ly dị, hai người có được 1 đứa
con - được coi như là 1 chuyên gia dịch tiếng Tẩy.
Trong bài
trên The New Yorker, bà cho biết, bà ghen với dịch phẩm của
bà.
Như là 1
tác giả, tất nhiên!
Jonathan Franzen, tiểu thuyết gia Mẽo, phán,
Bà là một Proust ngắn hơn, trong chúng ta, She is the shorter Proust
among us.
THE RESULTS
OF ONE STATISTICAL STUDY
People who
were more conscientious
as children
live longer.
Thống Kê
Những
người tận tâm, chu đáo
như con nít,
sống dai
MY CHILDHOOD
FRIEND
Who is this
old man walking along looking a little grim with a wool cap on
his head?
But when I
call out to him and he turns around, he doesn't know me at
first,
either-this old woman smiling foolishly at him in her winter coat.
Bạn
thời con nít
Cái
thằng cha già đang tản bộ kia, trông thật dữ dằn với cái mũ len, ai vậy
cà?
Tôi kêu lớn, ông ta quay lại, không nhận ra tôi, con mụ già cười khùng
khùng
khùng với ông ta, trong chiếc áo mùa đông.
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
(2) Chúng ta
có Cung Tích Biền, Trần thị Ngh., Lê thị Huệ, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn
Xuân
Hoàng, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trần Vũ, Nguyễn thị Thảo An, Phạm thị
Hoài,
Linh Đinh, Lâm Chương (có thể coi Lâm Chương như một nhà văn viết
novella – thể
truyện giữa “ngắn” và “dài”), McAmmond Nguyễn thị Tú, Lê Minh Hà, Lê
Minh
Phong, v.v… là những nhà văn đặc sắc ở thể truyện ngắn. Yếu tố nào là
yếu tố
chung của các nhà văn viết truyện ngắn đã tạo ra sự chú ý từ độc giả?
Ngoài ra,
yếu tố nào là đã tạo cho họ vị trí cá biệt trên văn đàn? Những yếu tố
này có phải
cũng là những yếu tố định nghĩa cho sự sinh tồn của truyện ngắn?
Tôi không
nghĩ tất cả những cái tên vừa kể đều là “những nhà văn đặc sắc ở thể
truyện ngắn”,
nhưng xin miễn bình luận cụ thể những ai là không xứng đáng; và cả về
tiêu chí
bình chọn. Trong số này, tôi thích Bình Nguyên Lộc, Cung Tích Biền,
Trần Thị
NgH., Phạm Thị Hoài, Trần Vũ, Đinh Linh, Lê Minh Phong…, vì cách viết
của họ
văn minh, có tư tưởng trong cả văn phong và câu chuyện.
Tôi cũng muốn
nhắc lại tập "Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta" (Nxb
Sóng, Sài
Gòn, 1973), nơi có những cái tên mà trong tuyển tập này và trong suốt
sự nghiệp,
họ đã viết những truyện ngắn rất hay. Trừ Bình Nguyên Lộc, Cung Tích
Biền đã nhắc,
tập này còn: Nhã Ca, Võ Phiến, Phan Nhật Nam, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn
Thị Thụy
Vũ, Nguyễn Đức Sơn, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Hồ Hữu
Tường, Nhất
Hạnh, Trùng Dương, Túy Hồng, Vũ Khắc Khoan, Thế Uyên, Nguyễn Đình Toàn,
Sơn
Nam…
Lý Đợi trả lời
DM
Walter
Benjamin có phán 1 câu, áp dụng vô đây, thật hợp, nhớ đại khái, lịch sử
rã ra bằng
hình ảnh, không phải bằng tự sự. Trong 1 truyện ngắn, nếu thuộc loại số
1, là
thể nào cũng chứa cái hình ảnh số 1 đó. TTT, trong “Những Truyện Ngắn
Hay Nhất”
mà Lý Đợi nhắc tới, đã chọn truyện “Dọc Đường”, theo GCC, có thể là do
vậy. Cái
hình ảnh người đàn ông lôm côm ôm cái bọc quần áo, đứng bên lu nước,
đếch ai
dám chứa, trong 1 đêm “những ánh mắt hỏa châu là hoa đăng ngày cưới” mà
không
là hình ảnh 1 tên Mít vô tổ quốc, đếch nước nào nhận ư?
Nhất Hạnh chọn “Cửa Tùng Đôi Cánh Gài”, mà chẳng ứng ngay vào
chính tác giả
ư?
Trong số những
tác giả Mít thần sầu về truyện ngắn, mà DM tuyển chọn, giá bớt đi gần… hết, thì cũng được!
Hà, hà!
Cũng lạ, khi
phán, “vì cách viết của họ văn minh, có tư tưởng trong cả văn phong và
câu chuyện”.
Thú thực, Gấu
không thể nghĩ ra 1 câu thổi, "lạ" như trên.
Cách viết,
văn minh?
Có tư tưởng,
trong cả văn phong và câu chuyện?
Giá mà Lý Đợi
đi 1 đường thí dụ, thì đầu óc Gấu bớt ngu đi 1 chút, và học thêm được,
thứ viết
“văn minh, có tư tưởng trong văn chương và câu chuyện” nó ra làm sao.
(1) Gấu
đọc truyện
ngắn Thảo An & Lâm Chương
"Lịch sử
tan rã ra bằng hình ảnh, không phải bằng tự sự." ("History decomposes
into images, not into narratives." Walter Benjamin, trích dẫn bởi
Coetzee). Hình ảnh cái đầu khổng lồ rã ra từ một bức tượng khổng lồ của
Lênin.
Hình ảnh một con người chặn cả đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An
Môn. Cái
bóng (có thực, hoặc tưởng tượng) của một người đàn ông lỡ độ đường, lom
khom với
bọc quần áo, in lên nền trời, mỗi lần hoả châu rực sáng, trong truyện
ngắn
"Dọc Đường" của Thanh Tâm Tuyền. Độc giả "Gió Ngược" sẽ tự
hỏi, tại sao hình ảnh một con mèo lại ghi đậm trong trí một người tù,
thay vì
những hình ảnh khác?
Trường hợp
[truyện
ngắn] Nguyễn Huy Thiệp
Thiệp và Gấu
Vv Lương tâm
& đạo hạnh của người viết. Nhân đọc Chân dung nhà văn VC của Nhật
Tuấn
& loạt bài trên Blog NL viết về Rushdie.
Cuốn hồi ký
của Rushie, bị 1 tác giả trên NYRB chửi thật là nặng. Rushdie cũng đã
từng đụng
độ thật là nặng với John le Carré
Le
Carré vs Rushdie
THE PEN IS CRUELER THAN THE
SWORD
Ngòi bút
thì độc địa hơn
là cây kiếm
Cú đụng độ
giữa Le Carré vs Rushdie, như tiên đoán thái độ sau này, của Rushdie,
nhất là
phản ứng của giới viết lách, với cuốn hồi ký kể lại những ngày bị án tử
của ông.
Kẻ Biến Mất
The Salman
Rushdie Case
December 20,
2012
Zoë Heller
Oddly
enough, when Rushdie recounts the unhappy episode of 1990 in which he
met with
Muslim leaders, and agreed not only to withdraw the paperback but to
proclaim
his faith in Islam, he berates those who failed to show “compassion”
for his
“Mistake.” Compassion is certainly what he was owed during that
troubled era.
It is only regrettable that this quality should be so signally lacking
from his
own judgments on former friends and colleagues.
Of all the
retrenchments and narrowings of viewpoint that are on display in Joseph
Anton,
the saddest, perhaps, is his altered attitude toward Islam. Throughout
the
fatwa, Rushdie carefully resisted the temptation to make Islam itself
the
enemy. “The thing called Islamism is not the same thing as Islam,” he
told
David Cronenberg in 1995. “This political thing which we call
fundamentalism,
everybody is scared stiff of it. It is not a religious movement, it’s a
political fascist movement which happens to be using a certain kind of
religious language.”
The
world is
as large and as wide as it ever was; it’s just Rushdie who got small.
Thế giới
thì vưỡn rộng lớn như nó vưỡn là, chỉ có Rushdie nhỏ đi
thôi.
Nguyễn
Huy Thiệp
Những
vết thương bỏng
cháy
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
V/v “Mỹ học
của cái vụt tắt”, áp dụng vào truyện ngắn. Ý này, cũng đã có người sử
dụng rồi,
lẽ dĩ nhiên, khác hẳn cái kiểu của BVP.
Gấu, nhân đọc bài của BVP bèn nhớ ra nó.
Đó là Yukio Mishima, trong Đền Vàng.
Trong bài giới thiệu cuốn tiểu thuyết (ấn bản Vintage), Nancy Wilson
Ross viết:
Two passages
from The Temple of the Golden Pavilion
linger strongly in my mind; both of them, in a sense, profoundly
Eastern and
Buddhist-though not particularly Zen in tone. One of these passages
occurs
early, on the occasion of Mizoguchi's first visit to the temple with
his dying
father. He sees a skillfully executed model of the Golden Temple
resting in a
glass case in one of the rooms.
"This model pleased me. It was closer to
the Golden Temple of my dreams. Observing this perfect little image of
the
Golden Temple within the great temple itself, I was reminded of the
endless
series of correspondences that arise when a small universe is placed in
a large
universe and a smaller one is in turn placed inside the small universe.
For the
first time I could dream: of the small, but perfect Golden Temple which
was
even smaller than this model; and of the Golden Temple which was
infinitely greater
than the real building-so great, indeed, that it almost enveloped the
world."
The other
passage occurs near the end, a part of the musings of the young acolyte
just
before he sets fire to the temple. "When the Golden Temple reflected
the
evening sun or shone in the moon, it was the light of the water [in the
pond
before it] that made the entire structure look as if it were
mysteriously
floating along and flapping its wings. The strong bonds of the temple's
form
were loosened by the reflection of the quivering water, and at such
moments the
Golden Temple seemed to be constructed of materials like wind and water
and
flame that are constantly in motion." To its invisible basic elements
the
mad young acolyte-in both fact and fiction-reduced the Golden Temple's
gloriously visible form. The rooms in which Shogun Yoshimitsu once sat
on a
straw mat, drinking tea, listening to the flute, and composing poetry,
went up
in flames and disappeared in ashes. It is perhaps not irrelevant to
state,
however, that the Japanese have already rebuilt the Kinkakuji. True to
the symbol
of the eternally reborn phoenix that surmounts its rooftop, The
National
Treasure stands again in the famous Kyoto monastery grounds. Some even
say it
is "more beautiful and more golden than before."
Nancy Wilson
Ross
1959
Trường hợp
[truyện
ngắn] Nguyễn Huy Thiệp
No
Longer and Not Yet
G.
Lukacs, trong Solzhenitsyn:
Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich (1969) [William David Graf, dịch
từ
tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge,
Mass 1971] viết:
Liên hệ mỹ học giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết,
novel]
thường được phân tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ
nội tại
giữa hai thể loại, trong cuộc phát triển văn học [their historical
connection
and their interrelationship throughout the course of literary
development]. Tuy
nhiên, đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình
văn học
hiện thời [the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự
kiện,
truyện ngắn [novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo
bão
[nguyên văn: tiền thân, precursor] cho sự ra đời của hùng ca, sử thi,
hay những
hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard], một
cách viết ở
tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là một Sẽ
Có, [a
Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer, Nichtmehr].
Áp
dụng nhận xét trên vào Một Ngày... của Solz., Lukacs viết: Với
một
chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời
đã từ bỏ
truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái
gọi là
bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người. [With this
reservation, one
can say of contemporary and near-contemporary fiction that it often
withdraws
from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of
man's moral
stature…..] "Không phát hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. Một
Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenitsyn là một khai mở ý
nghĩa cho
tiến trình lại khám phá ra cái tôi, cái ngã, the self, ở trong văn
chương,
trong hiện tại xã hội chủ nghĩa." [Lukacs].
Trên
Tin Văn, Gấu đã áp dụng
tư tưởng của Lukacs, trên, để giải thích sự xuất hiện
của truyện ngắn NHT.
*
Hannah
Arendt cũng sử dụng cặp từ No Longer/Not Yet, để
giải thích hố thẳm
giữa
Proust và Kafka.
Nếu áp
dụng cái nhìn của bà vào trường hợp nhóm Sáng Tạo, và cú đả phá văn
chương tiền chiến
của họ,
xem ra có thể giải thích câu hỏi Võ Phiến đặt ra, trong Tổng Quan
Văn Học.
*
Hannah Arendt mở ra bài viết No
Longer and Not Yet, điểm
cuốn The Death of Virgil của
Herman
Broch, trong tập tiểu luận Essays in Understanding, bằng nhận
xét
của Hume, trọn văn minh nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một thế hệ thì
không lui khỏi
sàn diễn liền lập tức và một thế hệ khác kế tiếp nó, như trường hợp tằm
và bướm’.
Ở vài điểm ngoặt lịch sử, ở vài đỉnh cao của khủng hoảng, một số phận
tương tự
như tằm và bướm giáng xuống một thế hệ: thế hệ già suy tàn, thế hệ mới
không bắt
buộc phải sinh ra tiếp theo liền; giữa những thế hệ, giữa những
con người vì lý
do này hay lý do khác, vẫn thuộc về thế hệ già, và những người hoặc cảm
thấy cơn
thảm họa ở trong xương trong hồn trong tuỷ, hay là đã trưởng thành cùng
với nó,
sợi ‘sên’ bị gẫy, và một “lỗ hổng, khoảng trống”, một thứ khoảng đất
không
người lịch sử xuất hiện, và chỉ có thể diễn tả bằng thuật ngữ “không
còn nữa, và
chưa xẩy ra nhưng sẽ có” [For the decline of the old, and the
birth of the new,
is not necessarily an affair of continuity; between the generations,
between
those who for some reason or other still belong to the old and those
who either
feel the catastrophe in their very bones or have already grown up with
it, the
chain is broken and an "empty space," a kind of historical no man's
land, comes to the surface which can be described only in terms of "no
longer and not yet."]
Đoạn
Gấu gạch đít trên, giải thích thái độ của nhóm Sáng Tạo khi đả phá
văn học tiền chiến, thế hệ già.
Đây cũng là thái độ của PTH, khi nói về nhóm
Nhân Văn Giai Phẩm: Sợi
sên [chaine] nối tiếp giữa họ bị gãy, và một lỗ hổng lịch sử xuất hiện.
No Longer
and Not Yet
Tại Âu châu,
một đứt đoạn tuyệt đối của liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế
Chiến.
Những ‘lèm bèm’ của đám trí thức về một thoái trào cần thiết của văn
minh Tây
phương hay thế hệ bỏ đi nổi tiếng, như nó thường được thốt ra bởi đám
“phản động”,
thì, nền tảng sự thực của nó là ở đứt đoạn này, và đem đến hậu quả hấp
dẫn hơn,
so với thứ đầu óc ‘tự do', khi đám này bầy ra trước chúng ta một giải
pháp, hoặc
tiên phong hoặc giật lùi, một giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi
vì nó vẫn
giả dụ sợi sên liên tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc
Hannah Arendt, thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm sao mà đám
Sáng Tạo,
bằng mọi cách, ‘đả phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền chiến: Họ nhìn
ra cái sợi
sên bị đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Khoanh vùng
vào văn chương Âu châu mà nói, cái hố thẳm mở ra một không gian trống
và thời
gian rỗng này, nhìn rõ nhất là ở sự lệch pha, không đồng điệu, giữa hai
ông khổng
lồ, hai vị sư phụ vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, đó là Marcel
Proust và
Franz Kafka. Proust là lời giã từ cuối cùng, đẹp như mơ, gửi tới thế
giới của
thế kỷ 19, và khi chúng ta trở lại với tác phẩm của ông, viết trong âm
điệu
"no longer", "không còn nữa”, ["than ôi, hoa rụng bên kia
sông mất rồi, hết rồi, hết rồi, em ơi chiều nay cơn mộng tan rồi”, "ố
là
là", hết Loan, hết Dũng, hết Đôi Bạn
mất rồi…], và thế là cái tâm trạng
não nề [‘từ lúc đưa em về là biết xa ngàn trùng’] khiến chúng ta vãi lệ
chứa
chan!
Kafka, về một
mặt khác, là người đương thời với chúng ta, chỉ tới một giới hạn. Sự
tình như
thể, ông viết từ một điểm thuận tiện cho ông, nghĩa là, từ một tương
lai xa xa,
như thể, ông chỉ có thể ‘ở nhà’ trong một thế giới ‘not yet’, "chưa có
nhưng sẽ có". Godot sẽ tới, nhưng chiều nay, thì chưa! Điều này đẩy
chúng
ta vào một cái vị thế xa xa, bất cứ khi nào chúng ta đọc, và bàn về tác
phẩm của
ông, một khoảng cách chẳng bao giờ trở nên nhỏ lại, mặc dù chúng ta
biết nghệ
thuật của ông thì là biểu hiện của một thế giới tương lai nào đó, cũng
là thế
giới của chúng ta – giả như chúng ta có được tương lai!
Nếu Nhất
Linh, ông Trùm tiền chiến, đóng vai Proust, thì Kafka Mít, là Thanh Tâm
Tuyền!
Cái hố thẳm
giữa họ, được cuộc chiến khốn kiếp làm đầy.
*
Tất cả những
nhà văn và thi sĩ lớn khác của Âu Châu tìm thấy chỗ, và những chuẩn mức
đo lường
của họ ở đâu đó giữa hai vị thầy đã mất này. Nhưng sách của Hermann
Broch rớt
vào một phạm trù khác hẳn so với số còn lại. Ông có chung, với Proust
giọng độc
thoại nội tâm, và với Kafka sự chối bỏ hoàn toàn và triệt để, điều mua
vui, giải
trí, cũng như sự bận bịu với cái siêu hình. Ông chia sẻ với Proust một
sự yêu mến
quá đỗi, thật là thâm sâu, với cõi đời, như là nó được trao cho chúng
ta; và
ông chia sẻ với Kafka, niềm tin tưởng, rằng, “người hùng” của tiểu
thuyết thì hết
còn là một nhân vật với một số phẩm chất được định nghĩa tới nơi tới
chốn, mà
chỉ là “một con người như thế đó” (bởi vì đối với cuộc đời thực của một
con người
và nhà thơ, Virgil chỉ là một cơ hội cho những dự đoán triết học của
Broch) - tất
cả thì đều thực, và những lịch sử của văn học sau này có thể sẽ nói ra
điều
này.
Điều quan trọng
hơn – ít ra vào lúc này, là, tác phẩm của Broch – qua những đề tài mà
nó quan
tâm, qua trọn tính uyên nguyên, qua giọng rất đỗi thơ tuyệt vời của nó
– có một
điều gì giống như một đường dây dẫn bị thiếu, mất, giữa Proust và
Kafka, giữa một
quá khứ mà chúng ta đã mất và không thể nào lấy lại được và một tương
lai chưa ở
trong tay. Nói một cách khác, cuốn sách, tự thân nó, thì giống như một
cây cầu
mà Virgil cố gắng băng qua hố thẳm của quãng không giữa “không còn nữa”
và
“chưa nhưng sẽ có”. Và kể từ khi mà cái hố thẳm này thì thực, rất đỗi
thực, kể
từ khi mỗi năm nó lại mỗi sâu thêm, đáng sợ thêm, kể từ năm định mệnh
1914 trở
đi, cho tới khi những cơ xưởng của Thần Chết được dựng lên ở ngay trái
tim của
Âu Châu, cắt đứt luôn sợi dây đã cũ mòn mà nhờ nó chúng ta còn bám víu
được với
thực thể hơn hai ngàn năm lịch sử; và, kể từ khi chúng ta hoàn toàn
sống trong
“cõi trống rỗng”, đối đầu với một thực tại mù tịt về ý tưởng truyền
thống về thế
giới và con người có thể thắp sáng – quý báu như thể truyền thống này
vẫn còn nằm
ở trong tim của chúng ta – chúng ta phải cám ơn sâu xa tác phẩm thi ca
lớn lao
cố bám víu thật tuyệt vọng vào đề tài này.
Điều khá kỳ
quặc là tác phẩm trước đó của Broch chẳng hề tiên đoán, ông sẽ ị ra Cái
Chết của
Virgil. Những kẻ mộng du,
ngoại trừ những phẩm chất của nó, như là một
cuốn tiểu
thuyết, chỉ cho thấy một điều là, tác giả của nó thì đầy ứ tài kể
chuyện, xuyên
suốt tác phẩm, ông tỏ ra nôn nóng với tác phẩm của riêng mình: ông nói
với độc
giả của mình, tốt nhất, hãy cố mà tìm cho ra kết cục của câu chuyện,
đừng trông
mong ở nơi ông; ông lơ là nhân vật, tình tiết và chỉ xoắn mãi vào những
ức đoán
dài dòng về bản chất của lịch sử. Cho tới một thời điểm nào đó, Broch
quả là một
tay kể chuyện tốt, chịu chơi, biết chọc cười, làm độc giả vui, nhưng
không phải
là một thi sĩ lớn.
Cái biến động
làm cho Broch thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với màn cuối u tối của
Âu Châu.
Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch thức giấc…
Ui chao, đọc
đoạn trên đây, làm sao không nghĩ đến ông anh nhà thơ cho được! Ông
tỉnh giấc,
trở thành nhà thơ, đúng vào màn cuối u tối của miền đất ông ra đời, rời
bỏ nó,
đúng lúc đêm đen chụp xuống, 1954.
Biến động làm Broch thành
một nhà thơ có vẻ
trùng hợp với giai đoạn u tối sau cùng của Âu Châu. Khi bóng đêm chụp
xuống, thế
là a ê hấp, Broch thức dậy. Ông tỉnh giấc trước thực tại khiến ông ngỡ
ngàng và
thế là ông lập tức chuyển dịch nó vào trong một giấc mơ, quá xứng hợp
với một
người thức giấc trong đêm. Giấc mơ này là Cái Chết của Virgil.
Những nhà
phê bình phán, cuốn sách được viết bằng một thứ văn xuôi trữ tình, điều
này
không hẳn đã đúng. Văn phong, độc nhất, do căng thẳng dồn nén, rất
giống những
lời cầu khấn trong những thánh ca Homer, trong đó Thượng Đế được con
người kêu
gọi hoài hoài, mỗi lần là mỗi nơi chốn Thượng Đế cư ngụ, mỗi khung cảnh
thần
thoại, nơi khấn bái, thờ phụng, như thể kẻ cầu nguyện phải cảm thấy
chắc chắc,
tuyệt đối chắc chắn, anh ta không thể nào quên Thượng Đế. Trong cùng
đường hướng
như vậy, Broch cầu khấn Đời sống, hay Cái chết, hay Tình yêu, hay Thời
gian,
hay Không gian, như thể ông muốn hoàn toàn chắc chắn, tuyệt đối chắc
chắc,
ông không quên một điểm nào. Điều này
đem cho cuộc độc thoại khẩn thiết tình cảm thê thiết của nó và làm bật
ra hành
động căng thẳng, tập trung từ dự đoán rất thực […]
Đề tài của
cuốn sách của Broch, như cái tít chỉ ra, là 24 giờ chót của cuộc đời
Virgil.
Nhưng cái chết thì được coi như không phải là một sự kiện mà là một
thành tựu tối
hậu của con người - hoặc theo nghĩa, những khoảnh khắc hấp hối là cơ
may sau
cùng và độc nhất để biết đời sống là cái gì, hay theo nghĩa, đó là thời
khắc mà
con người phán đoán về chính cuộc đời của mình, kẻ đang chết đó. Phán
đoán này
không phải là tự buộc tội, bởi vì lúc đó đã quá muộn để mà mất thì giờ
với một
việc như thế, cũng không phải tự biện minh, bởi vì, nếu như thế, thì
việc này lại
quá sớm; đó là cố gắng tối hậu để tìm ra sự thực, lời nói chung quyết
của trọn
câu chuyện. Điều này làm cho phán đoán sau cùng là chuyện của con
người, con
người tự tính sổ với con người, tránh cho Thượng Đế khỏi vướng bận vào
chuyện tầm
phào như thế!
Có thể áp dụng
cách nhìn cuộc chiến 1914 của Hannah Arendt vào Việt Nam & cuộc
chiến Mít,
qua ý niệm "No-Longer & Not-Yet": Một nước Mít “Đếch Còn Nữa”, và
1 nước Mít khác, “Chưa Xuất Hiện”:
Hannah
Arendt mở ra bài viết No Longer and Not Yet, điểm cuốn The
Death of
Virgil của Herman Broch, trong tập tiểu luận Essays in
Understanding, bằng
nhận xét của Hume, trọn văn minh nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một thế hệ
thì
không lui khỏi sàn diễn liền lập tức và một thế hệ khác kế tiếp nó, như
trường
hợp tằm và bướm’. Ở vài điểm ngoặt lịch sử, ở vài đỉnh cao của khủng
hoảng, một
số phận tương tự như tằm và bướm giáng xuống một thế hệ: thế hệ già suy
tàn, thế
hệ mới không bắt buộc phải sinh ra tiếp theo liền; giữa những thế hệ,
giữa những
con người vì lý do này hay lý do khác, vẫn thuộc về thế hệ già, và
những người
hoặc cảm thấy cơn thảm họa ở trong xương trong hồn trong tuỷ, hay là đã
trưởng
thành cùng với nó, sợi ‘sên’ bị gẫy, và một “lỗ hổng, khoảng trống”,
một thứ
khoảng đất không người lịch sử xuất hiện, và chỉ có thể diễn tả bằng
thuật ngữ
“không còn nữa, và chưa xẩy ra nhưng sẽ có” [For the decline of the
old, and
the birth of the new, is not necessarily an affair of continuity;
between the
generations, between those who for some reason or other still belong to
the old
and those who either feel the catastrophe in their very bones or have
already
grown up with it, the chain is broken and an "empty space," a kind of
historical no man's land, comes to the surface which can be described
only in
terms of "no longer and not yet."]
*
Mới đây, một
anh bạn nhà văn khá nổi tiếng sau khi đọc loạt “ Chân dung hay chân
tướng nhà
văn” gọi điện khuyên tôi không nên viết các nhà văn quá cố, bởi người
chết
không còn cãi được mà chỉ nên viết người đang sống, còn “phản biện”
được.
Chiều lòng
anh bạn, kỳ này xin nói tới một nhà văn cao tuổi : lão... nhà văn Tô
Hoài.
Sinh thời,
ông trùm văn hoá mác xít Việt Nam, nhà phê bình văn học Như Phong “khái
quát “
về nhà văn Tô Hoài vẻn vẹn có mỗi một câu :
“thằng ngoại
ô láu cá, văn chương đẽo gọt”.
Blog &
FB Nhật Tuấn
Loạt bài của
Nhật Tuấn về chân dung nhà văn VC, theo Gấu, hỏng quá. Chỉ nhìn thấy có
phần xấu
của họ. Những tác phẩm của Nguyễn Khải, Tô Hoài - nhất là ở hai người
này- phải
được đọc bằng cái nhìn cao hơn nhiều, vượt cả xấu tốt, vượt quá cả xứ
Bắc Kít mới
ra được.
GCC tự hỏi, khi viết về họ như thế, thì còn về phần Nhật Tuấn, thì
sao.
Trên Tin Văn,
đã từng viết về họ. Cách nhìn của Gấu “thông cảm” hơn nhiều, và, còn
nhìn ra, cả
cái phần “không thể bằng họ”, của Gấu Nhà Văn!
Khi viết những
tác phẩm vào lúc cuối đời, như Đi Tìm Cái
Tôi của Nguyễn Khải, Ba Người Khác
của Tô Hoài, là cả hai đều đã nhận ra phần khốn nạn, tà ma ác quỉ của
họ, và họ
viết, cho đời sau, đời khác, những người ở bên ngoài cái xã hội XHCN,
bên ngoài
xứ Bắc Kít và cái thời kỳ có họ sống ở trong đó, đọc, và phán đoán ra
sao như thế
nào, họ cũng chịu, cũng OK hết. Tao thế đó.
"Ba Người Khác, là tao", Tô
Hoài có thể phán!
Họ cũng chẳng hề nhận lỗi
phải gì hết.
Và, chúng ta
cũng phải đọc họ trong cái tâm thái như thế.
Vv Lương tâm
& đạo hạnh của người viết. Nhân đọc Chân dung nhà văn VC của Nhật
Tuấn
& loạt bài trên Blog NL viết về Rushdie.
Cuốn hồi ký
của Rushie, bị 1 tác giả trên NYRB chửi thật là nặng. Rushdie cũng đã
từng đụng
độ thật là nặng với John le Carré
Le
Carré vs Rushdie
THE PEN IS CRUELER THAN THE SWORD
Ngòi bút thì độc địa hơn
là cây kiếm
Cú đụng độ
giữa Le Carré vs Rushdie, như tiên đoán thái độ sau này, của Rushdie,
nhất là
phản ứng của giới viết lách, với cuốn hồi ký kể lại những ngày bị án tử
của ông.
Kẻ Biến Mất
The Salman
Rushdie Case
December 20,
2012
Zoë Heller
Oddly
enough, when Rushdie recounts the unhappy episode of 1990 in which he
met with
Muslim leaders, and agreed not only to withdraw the paperback but to
proclaim
his faith in Islam, he berates those who failed to show “compassion”
for his
“Mistake.” Compassion is certainly what he was owed during that
troubled era.
It is only regrettable that this quality should be so signally lacking
from his
own judgments on former friends and colleagues.
Of all the
retrenchments and narrowings of viewpoint that are on display in Joseph
Anton,
the saddest, perhaps, is his altered attitude toward Islam. Throughout
the
fatwa, Rushdie carefully resisted the temptation to make Islam itself
the
enemy. “The thing called Islamism is not the same thing as Islam,” he
told
David Cronenberg in 1995. “This political thing which we call
fundamentalism,
everybody is scared stiff of it. It is not a religious movement, it’s a
political fascist movement which happens to be using a certain kind of
religious language.”
The
world is
as large and as wide as it ever was; it’s just Rushdie who got small.
Thế giới thì vưỡn rộng lớn như nó vưỡn là, chỉ có Rushdie nhỏ đi
thôi.
Rushdie vs Hồi
Giáo!
GCC vs
Bắc Kít!
Trong Tự Thuật,
Rushdie cho biết, đã từng ngồi nắn nót viết Tự Kiểm, y chang thi sĩ HC
của xứ Mít,
trước Tố Hữu, ấy chết xin lỗi, trước 1 Hội Đồng “juges”, là những chức
sắc số 1
của Hồi Giáo. Họ sẽ can thiệp để gỡ bỏ cái án nặng nề nhất đối 1 nhà
văn: bị
thiến mất lưỡi!
Ông tự nhận
mình, cũng 1 thứ hồi giáo ‘thế tục’ [laique].
Y chang GCC, cũng... Bắc
Kít!
Và sau đó, vô
câu tiêu, thổ, mửa ra tất cả những cay đắng nhục nhã mà ông phải chịu!
Nguyễn Huy Thiệp
Những
vết thương bỏng
cháy
Truyện
ngắn:
Mission Impossible
Những nhận
xét của BVP về truyện ngắn Garcia Marquez , với, của Kafka, theo Gấu,
nhảm.
Garcia
Marquez cho biết, một đêm [hồi còn học trung học], một người bạn cho
tôi mượn một
tập truyện ngắn của Kafka. Trở về nhà trọ học, tôi bắt đầu đọc truyện
“Hoá
Thân”. Dòng đầu tiên gần như đánh văng tôi ra khỏi giường. Tôi hết đỗi
kinh ngạc.
Dòng đầu như thế này: “Buổi sáng khi thức dậy, Gregor Samsa thấy mình ở
trên
giường biến thành một con bọ khổng lồ….”. Khi đọc nó, tôi ngẫm nghĩ với
mình, rằng,
tôi chưa từng biết có một người nào được phép viết những điều như vậy.
Nếu biết,
tôi đã khởi sự viết tự thuở nào rồi. Thế là, liền tức thì, tôi bắt đầu
viết
truyện ngắn.
Tuy nhiên,
truyện ngắn của ông, khác hẳn của Kafka. Có cái kỳ quặc, nhưng 1 bên,
ra cái mà
người ta gọi là hiện thực huyền ảo, GG dựa vào nó, để nói về hiện thực
“thực” của
xứ Mỹ Châu La Tinh của ông, như Rushdie nhận xét:
Chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo là một khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực; một
chủ nghĩa
siêu thực diễn tả lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức là của
những xã
hội được tạo thành chỉ có “một nửa”; trong đó, cái cũ có vẻ như không
thực chống
lại cái mới làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối nát công cộng
của đám
cầm quyền và nỗi khiếp sợ riêng tư của từng người dân, tất cả đều trở
thành hiển
nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez, những điều vô lý,
những
chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay giữa ban ngày ban
mặt. Thật
hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông là một hệ thống bịa
đặt,
khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác mà chính là mảnh
đất
chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó là tính nhiệm mầu của ông,";
còn một bên, ra cơn ác mộng toàn trị.
Quá nữa, ra
phận người, ra "lưu đày và quê nhà...."
Khác hẳn
nhau, làm sao quàng vào nhau được.
Munro thường
được giới phê bình coi như là đệ tử của Chekhov, nhưng với Gấu, khó mà
coi
Munro là đệ tử của Chekhov, so với 1 em Tẫu như Yiyun Li được.
Cũng khốn nạn
vì Cái Ác Á Châu, như Chekhov, và, hơn thế nữa, Cái Đại Ác CS.
Nobel văn chương 2013
Photo: ©
shapton
Alice Munro
Born: 10
July 1931, Wing ham, Canada
Prize
motivation: "master of the contemporary short story"
“Thầy truyện ngắn hiện
đại”.
Note: Vòng
hoa Nobel văn chương năm nay, có thể cũng là do những vòng hoa trước,
gây
"trouble", mà ra.
Bèn ngắn gọn:
Bậc thầy truyện ngắn!
Cóc cần “tỉu thiết”. Cóc
cần kịch cọt!
“Mấy con dã
tràng” đủ ăn Nobel rùi!
Thì cũng....
Canada.
Biết đâu đấy!
Hà, hà!
Chắc là phải
mướn người dịch lẹ qua tiếng mũi lõ!
Alice Munro
is the 13th woman awarded the Nobel Prize in Literature so far. She is
also the
110th Literature Laureate in total.
Note: Còn
thiếu 1 cái “lucky thirteen”, bà được Nobel vào năm (20)13!
Trường hợp
[truyện
ngắn] Nguyễn Huy Thiệp
Thiệp và Gấu
G. Lukacs,
trong “Solzhenitsyn: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” (1969)
[William David
Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971]
viết:
Liên hệ mỹ học
giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường
được phân
tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai
thể loại,
trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their
interrelationship throughout the course of literary development]. Tuy
nhiên,
đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học
hiện thời
[the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện
ngắn
[novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên
văn: tiền
thân, precursor] cho sự ra đời của hùng
ca, sử thi, hay những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu
vệ
[rearguard], một cách viết ở tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác,
hoặc nó xuất
hiện như là một Sẽ Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a
No-Longer, Nichtmerhr].
Áp dụng nhận
xét trên vào Một Ngày... của Solz.,
Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả
tưởng cận
và đương thời đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong
toan
tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con
người.
[With this
reservation, one can say of contemporary and near-contemporary fiction
that it
often withdraws from the novel into the novella, in its attempt to
provide
proof of man’s moral stature…..]
“Không phát
hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của
Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến
trình lại khám phá ra cái tôi,
cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ
nghĩa.”
[Lukacs].
Truyện
ngắn
của NHT có gì tương tự với Một Ngày
Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenisyn.
Nó báo hiệu sự suy tàn của một chế độ, sự tận cùng của một thời kỳ [a
termination at the end of a period, a No-Longer], và đồng thời nó đăng
quang
con người, như một cá nhân [lại khám phá ra một cái tôi, thí dụ như của
NHT, của
Bùi Ngọc Tấn, và nhất là, của Nguyễn Chí Thiện, một cái tôi như là tôi
dám tự
chọn cho tôi: nhà thơ ngục sĩ đời đời!
*
Coetzee viết
về Brodsky:
Trong những
hành trình mang tính tự thuật, Brodsky chẳng hề nhắc nhở cho dù sơ sơ
tới thập
niên 1960, khi xẩy ra "vụ án" và sau đó, là lưu đầy nội xứ nơi miền bắc
của ông. Sự im lặng này là một từ chối quyết liệt, không phô ra cho
người đời
nhìn thấy những vết thương của ông. Và như ông nói với những người sinh
viên,
trong một lần gặp gỡ: "Bằng mọi giá, đừng bao giờ cho phép mình trở
thành
nạn nhân"
Và Coetzee
nhắc lại lời của nhà thơ Olga Sedakova, thành tựu lớn lao nhất của
Brodsky, là
ông đã chặn đứng, chấm dứt hoàn toàn "thời đại văn học Xô viết"
['place a full stop at the end of (the Soviet) literary epoch']. Ông
làm được
điều này, bằng cách đem đến cho văn học Nga một phẩm chất đã bị nền văn
chương
lẫm liệt, đường ra trận mùa này đẹp lắm... đè bẹp, phải trốn chui trốn
nhũi,
nhân danh cái gọi là chủ nghĩa lạc quan, của cả một nền kỹ nghệ văn học
Xô Viết:
phẩm chất về sự bi đát của cuộc sống, về nỗi bi thương được làm người.
Thương cả
cho đời bạc: Tôi nghĩ Thiệp cũng đã làm được điều này, một phần nào.
*****
Dương Tường
phán, nhà văn chúng ta dốt quá. Nguyên Ngọc, lịch sự, chi tiết, và cũng
thực tế
hơn, nói, nhà văn Việt Nam cần kiến thức triết học. Ngay cả Mác Xít
"của
chúng ta", cũng dởm, như là triết học, nhưng thực, như là
vũ khí, để đi xâm lược, không khác chi cây
súng, trong sứ mệnh khai khóa của Tây Phương trước đây.
Thơ phải có
thép, nhà thơ phải biết xung phong, là vậy.
Nhưng, giả sử
như nhà văn Việt Nam cần một kiến thức triết học, những nhà phê bình
Việt Nam
còn cần hơn nhiều. Thất bại của Cây Bút Đời Người, của Vương Trí Nhàn,
nằm ngay
ở lời dẫn, và là cái điều mà ông gọi là may mắn:
Với tư cách
một người chuyên viết phê bình văn học có thể nói tôi có nhiều may mắn,
bởi
trong suốt cuộc đời làm nghề, tôi luôn có dịp được sống gần gũi với các
nhà văn
nhà thơ, ở cùng cơ quan, hàng ngày trò chuyện với họ, cùng họ bàn bạc
về công
việc văn chương cũng như việc đời.
"Ru mãi
ngàn năm", Benjamin đã từng nói tới những cuốn sách ngủ những giấc ngủ
dài
ngàn năm, chẳng khi nào tỏ ra hối hả, hoặc bực bội, vì chưa có độc giả
nào ngó
tới chúng. Như thế nghĩa là gì?
Một trong ý
nghĩa của nó, là cái may mắn tuyệt vời của độc giả - tức nhà phê bình -
không hề
quen biết tác giả.
Cái may mắn
quen biết ăn ngủ chung chạ với những nhà văn chỉ đẻ ra những tác phẩm
thuộc loại
giai thoại, tiểu sử, trà dư tửu hậu, bù khú, điếu đóm văn học, không
phải phê
bình văn học.
Những bàn bạc
về công việc văn chương cũng như việc đời, cao lắm cũng chỉ đẻ ra một
thứ tiểu
sử tác giả, dùng cái đó để phê bình tác phẩm lại càng chết nữa, điều
này
Naipaul trong bài diễn văn Nobel văn chương, đã nói rõ, khi viện Chống
Sainte-Beuve của Proust. Kundera thì ngang ngược hơn, khi cho rằng
[trong Những
Di Chúc Bị Phản Bội], nhà văn phá căn nhà của mình [hiểu như tiểu sử,
cuộc sống
riêng tư] để xây một căn nhà khác, là tác phẩm. Lục lọi ba chuyện lẩm
cẩm linh
tinh..., may lắm tìm đuợc, chỉ một viên gạch!
Và một khi
người đọc chú ý đến ba chuyện lẩm cẩm, thay vì Joseph K, như vậy là
Kafka lại
chết thêm một lần chết nữa, một cái chết sau cái chết.
Một trong những
'chân lý' về phê bình, là: nhà phê bình phải chủ quan, chứ không khách
quan!
Cái gọi là
chủ quan với một nhà phê bình, chính là khung triết học mà người đó dựa
vào đó,
để khám phá, khai thác, thám hiểm tác phẩm. Thí dụ, Barthes, Genette
của cơ cấu
luận; Sartre, của hiện sinh; Lukacs, Goldmann của Mác Xít; những nhà
phê bình
Nga của trường phái hình thức luận.
Trên tất cả,
nhà phê bình phải là một nhà văn. Đã qua rồi, cái thời nhà phê bình ngự
sử văn
đàn, ngồi trên cao gật gù cái đầu của mình, hoặc xoa đầu những nhà văn,
"Được, được, toa viết cái đó,
moa chịu lắm", và sau đó, kéo nhau
tới tiệm ăn mừng, không phải tác phẩm, mà là lời phán, của nhà phê bình!
Để nói lên sự
vô thường bật ra từ một cõi văn chương Shakespeare, Steiner, nhà phê
bình-nhà
văn [trong Nhân Văn], chú ý tới "vết gỉ sét của một giọt sương trên
lưỡi
dao sáng ngời". Nhưng một thi sĩ, hay một nhạc sĩ [Phạm Duy], thì lại
nhận
ra trong vườn của mình, bông hồng nở thơm ngát vào buổi sáng nghe tin
một người
thân quen tử trận.
Tác phẩm phê
bình là một tác phẩm của tác phẩm, một bản văn choàng lên một bản văn,
là vậy.
Giống như phần
thuận, và phần đảo của cùng một định lý, nếu nhà phê bình phải là nhà
văn, thì,
nhà văn phải là một nhà phê bình. Có thể, "văn" và "phê"
đang ở vào tình trạng giống như văn và thơ, theo nghĩa này: Cái gì
không phải
văn, là thơ, và cái gì không phải thơ, là văn, như ông giáo sư triết
học của
Molière trong Le Bourgois Gentilhomme
tuyên bố [Tout ce qui n'est point prose
est vers, et tout ce qui n'est point vers est prose. Susan Sontag trích
dẫn,
trong bài viết A Poet's Prose, Văn của Thi Sĩ, [trong tuyển tập essays
Where
The Stress Falls, nhà xb Farrar, Strauss and Giroux, New York, 2002]
Thử nhìn lại
Nobel mấy năm gần đây, là thấy rõ: Cao Hành Kiện, Naipaul, Kertesz,
Coetzee.. đều
là những phê bình gia, tiểu luận gia bậc thầy. Người
kể lại kinh nghiệm, làm thế nào sống sót lịch
sử của đám đông Đông Phương, người xoáy mãi vào Lò Thiêu,
hay một góc bị bỏ quên của thiên đàng hạ giới
[... that Africa could never, in the European imagination, be the home
of the
earthly paradise, because Africa was not a new world: Rằng Phi Châu
chẳng bao
giờ, trong trí tưởng tượng của người Âu Châu, là nhà
nơi thiên đàng hạ giới, vì nó không phải
là một thế giới mới. Coetzee: White Writing].
Nếu Việt Nam
sẽ có một Nobel văn học, thì một ông nhà văn Mít như thế đó phải là cái
lương
tâm mà đám Mít có thể tin cậy [The writer - that conscience in which
his fellow
man can believe. Normal Manea].
Đã có một thời,
NHT là cái lương tâm đó.
Như Kundera,
Milosz, and Kis, Manea tượng trưng cho tinh thần Trung Âu, không chỉ vì
ông
sinh ra tại đây như họ, mà còn vì tầm nhìn của ông về mặt tâm linh và
văn hóa,
hay nói như Danilo Kis, mà ông đã từng viện dẫn:
"Ý thức
rằng mình thuộc về Trung Âu, là ý thức rằng sau chót, tự thân của nó, ý
thức
này là một ý thức về sự ly khai."
Solzhenitsyn
cũng đã từng phán như vậy, khi dậy bảo Hội Nhà Văn của những nhà văn
nhà thơ
nhà nước CS: Nhà văn phải làm sao xử sự như một nhà nước trong một nhà
nước.
Liệu một nhà
văn, một tinh thần, một ý thức như thế, sẽ có, ở trong nước?
Viết nhỏ
Tác giả/tác
phẩm ảnh hưởng nặng nề lên Pat [Patricia Highsmith] là Dos/Tội ác và Hình Phạt.
Như… Sến, em gặp ông già rậm râu là mê
liền, năm em 13 tuổi!
Trong nhật
ký, em coi Dos, là "Thầy", và coi Tội
Ác là 1 cuốn tiểu thuyết
suspense, trinh thám nghẹt thở.
Thomas Mann phán, Tội Ác là
một trong những cuốn
tiểu thuyết trinh thám lớn lao nhất của mọi thời.
Cuốn trứ
danh của Pat, Những kẻ lạ trên tàu, Strangers
on a Train, là từ Tội Ác
mà ra.
Em phán: "Tôi có ý nghĩ của riêng tôi về nghệ thuật, và nó như vầy:
điều mà hầu
hết mọi người coi là kỳ quặc, thiếu tính phổ cập, fantastic, lacking in
universality, thì tôi coi là cực yếu tính, the utmost essence, của sự
thực."
Tzvetan Todorov, khi viết về sự quái dị trong văn chương, đã cho thấy,
bằng cách
nào tiểu thuyết trinh thám hiện đại đã thay thế truyện ma quỉ của quá
khứ, và
những nhận định của ông áp dụng rất OK với tiểu thuyết của Pat: “căn
cước gẫy vụn,
bể nát, những biên giới giữa cá nhân và môi trường chung quanh bị phá
vỡ, sự mù
mờ, lấp lửng giữa thực tại bên ngoài và ý thức bên trong”, đó là những
yếu tố
thiết yếu làm nền cho những đề tài quái dị.
GCC biết đến
Patricia Highsmith qua phim Plein Soleil, Alain Delon
đóng vai Mr. Ripley. Thời còn Sài Gòn. Còn đi học, hoặc mới
đi làm.
Sau đó, mò coi truyện.
Mua Eleven, do đọc bài giới thiệu của Grahm Greene.
Truyện trinh
thám của PH, theo GCC "khủng" hơn hết, so với các tác giả khác, đúng
như Greene viết, bà tạo ra 1 thế giới của riêng bà, mỗi lần chúng ta mò
vô, là
một lần thấy ơn ớn.
Trong cuốn tiểu sử của bà, Cái bóng
xinh đẹp, Beautiful shadow, người viết
trích dẫn 1 câu trong nhật ký của bà, và là 1 câu trích dẫn
Kierkegaard:
Mỗi cá
nhân con người thì có nhiều cái bóng tạo thành những nếp gấp, tất cả
những cái
bóng đó thì giống người đó, và thi thoảng, có 1 cái bèn chiếm luôn chỗ
của người
đó.
Nguyên văn câu tiếng Anh,
khác 1 tí, so với câu của GCC:
"The
individual has manifold shadows, all of which resemble him, and from
time to
time have equal claim to be the man himself."
Kierkegaard,
quoted in Highsmith’s 1949 journal
Miss
Highsmith is a crime novelist whose books one can reread many times.
There are
very few of whom one can say that. She is a writer who has created a
world of
her own - a world claustrophobic and irrational which we enter each
time with a
sense of personal danger, with the head half turned over the shoulder,
even
with a certain reluctance, for these are cruel pleasures we are going
to
experience, until somewhere about the third chapter the frontier is
closed
behind us, we cannot retreat, we are doomed to live till the story's
end with
another of her long series of wanted men.
GG
Foreword
by
Grallam
Greene
Miss
Highsmith is a crime novelist whose books one can reread many times.
There are
very few of whom one can say that. She is a writer who has created a
world of
her own - a world claustrophobic and irrational which we enter each
time with a
sense of personal danger, with the head half turned over the shoulder,
even
with a certain reluctance, for these are cruel pleasures we are going
to
experience, until somewhere about the third chapter the frontier is
closed
behind us, we cannot retreat, we are doomed to live till the story's
end with
another of her long series of wanted men.
It makes the
tension worse that we are never sure whether even the worst of them,
like the
talented Mr Ripley, won't get away with it or that the relatively
innocent
won't suffer like the blunderer Walter on the relatively guilty escape
altogether like Sydney Bartleby in A Suspension of Mercy. This is a
world without
moral endings. It has nothing in common with the heroic world of her
peers,
Hammett and Chandler, and her detectives (sometimes monsters of cruelty
like
the American Lieutenant Corby of The Blunderer or dull sympathetic
rational characters
like the British Inspector Brockway) have nothing in common with the
romantic
and disillusioned private eyes who will always, we know, triumph
finally over
evil and see that justice is done, even though they may have to send a
mistress
to the chair.
Nothing is
certain when we have crossed this frontier.
It is not the world as we once believed we knew it, but it is
frighteningly
more real to us than the house next door. Actions arc sudden and
impromptu and
the motives sometimes so inexplicable that we simply have to accept
them on
trust. I believe because it is impossible. Her characters are
irrational, and
they leap to life in their very lack of reason; suddenly we realize how
unbelievably
rational most fictional characters are as they lead their lives from A
to Z,
like commuters always taking the same train. The
motives of these characters are never inexplicable because they are so
drearily
obvious. The characters are as Hat as a mathematical symbol. We
accepted them
as real once, but when we look back at them from Miss Highsmith's side
of the frontier,
we realize that our world was not really as rational as all that.
Suddenly with
a sense of fear we think, 'Perhaps I really belong here,' and going out
into
the familiar street we pass with a
shiver of apprehension the offices of the American Express, the centre,
for so
many of Miss Highsmith's dubious men, of their rootless European
experience,
where letters are to be picked up (though the name on the envelope is
probably false)
and travellers' cheques are to be cashed (with a forged signature) .
Miss
Highsmith's short stories do not let us down, though we may be able
sometimes
to brush them off more easily because of their brevity. We haven't
lived with
them long enough to be totally absorbed. Miss Highsmith is the poet of
apprehension
rather than fear. Fear after a time, as we all learned in the blitz, is
narcotic, it can lull one by fatigue into sleep, but apprehension nags
at the
nerves gently and inescapably. We have to learn to live with it. Miss
Highsmith's finest novel to my mind is The Tremor of Forgery, and if I
were to be
asked what it is about I would reply, 'Apprehension'.
In her short
stories Miss
Highsmith has naturally to adopt a different method. She is after the
quick
kill rather than the slow encirclement of the reader, and how admirably
and
with what field-craft she hunts us down. Some of these stories were
written
twenty years ago, before her first novel, Strangers
on a Train, but we have no sense
that she is
learning her craft by false starts, by trial and error. 'The Heroine',
published nearly a quarter of a century ago, is as much a study of
apprehension
as her last novel. We can feel how dangerous (and irrational) the young
nurse
is from her first interview. We want to cry to the parents, 'Get rid of
her
before it's too late'.
My own
favourite in this collection is the story 'When the Fleet Was In at
Mobile'
with the moving horror of its close here is Miss Highsmith at her
claustrophobic best. 'The Terrapin', a late Highsmith, is a cruel story
of
childhood which can bear comparison with Saki's masterpiece, 'Sredni
Vashtar',
and for pure physical horror, which is an emotion rarely evoked by Miss
Highsmith, 'The Snail-Watcher' would be hard to beat.
Mr Knoppert has
the same attitude to his snails as Miss Highsmith to human beings. He
watches
them with the same emotionless curiosity as Miss Highsmith watches the
talented
Mr Ripley:
Mr Knoppert
had wandered into the kitchen one evening for a bite of something
before
dinner, and had happened to notice that a couple of snails in the china
bowl on
the draining board were behaving very oddly. Standing more or less on
their
tails, they were weaving before each other for all the world like a
pair of
snakes hypnotized by a flute player. A moment later, their faces came
together
in a kiss of voluptuous intensity. Mr Knoppert bent closer and studied
them from all angles. Something else was happening: a protuberance like
an ear
was appearing on the right side of the head of both snails. His
instinct told
him that he was watching a sexual activity of some sort.
Graham Greene
THE SHORT STORY
IS IMPOSSIBLE
Truyện ngắn:
Mission Impossible
~ Posted by
Robert Butler, March 28th 2014
The short
story is a bullet. The short story is a bomb. The short story is a core
sample
which—if the writer has the sensitivity and ability to be glancing—can
tell you
as much about a world and a society as a geologist learns from a sliver
of ice.
Whichever image you go for, the short story has to combine the
qualities of
good prose and good poetry. Every word has to count. It has to be
intense. It's
the opposite of the kind of chat you hear at parties.
Three
acclaimed short-story writers were reading from their work and sharing
their
thoughts yesterday at the Marylebone branch of Daunt Books, the small
chain of
London bookshops. Yellow bunting hung from the ceiling announcing that
this was
the Daunts Book Festival. It was the first day of their first one—let's
hope
they hang on to the bunting and bring it out again next year. On the
stage, in
front of the decorative arched window at the back of this beautiful
Edwardian
bookshop, sat A.L. Kennedy (six collections of short stories), Helen
Simpson
(five), and David Constantine (four). They were interviewed by K.J. Orr
(one on
its way).
Each author
spoke intently about their craft. You don't need to know a character's
middle
name, they agreed, or where they went to school, or the colour of their
hair. A
short story can be more like the lyrics of a good song. Sometimes
leaving out
details allows it to resonate more widely. The story has to suggest a
previous
life and an afterlife. The good ones don't aim for closure, they often
open out
at the end; but, always, something has to be at stake and something has
to
change. "It's a 'Quo vadis?' moment," said Constantine, "Where
were you going? Where are you going now we've met?"
Sure, some
people prefer sinking into the warm bath of the novel, but Simpson said
that
when she reads a novel she's often thinking, "Oh, get on with it!"
The downside of writing short stories, Kennedy said, is that they're
impossible. The upside, Simpson said, you never get bored.
Robert
Butler is online editor of Intelligent
Life
Truyện ngắn là viên đạn. Truyện
ngắn là trái bom. Truyện ngắn là cái mẫu cốt lõi
mà
– nếu nhà văn có mẫn cảm và khả năng, thoáng nhìn một
phát - là có thể nói cho chúng ta về thế
giới, hay một xã hội, chẳng thua gì 1 nhà địa chất học biết, từ một
mảnh băng.
Bất cứ 1 hình ảnh nào mà bạn lần mò
theo, truyện ngắn phải kết hợp được những phẩm chất của 1 thứ văn xuôi
tốt, và thơ tốt. Mỗi từ,
mọi từ đều được tính đếm tới. Nó phải thật căng. Nó là cái ngược hẳn
với ba cái
trò lèm bèm rách chuyện mà bạn nghe ở những bữa tiệc
Ba nhà văn nổi tiếng về truyện
ngắn đọc truyện và chia sẻ những ý
nghĩ của họ bữa hôm qua ở…
Mỗi tác giả nói về ngón nghề
của mình. Bạn đếch cần biết “middle
name” của 1 nhân vật, hay họ học ở trường nào, hay tóc của họ màu gì.
Một truyện
ngắn thì còn hơn cả lời ca của 1 bản nhạc bảnh. Đôi
khi, bỏ đi những chi tiết, lại làm cho nó
rổn rảng mãi ra. Chuyện thì phải đề xuất ra cuộc đời trước, và cuộc đời
sau đó.
Những truyện ngắn hay không nhắm đóng lại, chúng thường mở ra ở kết
thúc; nhưng
luôn luôn có một cái gì đó bị nắn gân, hỏi thăm sức khoẻ, và một cái gì
đó thay
đổi. Đó là khoảnh khắc “Quo vadis? “Bạn đi đâu?” “Bạn đi đâu bây giờ
khi chúng
ta đã gặp?”
Tất nhiên rồi, một số người thích trầm mình trong nước ấm của 1 cuốn
tiểu thuyết. nhưng Simpson cho biết, khi đọc 1 cuốn tiểu thuyết, bà
thường nghĩ,
“Ui chao, tiếp tục mãi đi, với nó”.
Bất lợi của viết truyện ngắn, chúng thì bất khả. Lợi, bạn chẳng
bao giờ cảm thấy nhàm chán.
Trên DM thấy đi về đề tài
truyện ngắn, GCC đọc bài của nhà phê bình
BVP, "Mỹ học của cái vụt qua". Đề tài khoanh vùng vô truyện ngắn của
Munro, "Người" viết lệch
hẳn ra ngoài, khoe, đọc đủ thứ truyện ngắn trên đời, nhưng viết trật
tên của Marquez. Tên
ông này là Garcia Marquez. Văn Cao khác Nam Cao. Độc giả thì đếch cần
biết tên “middle name” của 1 nhân vật, nhưng phê bình gia thì phải rành
tên của
những tác giả mà mình đề cập tới.
"Mỹ học của cái vụt tắt"? Nghe
kêu như chuông!
Cẩm như "Mỹ học của
cái tầm phào"!
Nôm na người ta nói, đẹp của
cái thoáng qua, nhưng theo GCC, không
áp dụng nhận xét này vô truyện ngắn được, đúng như trên, Robert Butler
nhận xét,
truyện ngắn là cái mẫu cốt lõi mà – nếu nhà văn có mẫn cảm và khả năng,
thoáng
nhìn một phát - là có thể nói cho chúng
ta về thế giới, hay một xã hội, chẳng thua gì 1 nhà địa chất học biết,
từ một mảnh
băng.
Đếch có gì vụt tắt ở đây cả!
Chán thế!
Cả
1 bài viết dài thòng, chỉ để khoe cái đọc rộng của mình, nhưng chẳng ăn
gì với
đề tài được giao, truyện
ngắn Munro mà thui nhe!
Những
nhận xét của BVP về truyện ngắn Garcia Marquez , với, của Kafka, theo
Gấu, nhảm.
Garcia
Marquez cho biết, một đêm [hồi còn học trung học], một người bạn cho
tôi mượn một
tập truyện ngắn của Kafka. Trở về nhà trọ học, tôi bắt đầu đọc truyện
“Hoá
Thân”. Dòng đầu tiên gần như đánh văng tôi ra khỏi giường. Tôi hết đỗi
kinh ngạc.
Dòng đầu như thế này: “Buổi sáng khi thức dậy, Gregor Samsa thấy mình ở
trên
giường biến thành một con bọ khổng lồ….”. Khi đọc nó, tôi ngẫm nghĩ với
mình, rằng,
tôi chưa từng biết có một người nào được phép viết những điều như vậy.
Nếu biết,
tôi đã khởi sự viết tự thuở nào rồi. Thế là, liền tức thì, tôi bắt đầu
viết
truyện ngắn.
Tuy
nhiên, truyện ngắn của ông, khác hẳn của Kafka. Có cái kỳ quặc, nhưng 1
bên, ra
cái mà người ta gọi là hiện thực huyền ảo, GG dựa vào nó, để nói về hiện thực “thực” của xứ Mỹ Châu La
Tinh của ông, như Rushdie nhận xét:
Chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo là một khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu
thực; một
chủ nghĩa siêu thực diễn tả lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba,
tức là của
những xã hội được tạo thành chỉ có “một nửa”; trong đó, cái cũ có vẻ
như không
thực chống lại cái mới làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối
nát công cộng
của đám cầm quyền và nỗi khiếp sợ riêng tư của từng người dân, tất cả
đều trở
thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez, những
điều vô
lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay giữa ban
ngày ban
mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông là một hệ
thống bịa
đặt, khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác mà chính là
mảnh đất
chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó là tính nhiệm mầu của ông,";
còn
một bên, ra cơn ác mộng toàn trị.
Quá nữa, ra phận người, ra "lưu đày và quê nhà...."
Khác hẳn nhau, làm sao quàng vào nhau
được.
Munro
thường được giới phê bình coi như là đệ tử của Chekhov, nhưng với Gấu,
khó mà
coi Munro là đệ tử của Chekhov, so với 1 em Tẫu như Yiyun Li được.
Cũng
khốn nạn vì Cái Ác Á Châu, như Chekhov, và, hơn thế nữa, Cái Đại Ác CS.
Nobel văn chương 2013