|
Nobel
văn chương 2013
Đỉnh Cao Chói
Lọi. DTH: Nobel văn chương?
Ceux qui ne tirent
pas les
leçons du passé sont condamnés à le revivre.
Kẻ nào không rút ra được những bài học quá khứ, kẻ đó bị kết án phải
sống
lại nó.
Hannah
Arendt.
Note: Bài viết này,
của GCC, đọc thú quá!
Hà, hà!
Văn
chương Mít
sở dĩ không hấp dẫn thế giới, chính là vì nó là thứ văn chương “tam, tứ
vô”: vô
ích, vô hại, vô học, vô dụng…
Nó là thứ văn chương không “tham dự lớn vào bản
khế ước xã hội”, như Le Clézio phán. Thứ văn chương "không dám sống thế
nào thì không dám viết thế đó"!
Ngay
cả thứ văn học dịch ở trong nước, nở rộ, vì là nhu cầu tất yếu
của một xã hội bị bưng bít đủ mọi đường, cố tìm cách vươn ra ngoài, y
chang như
Gấu khi ra được ngoài này, khi làm trang Tin Văn, khi xin xỏ được viết
cho Sến
cô nương.
Nhưng
hãy thử nhìn xem, văn học dịch ở trong nước ra
làm sao. Cũng toàn
thứ vô hại, vô dụng… Ngay cả với những tác giả nguy hại, thì cũng bị lũ
thợ dịch
hoặc tự ý kiểm duyệt, hoặc cơ quan kiểm duyệt thiến sạch những đoạn
‘nhạy cảm’!
Đến
Brodsky, khi được ông thợ dịch lừng danh "Butor Mít"
giới thiệu với độc giả Mít, thì cũng biến thành dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy,
nữa là!
Bởi thế mà mấy em trong nước, có em đã từng phàn nàn với bà chị Sến,
sao đọc văn dịch thấy dở quá, chúng em viết còn hay hơn nhiều!
Gấu
nhớ, hình như là Fuentes có phán một câu nghe thật khoái lỗ nhĩ, về
tiểu thuyết, và tiểu thuyết gia, đại khái như vầy, có những tác giả
thời nào cũng đọc được, thí dụ Proust, có những tác giả, mà thời đó
không có ông ta là không được, thí dụ Kafka. Giả như không có Kafka,
làm sao chúng ta hiểu được chính chúng ta, chính cái thế kỷ của chúng
ta ?
Và, như chúng ta đã từng biết, Kafka phán, cái thứ văn chương mà chúng
ta cần đọc, nó giống như cái rìu phá băng, phá tảng băng lạnh giá là
cái đầu vô cảm của chúng ta. (1)
Ấy
đấy, thứ văn chương đó, Mít chưa có.
Vả chăng, cái trò mê
văn học vệ quốc của Liên Xô của đám Yankee mũi
tẹt, theo Gấu chỉ là ‘nguỵ tín’, hay nói huỵch toẹt, lập lờ, mượn mầu
‘vỏ lựu, máu chó, mào gà’, ‘đánh lận con đen’, như Tú Bà dậy Kiều!
Ấy
là vì với chúng, làm đếch gì có "vệ quốc", mà là ‘ăn cướp’.
Khốn nạn thế đấy!
Nobel
văn chương 2013
'It's a wonderful thing for the short
story'
This week
Alice Munro will receive the Nobel prize for literature. Lisa
Allardice, who
met Munro in Canada after the publication of her collection The View
from
Castle Rock, asks her about the dividing line between life and
work
Alice Munro
stands on the bank of Lake Huron in Southern Ontario, the setting
for many
of her stories.
Photograph: George Waldman/Polaris/Eyevine
Nobel
văn
chương 2013
V/v Tiếng Mít
quái dị.
Quả là quái
dị thật, nếu đúng như ông kể:
Tôi
nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu
đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét
của một
học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn
phạm tiếng
Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi
buồn rầu bảo,
đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu
hiện như
thế (1)
Bợ
đít VC đến như thế này thì đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy thua xa!
Nghe
[chỉ nghe thôi], một bài diễn văn của một ông Tổng Thống, đọc vào lúc
Miền Nam
sắp sửa mất, Sài Gòn sắp sửa biến thành "biển máu", may quá, giờ phút
chót, biến thành biển nước mắt, biển mặn... vậy mà có người còn chi li
về văn
phạm, và còn suy ra rằng (thì là), "các chính thể đến giờ phút lụi tàn
bao
giờ cũng có những biểu hiện như thế", thì quái đản thật!
Gấu chỉ nhớ
mài mại, xuất hiện trên TV, Tông Tông, đau lòng vì quá tin Mẽo, có
lúc như muốn bật khóc, nói năng lắp bắp, không nhớ có sai văn phạm hay
không!
Mà,
làm sao lại có thứ văn phạm “nói”?
"Boys
And Girls"
Bày Cáo Bạc 1 2
Nguyên tác,
“Trai & Gái”.
Cái tít tiếng
Anh, là có dụng ý của Alice Munro.
Nguyên tác
có trên net.
Và 1 số bài
viết về nội dung truyện.
Gấu sở dĩ tò
mò, là vì một câu văn dịch:
“Khi còn trên
dương thế, bầy cáo bạc cư ngụ trong một cõi riêng mà cha tôi tạo lập
cho chúng”
Alive, the
foxes inhabited a world my father made for them.
GCC dịch:
Khi còn sống,
bày cáo ngụ trong 1 thế giới cha tôi làm cho chúng.
Dịch “còn
trên dương thế”, khiến Gấu bị lầm, tưởng là, “khi ông bố còn sống”!
Ít khi, con
người áp dụng "còn trên dương thế” cho loài vật!
Và đó là ý
nghĩa của truyện ngắn, trong đó, con gái
không ngang hàng với con trai. Và còn không có được cả 1 cái tên riêng
nữa.
Cái tên đứa
con trai, Laird, là cũng có dụng ý.
Alice
Munro’s “Boys and Girls”: Summary & Analysis
Alice
Munro’s short story, “Boys and Girls,” has a very interesting detail
written
into it. The narrator’s brother is named
Laird, which was carefully chosen by the author. Laird is a synonym for lord,
which plays a
important role in a story where a young girl has society’s unwritten
rules
forced upon her. At the time of the
story, society did not consider men and women equal.
The name symbolized how the male child was
superior in the parent’s eyes and in general. Along
with that, the name also symbolizes the
difference between the
sexes when this story took place. The time when this story took place
was a
time when men and women were not equal. Mothers
had traditional roles, which usually left
them in the house,
while men also had their roles, outside of the house.
Tiếng Việt của
tay bác sĩ & thi sĩ & dịch sĩ thật là quái dị! “Alive”, còn
sống, [bày
cáo còn sống, chưa bị người nuôi giết để lấy da], vậy mà dịch là “khi
còn trên
dương thế”!
Lần đấng này
dịch thơ Robert Frost cũng y chang, “Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết
phủ”, ông
ta bèn “chế” thành “dừng chân bên rừng”! Dịch như thế là hỏng mẹ cả bài
thơ, vì những dòng sau đó, con ngựa thắc
mắc…
Dịch đã dở mà
bèn cho đăng ở mấy diễn đàn!
Robert Frost
Stopping by
Woods on a Snowy Evening
Whose woods
these are I think I know.
His house is
in the village, though;
He will not
see me stopping here
To watch his
woods fill up with snow.
My little
horse must think it queer
To stop
without a farmhouse near
Between the
woods and frozen lake
The darkest
evening of the year.
He gives his
harness bells a shake
To ask if
there is some mistake.
The only
other sound's the sweep
Of easy wind
and downy flake.
The woods
are lovely, dark and deep,
But I have
promises to keep,
And miles to
go before I sleep,
And miles to
go before I sleep
Dừng ngựa
bên rừng buổi chiều tuyết rụng
Rừng này của
ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở
trong làng
Làm sao ông
ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết
rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi
chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao
ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng
và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều
hôm cuối năm
Nó bèn khẩy
khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với
chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại
tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió
thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp,
tối, và sâu
Nhưng tôi
còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm
đường phải đi
Trước khi
lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Bản dịch
truyện ngắn của Alice Munro, còn có thể đọc ở đây:
http://bloganhvu.blogspot.ca/
Khi chưa bị
giết để lấy lông, bầy cáo sinh sống trong một thế giới mà cha tôi đã
tạo ra cho
chúng.
Tks. NQT
The Nobel
Prize in Literature 2013
Alberto
Manguel, trong bài viết “Những viên gạch của Babel”, in trong "Thành
phố của những
từ, The City of Words", lập lại câu nói nổi tiếng, của nhà phê bình nổi
tiếng,
Northrop Frey, vấn đề căn cước của Canada thì mắc mớ tới "Đây
là đâu?", "Where is here?", hơn là "Tớ là ai?", "Who am I ?"
Frey kể câu chuyện nhiều người biết, về 1
ông bạn y sĩ,
giang hồ vặt Bắc Cực, với người dẫn đường là 1 thổ dân Inuit, và đụng
bão
tuyết. Trong cái lạnh khủng khiếp, trong cái đêm dày đặc, ông bác sĩ
cảm thấy mình
bị thế giới văn minh bỏ rơi, bèn la lớn,"chúng ta lạc rồi, we are
lost". Anh
thổ dân dẫn đường ngạc nhiên quá, "chúng ta đâu có lạc. Chúng ta ở
đây, we are not lost. We are here".
Có cái “ở
đây”
thần sầu của Xứ Lạnh!
Khi cho
Nobel
‘bà già xứ lạnh’, đám “mafia” da trắng Thuỵ Điển muốn vinh danh "cái ở
đây" đó
nữa, hà hà!
Một bà
già khác,
cũng Xứ Lạnh, nổi tiếng chẳng kém Munro, là Margaret Atwood, phán,
"cái Bắc xoáy nỗi
xốn
xang của chúng tôi, The north focuses our anxieties."
Mô phỏng
Atwood, GCC bèn phán, “Cái Đói, Cái Ác Bắc Kít xoáy vào nỗi đau của Mít
chúng
ta”!
Vẫn bà già Atwood, có lần phán, “Turning to face north, we enter our
own
unconscious. Always, in retrospect, the journey north has the quality
of a
dream”, “Nhìn về phía Bắc, chúng tôi đi vô tiềm thức riêng của chúng
tôi.
Luôn luôn, trong ngoái nhìn lại, cuộc lữ
Bắc có phẩm chất của một giấc mơ".
No, I “can”
U!
GCC đếch có
giấc mơ “từ thuở
mang gươm đi dựng nước” này!
The Nobel
Prize in Literature 2013
Maclenan’s,
trích dẫn Le Monde, gọi Alice
Munro là “nữ hoàng truyện ngắn”, “La Reine de la
nouvelle”.
Chip
McGrath, biên tập New Yorker,
coi Nobel của Munro là "win, win,
win", cho bà, cho Canada, và cho [thể loại] truyện ngắn.
Lukacs viết:
Với một chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và
đương thời
đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung
cấp,
cái gọi là bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người. [With
this
reservation, one can say of contemporary and near-contemporary fiction
that it
often withdraws from the novel into the novella, in its attempt to
provide
proof of man's moral stature…..]
"Không
phát hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. “Một Ngày Trong Đời
Ivan
Denisovich” của Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến trình lại
khám phá
ra cái tôi, cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã
hội chủ
nghĩa." [Lukacs]
Như thế,
Nobel năm nay, là trao cho “man's moral stature”, cho 1 xứ sở không
vướng1 tí bụi
toàn trị, qua thứ truyện ngắn của vị nữ hoàng của nó.
Bài viết của
Lukacs, về truyện ngắn "Một Ngày" của Solzhenitsyn, theo GCC rất quan
trọng, nhất
là đối với trong nước: Ông là tổ sư phê bình Mác Xít mà có lẽ chẳng tên
nào biết
đến cả, thế mới tếu. Trong văn chương thế giới, ông cũng ít được nhắc
tới. GCC
chỉ thấy có hai đấng nhắc tới ông, là Steiner và Octavio Paz. Trong bài
viết về
Solzhenityn của mình, Paz có nhắc tới 1 ông Lukacs, vào lúc chót đời
mới đọc được
Solz, và coi Solz mới đúng là 1 tên "xã hội chủ nghĩa đích thực".
Trong Về những
nhà thơ và những người khác, On poets and
Others, Paz dành hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài Gulag, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước.
Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê cái nhìn của Solz về VN,
bị hạn chế, [theo Paz, Solz phán, cuộc chiến Đông
Dương là mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was
an
imperial conflict, và như thế, Solz không nhìn ra, đây là cuộc chiến
giành độc
lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào chữa giùm cho Solz, quan điểm của
ông [dù hạn
chế. NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm, [Gulag. NQT], như là 1
chứng liệu.
Note: Không
hiểu, giả như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có còn chê
Solz?
GCC sợ rằng,
Solz phán quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa, không chỉ thực
dân cũ [Tẩy],
và mới [Mẽo], mà còn có anh Tẫu nữa.
Làm đếch gì
cái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có cú… ăn
cướp? Toàn đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến
Mít, đọc thú lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp, hà, hà!
GEORG
LUKACS AND HIS DEVIL'S PACT
In
the twentieth century it is not easy for an honest man to be a literary
critic.
There are so many more urgent things to be done. Criticism is an
adjunct....
.... Lukacs has always held himself responsible to history. This has
enabled
him to produce a body of critical and philosophic work intensely
expressive of
the cruel and serious spirit of the age. Whether or not we share
his
beliefs, there can be no doubt that he has given to the minor Muse of
criticism
a notable dignity. His late years of solitude and recurrent danger only
emphasize what I observed the outset: in the twentieth century it is
not easy
for an honest man be a literary critic.
But then, it never was.
G. Steiner: Georg Lukacs và tờ hợp đồng với quỉ của ông
Vào thế kỷ 20 thật khó mà là một phê bình gia.
Và, quả như thế thực!
Chứng cớ: Xứ
Mít! Đếch có phê bình gia. Nếu có, thì đều là thứ dởm, tự xưng,
bịp.
Đó là sự thực.
Một tên điểm sách cũng chẳng có được, nói chi phê bình gia!
*
Hầu hết là
chuyện của những người đàn bà trong những khoảnh khắc quyết định bước
đi này
hay bước đi kia của số phận. Hạnh phúc thì ngắn ngủi và vô định. Bất
hạnh dài gấp
đôi. Song với tất cả sự không khoan nhượng, người kể chuyện lão luyện
Alice
Munro không bỏ mặc người đọc cho bi quan. Tôi vốn rất dè chừng với
cái gọi
là chức năng nâng đỡ tâm hồn của văn chương. Nhưng thuở ấy, sau mỗi
đêm đọc
Alice Munro, sáng dậy hình như tôi đã nhìn cuộc đời đang khá vô định
của mình
điềm tĩnh hơn một chút.
Sến Cô Nương: Viết nhỏ
Văn chương Bắc
Kít, như GCC đã từng chỉ ra, viết được 1 câu, là bèn ngưng, để giải
thích câu vừa
viết, [mà Gấu gạch đít, gạch chân, ở trên để chứng minh], vì chúng chỉ
sợ, hoặc độc giả ngu hơn chúng,
hoặc chê chúng, chưa chi, hơi 1 tí, là đã... vãi linh hồn!
GCC bỗng nhớ
BHD, chán thế.
Cũng Bắc Kít,
chắc thế.
Một lần GCC đi
coi phim, Mẹ, một phim Nhật. Có cái tít
phụ, Nước Mắt Chảy Xuôi. Khóc mùi mẫn.
Về khoe với BHD, phim hay quá, anh coi, nước mắt nước mũi ròng ròng.
Em ngạc nhiên
quá.
Phim đó mà cũng
đi coi.
Mà còn vãi
nuớc mắt nữa chứ!
Ui chao, phải
đến khi em đi xa, thật xa rồi, thì Gấu mới hiểu.
Em rất đau lòng, về cái chuyện bố mẹ
em sinh em ra đời, chỉ để mong sau này, em học thành bác sĩ, để làm ra
tiền, để trả
nợ bố mẹ.
*
SHORT
STORIES
Dear Life by Alice Munro (Chatto,
hardback,
out now). Hiding her craftsmanship under an easy, conversational style,
Alice
Munro uses the first ten stories in this collection to revisit
small-town
Ontario, and to reveal just how surreal real life can be. Every word
pulls its
weight (a wallflower at a party feels that everyone else is
"equipped" with friends) as Munro homes in on the things that throw
lives off kilter: the nuance of character that, slowly but surely,
derails a
marriage; the despair that drives a nine-year-old to suicide. She saves
the
best till last, closing with a quartet of stories that are, she says,
the
closest she will ever come to memoir. "The Eye", in which Munro’s
capricious mother makes her visit the corpse of a nanny to whom she has
become
traitorously attached, is a gem.
Maggie
Fergusson
Intel Life
Cái lời em
xin lỗi Gấu khi bỏ đi mới kín đáo, mới thê lương, biết là chừng nào.
GCC đã kể ra
vài lần rồi.
Lần đó, biết
được số điện thoại của em [không nhớ làm sao biết], đúng thời gian Sài
Gòn đảo
chính lên, đảo chính xuống. Bèn nhờ 1 nữ điện thoại viên cùng làm việc
tại Đài
Liên Lạc VTD thoại quốc tế, gọi dùm sau khi đã căn dặn đủ chuyện, vì
biết, ông
bố sẽ cầm lên điện thoại và sẽ vặn vẹo đủ thứ…
Gấu sự thực
cũng chẳng tính hỏi han làm gì [lại bắt chước Sến đi 1 đuờng giải
thích], nhưng
bất thình lình, bỗng hỏi thăm, “boyfriend” thế nào, OK không. Em nói,
anh ta được
lắm. Ngưng 1 chút, em kể, mỗi lần Sài Gòn rục rịch, là anh ta khệ nệ
vác một, hai bao gạo, tới nhà cho ông bà bà bô….
Ngưng một lúc
thật lâu, em nói tiếp:
Gấu không làm
được chuyện đó đâu.
Chekhov vốn
không viết được truyện dài, và giải thích cho sự không thể viết của
mình:
"Chỉ những nhà văn thuộc nòi phong nhã [issu de la noblesse] mới biết
viết
tiểu thuyết. Còn chúng ta, thuộc thứ tiểu-trưởng giả, tiểu thuyết vượt
quá sức
chúng ta."
[Roger Grenier, Hãy nhìn tuyết rơi
(những ấn tượng về Chekhov), nhà xb
Gallimard, tủ sách Folio, 1992]
The Nobel
Prize in Literature 2013
The Nobel
Prize in Literature 2013
Mon amour
pour Tchekhov, je l'avoue, a souvent été tourmenté par la jalousie.
Tình yêu của
tôi đối với Tchekhov, tôi phải thú nhận, luôn quằn quại thương đau, vì
ghen
tuông.
Italo
Calvino.
Người xưng tụng
Chekhov bảnh nhất, tới nhất, theo GCC, là Amoz Oz, khi ông đọc song
song "Cây vĩ cầm
của Rothschild", của Chekhov,
và "Y Sĩ Đồng
Quê", của
Kafka.
Chekhov: Đường vào vĩnh cửu
La
petitesse de l'homme chez Anton Tchekhov
GCC đọc Oz,
thì mới vỡ ra cái truyện “Y Sĩ Đồng Quê” của Kafka, đọc từ hồi còn Xề
Gòn.
Và khi đọc DTH, bà kể, ngồi khóc ở hè đường Xề Gòn ngày 30 Tháng
Tư..., thì gặp lại viên y sĩ của Kafka: "Dupé!
Je suis dupé!" (Bị lừa! Tôi bị lừa!).
Chekhov vs Kafka
Bạn đọc Y Sĩ Đồng Quê, và tưởng
tượng ra rằng thì là, đây chính là linh
hồn của
một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận
miền
nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có
ngựa, nên
phải mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy
sinh cô
hầu gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời
la lớn:
Ta bị lừa, bị lừa, bị lừa!
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất,
với
cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc
lõng"
("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an
earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của
một vua
Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp
của mình
ở trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của
cô con
dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !
*
Đó là một thành phố nhỏ,
thê thảm còn hơn cả một làng quê.
Toàn những người già, họa hoằn lắm mới chịu nằm xuống, thế mới bực! Hơn
nữa, ít
khi người ta cần tới quan tài, dù là ở nhà thương, hay ở nhà tù. Nói
ngắn gọn,
chẳng làm sao buôn bán làm ăn ở đây. Nếu Yakov Ivanov làm nghề đóng hòm
ở một
chốn thị tứ, chắc là ông đã có được một căn nhà, và được gọi là Ông
Ivanov.
Nhưng ở cái chốn tệ mạt này, giản dị chỉ là Yakov. Vì một lý do nào đó,
ngoài
đường họ gọi ông bằng biệt hiệu Đồng. Ông sống nghèo khổ như bất cứ một
người
dân quê bình thường trong một túp lều, cùng với bà vợ Marfa, một cái
bếp, cái
giường, mấy cái hòm...
.... Viên cảnh sát địa
phương bịnh dầm dề hai năm ròng, và
đang chờ đi luôn. Yakov nóng ruột, đợi hoài đợi hủy chuyến tầu suốt của
ông
này. Nhưng viên cảnh sát dời lên thành phố chính để chữa trị, và chắc
là phó
thác linh hồn cho quỉ ma ở đó... thế là mất toi ít nhất 10 rúp, bởi vì
đây là
thứ hòm đắt tiền. Cứ đêm đêm Yakov lại bị nỗi mất mát lớn lao hành hạ.
Ông để
cây vĩ cầm kế bên giường và những lúc không thể chịu đựng nổi cơn dầy
vò, ông
mân mê mấy sợi dây. Cây vĩ cầm "tinh, tinh" trong đêm tối, và ông ta
cảm thấy đỡ đi.
Cái buồn dìu dịu, cái diễu
ấm áp, nhân hậu, tha thứ... thật
không ăn khớp gì với cách chọn lọc thật lạnh lùng những chi tiết, cách
nhìn
thiên nhiên như một ông y sĩ giải phẫu, cách đo đạc thật chi ly khoảng
cách
giữa nhân vật và sự thực.
Những nhân vật thường
chẳng để ý, hoặc chẳng thừa nhận chân
lý, sự thực, nhưng độc giả được mời nhận ra nó, giữa những dòng chữ. Ở
đây cũng
như ở trong những chuyện khác, Chekhov tạo một sự cân bằng thật chính
xác, như
một nhà hóa học cân đo đong đếm, giữa dị hợm (ridiculous) và nỗi đau xé
ruột xé
gan. Khế ước là sự đồng cảm, giữa người đọc và người kể, qua những con
chữ.
Thường xuyên người đọc phải nhận ra bằng cách đảo ngược. Thí dụ như
những câu
mở đầu: nỗi khóc than ca cẩm, về chuyện "hiếm" người chết ở trong
làng, về chuyện người già "họa hoằn mới chết và chuyện này thật là
bực".
Khế ước là từ người kể chuyện, không phải từ nhân vật, nhưng người đọc
nhận ra,
sau khi đã hết ngỡ ngàng, đây chính là lời than van của người làm hòm,
do công
việc ế ẩm. Cũng vậy, "Marfa, cái bếp, mấy cái hòm...", người để kế
bên vật; ở đây độc giả biết, người kể đã trộn giọng nói của mình với
giọng của
"Đồng không tim".
Đồng ngần ngại làm hòm cho
con nít, "mất thì giờ vì
chuyện không đâu", chi tiết này, ngay ở đầu truyện, cho thấy đây là một
con người biển lận. Nhưng tới nửa truyện, người đọc biết, Đồng cố xóa
khỏi trí
nhớ, và cuộc đời, cái chết của bé gái độc nhất của hai vợ chồng, 50 năm
trước.
Chỉ sau khi bà vợ chết, độc giả mới hiểu, Đồng cố làm cho trái tim của
ông trơ
ra, để cho ông đỡ đau.
Khế ước khởi đầu làm độc
giả lầm lạc, bởi vì người kể đã sử
dụng thoải mái quan điểm, và luôn cả ngôn từ của người làm hòm già. Làm
như
vậy, người kể bắt buộc người đọc làm một công việc "chuyển dịch" cẩn
trọng: "biển lận" còn là mật mã, để chỉ nỗi cô đơn sâu thẳm. Ngần
ngại làm hòm cho con nít là để giấu nỗi đau mất con. Tiếng đàn "tinh
tinh'
trong đêm theo điệu sáo của Rothschild, là để chống banh ra những vết
thương.
Dần dà theo dòng truyện, người đọc nhận ra, những mất mát lớn lao
Bronze than
van, là về đời người phí phạm, bỏ đi, về nỗi vô thường của vô thường
(vanity of
vanities), tức phận người.
Cốt truyện giản đơn, chỉ
một tí, một tẹo: chuyện một người
làm hòm tại một làng quê cố gắng để đừng bị chết đói, lâu lâu làm thêm:
chơi vĩ
cầm cho đám cưới mạt. Ông thật thảm, thật tã, và cứ thế gầm gừ, với cả
đời sống
và cái chết, bằng một trái tim cố tìm đủ mọi cách để đanh lại; ngày này
qua
ngày khác: chỉ là triền miên mất mát thu nhập.
Ngã bịnh, vui ngấm vui ngầm: bà vợ chấp nhận cái chết sau cùng tới -
như một
giải thoát hằng mong đợi, để ra khỏi giếng nước mắt. Thấy vợ vui, người
chồng
đau lòng vì suốt đời đối sử chai đá. Ông kéo bà vợ bịnh tới nhà người y
sĩ độc
nhất trong làng và lạy lục - đúng ra là mà cả - hãy cứu vợ tôi. Nhưng
viên y sĩ
già nhẫn tâm lắc đầu, quay qua bịnh nhân khác. Hai vợ chồng về nhà, và
người
chồng bắt đầu đo hòm cho vợ: ông đưa thất thu vào trong cuốn sổ cái.
Trong
những giờ cuối cùng, bà vợ cố nhắc nhở ông chồng về đứa con đã mất,
nhưng ông
chẳng thể nhớ. Sau đám tang, ông cũng ngã bịnh, và hung hãn gây gổ với
người
thổi sáo Do-thái tới trò chuyện với ông. Ông lang thang ra bờ sông, bị
những
đứa trẻ ngoài đường trêu ghẹo. Ông di chúc cây vĩ cầm cho Rothschild.
Sau khi
ông chết, Rothschild sáng tác những giai điệu buồn từ cây vĩ cầm này.
Bốn nỗi thất vọng, lạc
đường ở tên truyện (Rothschild không
phải là vị hầu tước; Rothschild không phải là người chơi vĩ cầm;
Rothschild
không phải là nhân vật trong truyện; cây vĩ cầm không phải của ông),
sau cùng
trở thành đúng, một cách không chờ đợi, ở cuối truyện. Rothschild được
thừa
hưởng cây vĩ cầm trở thành giầu có; ông không còn là một người thổi sáo
mà là
người chơi vĩ cầm, "gieo nhạc buồn của Bronze đi khắp chốn".
Người đọc lúc đầu đã tưởng rằng những sự kiện ở tên truyện là sai, sau
mới nhận
ra giá trị của chúng.
Có một nối kết thật tinh
tế giữa những người Do-thái và âm
nhạc, giữa âm nhạc và tâm hồn (linh hồn). "Rothschild's Fiddle" gợi
nhớ những câu chuyện kể Hassidic (1), và nhân vật Bronze thuộc huyền
thoại về
một con người công chính tiềm ẩn (the myth of the hidden just man), của
dân tộc
Do-thái.
Độc giả phải chuyển hai
lần, những lời ca cẩm, than van
"thất thu" của Bronze: một chuyển hài, và một chuyển bi. Trong chuyển
bi, có những "thất thu không thực hiện" cũng được đưa vào cuốn sổ
cái:
Sau chót, đây là con sông
thực, không chỉ là một con suối
nhỏ. Bạn có thể tới đó câu, rồi bán cá cho những người mua, những viên
thư ký,
và người coi ga, và để tiền vào sổ. Bạn có thể theo thuyền đi dọc con
sông, ghé
những nhà hàng quán nước chơi vĩ cầm, và đủ thứ người sẽ trả tiền cho
bạn. Bạn
có thể lại có một công việc làm ăn trên sông nước, khá hơn nghề làm
hòm. Bạn có
thể nuôi ngan ngỗng, giết chúng và đưa đi Moscow làm thực phẩm mùa
đông. Có thể
chỉ tiền cọc không thôi cũng tới 10 rúp một năm. Ôi đau đớn làm sao,
ông ta cứ
để cho nước chẩy qua cầu, mà chẳng chịu động đậy chân tay. Ôi, bao
nhiêu tiền
bạc đã theo dòng nước trôi đi! Nếu bạn cứ cộng mãi vào - câu cá này,
chơi vĩ
cầm này, giữ tầu thuyền, giết ngỗng - ông ta đã làm ra biết bao nhiêu
là tiền!
"Chuyển bi" là đổi mới lớn
lao của Chekhov, cả
trong truyện và kịch: gỡ bỏ cái hàng rào thủ cựu giữa hài kịch và bi
kịch, cho
về vườn (canceling) cái qui ước ngặt nghèo: rằng những nhân vật "hạ
tiện" (Chí Phèo?), cục cằn, vô học, bắt buộc thuộc về cõi hài (comic
realm), trong khi không gian bi là để dành riêng cho những con người
phong nhã.
Chỉ những kẻ phong nhã, những kẻ được soi sáng, là có thể đưa nạng
chống trời,
có quyền vác thánh giá, chống lại những biển sầu, đại dương nước mắt,
chống lại
những trục trặc của thế gian, rồi từ đó, đưa ra một kết luận cảm thông,
có thể
hiểu được, về số mệnh, phận người, cõi nhân sinh phi lý, hay là cái
phần dơ dáy
giấu sâu trong nhân vật, chính vì nó mà họ bị kết án phải đọa đầy.
Yakov Ivanov, biệt hiệu
Bronze, vào lúc hấp hối đã vươn tới
đỉnh cao của cảm nhận bi. Bằng con đường ngu si đần độn, qua - hoặc quá
- cuộc
đời vô nghĩa của riêng ông, ông đã loáng thoáng nhìn ra phận người:
Đời cứ thế trôi, không lợi
nhuận, không lạc thú, nó cứ thế
qua đi, chẳng nhắm tới đâu, chẳng vì mục đích gì. Chẳng có gì để nhìn
tới, và
nếu bạn ngoảnh lại, chỉ là một phí phạm khủng khiếp tiền bạc, đủ để cho
bạn làm
một cuộc đổi đời tốt đẹp, mầu mỡ. Làm sao con người có thể sống mà
không có tổn
thất, phí phạm?.... Ông kết luận chỉ có thể có lời bằng cách chết: sẽ
không
phải ăn, không uống, không đóng thuế, không sỉ nhục người khác. Kể từ
khi một
người nằm trong mồ, không chỉ một năm mà hàng trăm, hàng ngàn năm, lợi
nhuận
thật bao la, vô cùng... Kết luận như vậy là đúng, lẽ dĩ nhiên, nhưng eo
ôi,
thật không thể chịu nổi. Tại sao chuyện đời lại được sắp xếp một cách
kỳ quặc
như vậy, một khi bạn chỉ có một đời để sống, và không có gì để phô ra,
cho đời?
Khúc độc thoại thê lương
không thoát ra từ cửa miệng một
người hùng (nhân vật, a hero, so với nhân vật, a character mà tác giả,
Amos Oz
dùng để chỉ Bronze), hay một hoàng tử-triết gia, nhưng từ cửa miệng một
người
nhà quê vô học, thiển cận, biển lận, đã chiếu một tia sáng khác lạ cho
phần đầu
câu chuyện. Cái biển lận, tham lam, sự tầm thường ti tiện không chỉ
được coi
như là cái vỏ sò mỏng mảnh mà người đọc cứ lột bỏ đi là vớ được viên
kim cương,
hột xoàn ở bên trong: Tham lam, biển lận, ti tiện, tầm phào, cái vỏ,
hột xoàn,
tất cả "là một và chỉ một mà thôi". Với Chekhov, ở đây, Bronze là
Hoàng tử Hamlet. Nỗi đau thê lương, ý thức bi đát, và công cuộc vác
nạng chống
trời, chống lại cái trật tự thế gian, là từ đáy sâu của câu chuyện bật
ra.
Sau cùng, ở đâu, và bằng
cách nào Chekhov gieo những giác ngộ
vô ngôn này (unspoken understandings), giữa người viết và người đọc, ở
đằng sau
lưng nhân vật?
Biết đâu đấy, chúng ta có thể nghe thấy chúng, qua những
dạ khúc
của người làm hòm, khi, cố dỗ giấc ngủ trên chiếc giường đời trơ trọi,
ông ta
đưa tay với cây vĩ cầm. Vào những giây phút như thế, Bronze biến thành
cả hai:
Saul (2), khật khừ với quỉ dữ; và David (3), người "sẽ chạm vào những
sợi
dây, cây vĩ cầm lại tinh tinh trong đêm tối, và như vậy ông ta sẽ đỡ
hơn"
(... David, who "would touch the strings, the fiddle would twang in the
dark and he would feel better").
*
Tham lam, biển
lận, ti tiện, tầm phào, cái vỏ, hột xoàn, tất cả "là một và chỉ một mà
thôi". Với Chekhov, ở đây, Bronze là Hoàng tử Hamlet.
Calvino
Italo cũng nhận ra như trên khi viết về Chekhov:
Dans la
nouvelle La Fille d'Albion,
qui date de 1885, nous trouvons déjà Tchekhov à son
plus haut degré, et le métal dont il forge ses contrastes comiques ou
dramatiques : la dignité de l'homme. Dans des nouvelles comme celle-ci,
ou
comme La Choriste (1886),
plus il fouaille ses petits humains, plus il en
découvre les égoismes, les faussetés et les mesquineries sous le masque
de leur
fausse « dignité », plus se révèle à nous quelque chose qui résiste à
la
dégradation, quelque chose de supérieur à la bassesse générale, une
qualité
impalpable que nous devons recommencer à appeler dignité humaine, une
dignité
tout à fait opposée à celle, hypocrite et formelle, des moeurs
bourgeoises.
Mais Tchekhov atteint ses meilleurs résultats lorsque la découverte de
la fausse
dignité et les retrouvailles avec la vraie ont lieu chez le même
personnage ;
lorsque le couteau qui ouvre l'abcès touche la chair vive. Et l'on voit
apparaitre alors la « pitié » de Tchekhov, toujours d'autant plus
présente qu'il
est « sans pitié » : voilà que, après avoir découvert sous le
personnage le
petit-bourgeois - sa mesquinerie et son horreur historique -, sous le
petit-bourgeois, il découvre l 'homme.
Gấu càng mổ
xẻ Bắc Kít, càng tìm ra những nét nhơ bửn, ti tiện, Cái Ác Bắc Kít!
Nhưng cố kiếm
thêm tí nữa, ngoáy mãi vào cái vết thương đã mưng mủ, từ những ngày 30
Tháng Tư, chẳng bao giờ thành sẹo, tới phần thịt còn tươi, thì Gấu lại
khám phá ra... con người!
Hà, hà!
Giải Nobel năm
nay, trao cho truyện ngắn - thứ truyện ngắn, như của Alice Munro,
"thuần văn chương", "bậc thầy của truyện ngắn", vượt ra khỏi những mắc
mớ có
tính thời sự, thời đại, (năm ngoái cho Mặc Ngôn đã bị chửi; năm nay,
giả thử cho Oz, làm sao
khối Ả Rập bỏ qua; cho Murakami, Tẫu chửi… ) - một cách nào đó, rơi
đúng
vào thời
kỳ “No longer & Not yet", mà Lukacs chỉ ra, khi viết về Một Ngày của
Solzhnitsyn.
Hannah
Arendt cũng đã dùng thuật ngữ này, khi đọc The Death
of Virgil của
Herman Broch.
"No longer & Not yet"
Hannah Arendt sử dụng
cặp từ "No Longer/Not Yet", để giải thích hố thẳm giữa Proust và Kafka.
Nếu áp dụng cái nhìn
của bà vào trường hợp nhóm Sáng Tạo,
và cú đả phá văn chương tiền chiến
của họ, xem ra có thể giải thích câu hỏi Võ Phiến đặt ra, trong Tổng
Quan Văn Học.
*
Hannah Arendt mở ra bài viết No
Longer and Not Yet, điểm
cuốn The Death of Virgil của
Herman Broch, trong tập tiểu
luận Essays in Understanding, bằng
nhận xét của Hume, trọn văn minh nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một thế hệ
thì không lui khỏi sàn diễn liền lập tức và một thế hệ khác kế tiếp nó,
như trường hợp tằm và bướm’. Ở vài điểm ngoặt lịch sử, ở vài đỉnh cao
của khủng hoảng, một số phận tương tự như tằm và bướm giáng xuống một
thế hệ: thế hệ già suy tàn, thế hệ mới không bắt buộc phải sinh ra tiếp
theo liền; giữa những thế hệ,
giữa những con người vì lý do này hay lý do khác, vẫn thuộc về thế hệ
già, và những người hoặc cảm thấy cơn thảm họa ở trong xương trong hồn
trong tuỷ, hay là đã trưởng thành cùng với nó, sợi ‘sên’ bị gẫy, và một
“lỗ hổng, khoảng trống”, một thứ khoảng đất không người lịch sử xuất
hiện, và chỉ có thể diễn tả bằng thuật ngữ “không còn nữa, và chưa xẩy
ra nhưng sẽ có” [For the decline of the old, and the birth of
the new, is not necessarily an affair of continuity; between the
generations, between those who for some reason or other still belong to
the old and those who either feel the catastrophe in their very bones
or have already grown up with it, the chain is broken and an "empty
space," a kind of historical no man's land, comes to the surface which
can be described only in terms of "no longer and not yet."]
Đoạn Gấu gạch đít
trên, giải thích thái độ của nhóm Sáng Tạo khi đả phá văn học tiền
chiến, thế hệ già.
Đây cũng là thái độ của PTH, khi nói về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm: Sợi sên nối
tiếp giữa họ bị gãy, và một lỗ hổng lịch sử xuất hiện.
*
Tại Âu châu, một đứt
đoạn tuyệt đối của liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế Chiến.
Những ‘lèm bèm’ của đám trí thức về một thoái trào cần thiết của văn
minh Tây phương hay "thế hệ bỏ đi" nổi tiếng, như nó thường được thốt
ra bởi đám “phản động”, thì, nền tảng sự thực của nó là ở đứt đoạn này,
và đem đến hậu quả hấp dẫn hơn, so với thứ đầu óc ‘tự do', khi đám này
bầy ra trước chúng ta một giải pháp, hoặc tiên phong hoặc giật lùi, một
giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi vì nó vẫn giả dụ sợi sên liên
tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc Hannah
Arendt, thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm sao mà đám Sáng Tạo,
bằng mọi cách, ‘đả phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền chiến: Họ nhìn
ra cái sợi sên bị đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Khoanh
vùng vào văn chương Âu châu mà nói, cái hố thẳm mở ra một không gian
trống và thời gian rỗng này, nhìn rõ nhất là ở sự lệch pha, không đồng
điệu, giữa hai ông khổng lồ, hai vị sư phụ vĩ đại nhất của thời đại
chúng ta, đó là Marcel Proust và Franz Kafka. Proust là lời giã từ cuối
cùng, đẹp như mơ, gửi tới thế giới của thế kỷ 19, và khi chúng ta trở
lại với tác phẩm của ông, viết trong âm điệu "no longer", "không còn
nữa”, ["than ôi, hoa rụng bên kia sông mất rồi, hết rồi, hết rồi, em ơi
chiều nay cơn mộng tan rồi”, "ố là là", hết Loan, hết Dũng, hết "Đôi
Bạn" mất rồi…], và thế là cái tâm trạng não nề [‘từ lúc đưa em về là
biết xa ngàn trùng’] khiến chúng ta vãi lệ chứa chan!
Kafka,
về một mặt khác, là người đương thời với chúng ta, chỉ tới một giới
hạn. Sự tình như thể, ông viết từ một điểm thuận tiện cho ông, nghĩa
là, từ một tương lai xa xa, như thể, ông chỉ có thể ‘ở nhà’ trong một
thế giới ‘not yet’, "chưa có nhưng sẽ có". Godot sẽ tới, nhưng chiều
nay, thì chưa! Điều này đẩy chúng ta vào một cái vị thế xa xa, bất cứ
khi nào chúng ta đọc, và bàn về tác phẩm của ông, một khoảng cách chẳng
bao giờ trở nên nhỏ lại, mặc dù chúng ta biết nghệ thuật của ông thì là
biểu hiện của một thế giới tương lai nào đó, cũng là thế giới của chúng
ta – giả như chúng ta có được tương lai!
Nếu
Nhất Linh, ông Trùm tiền chiến, đóng vai Proust, thì Kafka Mít, là
Thanh Tâm Tuyền!
Cái hố
thẳm giữa họ, được cuộc chiến khốn kiếp làm đầy.
*
Tất cả những nhà văn
và thi sĩ lớn khác của Âu Châu tìm thấy chỗ, và những chuẩn mức đo
lường của họ ở đâu đó giữa hai vị thầy đã mất này. Nhưng sách của
Hermann Broch rớt vào một phạm trù khác hẳn so với số còn lại. Ông có
chung, với Proust giọng độc thoại nội tâm, và với Kafka sự chối bỏ hoàn
toàn và triệt để, điều mua vui, giải trí, cũng như sự bận bịu với cái
siêu hình. Ông chia sẻ với Proust một sự yêu mến quá đỗi, thật là thâm
sâu, với cõi đời, như là nó được trao cho chúng ta; và ông chia sẻ với
Kafka, niềm tin tưởng, rằng, “người hùng” của tiểu thuyết thì hết còn
là một nhân vật với một số phẩm chất được định nghĩa tới nơi tới chốn,
mà chỉ là “một con người như thế đó” (bởi vì đối với cuộc đời thực của
một con người và nhà thơ, Virgil chỉ là một cơ hội cho những dự đoán
triết học của Broch) - tất cả thì đều thực, và những lịch sử của văn
học sau này có thể sẽ nói ra điều này.
Điều quan trọng hơn – ít ra vào lúc này, là, tác phẩm của Broch – qua
những đề tài mà nó quan tâm, qua trọn tính uyên nguyên, qua giọng rất
đỗi thơ tuyệt vời của nó – có một điều gì giống như một đường dây dẫn
bị thiếu, mất, giữa Proust và Kafka, giữa một quá khứ mà chúng ta đã
mất và không thể nào lấy lại được và một tương lai chưa ở trong tay.
Nói một cách khác, cuốn sách, tự thân nó, thì giống như một cây cầu mà
Virgil cố gắng băng qua hố thẳm của quãng không giữa “không còn nữa” và
“chưa nhưng sẽ có”. Và kể từ khi mà cái hố thẳm này thì thực, rất đỗi
thực, kể từ khi mỗi năm nó lại mỗi sâu thêm, đáng sợ thêm, kể từ năm
định mệnh 1914 trở đi, cho tới khi những cơ xưởng của Thần Chết được
dựng lên ở ngay trái tim của Âu Châu, cắt đứt luôn sợi dây đã cũ mòn mà
nhờ nó chúng ta còn bám víu được với thực thể hơn hai ngàn năm lịch sử;
và, kể từ khi chúng ta hoàn toàn sống trong “cõi trống rỗng”, đối đầu
với một thực tại mù tịt về ý tưởng truyền thống về thế giới và con
người có thể thắp sáng – quý báu như thể truyền thống này vẫn còn nằm ở
trong tim của chúng ta – chúng ta phải cám ơn sâu xa tác phẩm thi ca
lớn lao cố bám víu thật tuyệt vọng vào đề tài này.
Điều khá kỳ quặc là tác phẩm trước đó của Broch chẳng hề tiên đoán, ông
sẽ ị ra Cái Chết của Virgil. Những
kẻ mộng du, ngoại trừ những phẩm chất của nó, như là một cuốn
tiểu thuyết, chỉ cho thấy một điều là, tác giả của nó thì đầy ứ tài kể
chuyện, xuyên suốt tác phẩm, ông tỏ ra nôn nóng với tác phẩm của riêng
mình: ông nói với độc giả của mình, tốt nhất, hãy cố mà tìm cho ra kết
cục của câu chuyện, đừng trông mong ở nơi ông; ông lơ là nhân vật, tình
tiết và chỉ xoắn mãi vào những ức đoán dài dòng về bản chất của lịch
sử. Cho tới một thời điểm nào đó, Broch quả là một tay kể chuyện tốt,
chịu chơi, biết chọc cười, làm độc giả vui, nhưng không phải là một thi
sĩ lớn.
Cái biến động làm cho Broch thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với màn
cuối u tối của Âu Châu. Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch
thức giấc…
Ui
chao, đọc đoạn trên đây, làm sao không nghĩ đến ông anh nhà thơ cho
được! Ông tỉnh giấc, trở thành nhà thơ, đúng vào màn cuối u tối của
miền đất ông ra đời, rời bỏ nó, đúng lúc đêm đen chụp xuống, 1954.
Biến
động làm Broch thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với giai đoạn u tối
sau cùng của Âu Châu. Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch
thức dậy. Ông tỉnh giấc trước thực tại khiến ông ngỡ ngàng và thế là
ông lập tức chuyển dịch nó vào trong một giấc mơ, quá xứng hợp với một
người thức giấc trong đêm. Giấc mơ này là Cái Chết của Virgil.
Những nhà phê bình phán, cuốn sách được viết bằng một thứ văn xuôi trữ
tình, điều này không hẳn đã đúng. Văn phong, độc nhất, do căng thẳng
dồn nén, rất giống những lời cầu khấn trong những thánh ca Homer, trong
đó Thượng Đế được con người kêu gọi hoài hoài, mỗi lần là mỗi nơi chốn
Thượng Đế cư ngụ, mỗi khung cảnh thần thoại, nơi khấn bái, thờ phụng,
như thể kẻ cầu nguyện phải cảm thấy chắc chắc, tuyệt đối chắc chắn, anh
ta không thể nào quên Thượng Đế. Trong cùng đường hướng như vậy, Broch
cầu khấn Đời sống, hay Cái chết, hay Tình yêu, hay Thời gian, hay Không
gian, như thể ông muốn hoàn toàn chắc chắn, tuyệt đối chắc chắc, ông
không quên một điểm nào. Điều này đem cho cuộc độc
thoại khẩn thiết tình cảm thê thiết của nó và làm bật ra hành động căng
thẳng, tập trung từ dự đoán rất thực […]
Đề tài của cuốn sách của Broch, như cái tít chỉ ra, là 24 giờ chót của
cuộc đời Virgil. Nhưng cái chết thì được coi như không phải là một sự
kiện mà là một thành tựu tối hậu của con người - hoặc theo nghĩa, những
khoảnh khắc hấp hối là cơ may sau cùng và độc nhất để biết đời sống là
cái gì, hay theo nghĩa, đó là thời khắc mà con người phán đoán về chính
cuộc đời của mình, kẻ đang chết đó. Phán đoán này không phải là tự buộc
tội, bởi vì lúc đó đã quá muộn để mà mất thì giờ với một việc như thế,
cũng không phải tự biện minh, bởi vì, nếu như thế, thì việc này lại quá
sớm; đó là cố gắng tối hậu để tìm ra sự thực, lời nói chung quyết của
trọn câu chuyện. Điều này làm cho phán đoán sau cùng là chuyện của con
người, con người tự tính sổ với con người, tránh cho Thượng Đế khỏi
vướng bận vào chuyện tầm phào như thế!
The Nobel
Prize in Literature 2013
Viết nhỏ
Sến Cô Nương
viết về Alice Munro
Tuyệt!
Thú, là Pat
[Patricia Highsmith] 1 tác giả Gấu rất mê, đọc, từ khi còn Xề Gòn.
Có câu văn
này, đọc thật khó hiểu: Hạnh phúc
thì ngắn ngủi và vô định. Bất hạnh dài gấp
đôi.
Làm sao biết,
gấp đôi?
Căng thật!
GCC đọc lại
bài viết về Pat thì mới ngộ ra, tại sao Sến mê Pat!
Tác giả/tác
phẩm ảnh hưởng nặng nề lên Pat [Patricia Highsmith] là Dos/Tội ác và Hình Phạt.
Như… Sến, em gặp ông già rậm râu là mê
liền, năm em 13 tuổi!
Pat còn cuốn
này cũng thú lắm.
Mon amour
pour Tchekhov, je l'avoue, a souvent été tourmenté par la jalousie.
Tình yêu của
tôi đối với Tchekhov, tôi phải thú nhận, luôn quằn quại thương đau, vì
ghen
tuông.
Italo
Calvino.
Người xưng tụng
Chekhov bảnh nhất, tới nhất, theo GCC, là Amoz Oz, khi ông đọc song
song "Cây vĩ cầm
của Rothschild", của Chekhov,
và "Y Sĩ Đồng
Quê", của
Kafka.
Chekhov vs Kafka
Chekhov: Đường vào vĩnh cửu
La
petitesse de l'homme chez Anton Tchekhov
GCC đọc Oz,
thì mới vỡ ra cái truyện “Y Sĩ Đồng Quê” của Kafka, đọc từ hồi còn Xề
Gòn.
Và khi đọc DTH, bà kể, ngồi khóc ở hè đường Xề Gòn ngày 30 Tháng
Tư..., thì gặp lại viên y sĩ của Kafka: "Dupé!
Je suis dupé!" (Bị lừa! Tôi bị lừa!).
Trong
một bài diễn văn đọc năm 1975, Nadine Gordimer, Nobel văn chương, nói
về sức ép
và đòi hỏi đè nặng lên nhà văn da đen Phi Châu, và bà yêu cầu, anh ta
[chữ của
bà], phải giữ cho được tự do của mình, chỉ trong vị trí đó, anh ta mới
dâng hiến
tài năng của mình cho cuộc đấu tranh giải phóng. Và bà dẫn lời
Jean-Paul
Sartre: “Nhà văn một kẻ trung thành với cái bộ khung chính trị xã hội
[faithful
to the political and social body] nhưng không bao giờ ngưng chiến đấu
với nó”.
Và bà chỉ ra, người, suốt đời trung thành với ý tưởng cải tạo xã hội,
tuy nhiên
không ngưng chỉ trích, và chiến đấu, chống lại những đường hướng, chiến
thuật,
của những bạn bè chủ trương tiến bộ, đó là nhà văn Nga, Ivan Turgenev,
và cuốn Cha
và Con, Fathers and Sons [1862]. Khi phải trình ra một mẫu mã nhân
vật, như
Bazarov, một con người trong cái đa dạng, hết sức người của anh ta, in
his
full, all too-human complexity, Turgenev phải đối mặt với sự giận dữ
của đám trẻ
tiến bộ Nga, cho tới lúc đó, vẫn coi ông như là nhà vô địch của họ,
nhưng bây
giờ cảm thấy, bị chính ông đâm sau lưng.
… Đó là dịp
sau, chót, 1975, Gordimer dẫn ra một nhà văn Âu Châu, [da
trắng],
như một mẫu mã cho những nhà văn da đen. Bốn năm sau, bà muốn nhìn lại
hoàn
toàn vị trí của mình, entirely revise her position. Bà nói, ở Nam Phi,
có hai
văn hoá, một trắng, một đen. Đã qua cái thời văn hóa trắng áp đặt lên
văn hóa
đen. “Nghệ sĩ da đen trên sàn diễn như thế đó, là một khuôn mẫu tối
cao. Chỉ
như thế đó, mà tác phẩm của anh mới được đáng giá bởi chính dân tộc của
anh, và
họ, là một uy quyền tối cao, the supreme authority. Cho dù thiện ý của
một nhà
văn da trắng tới mức nào, “điều đưa ra, từ kinh nghiệm của anh ta, the
order of
experience, như là một nhà văn da trắng, khác biệt hoàn toàn với điều
đưa ra từ
kinh nghiệm da đen”. Và như thế, anh ta chẳng thể nào ở trong vị thế
đưa ra sự
cố vấn, hay đề nghị những khuôn mẫu. (1)
Truyện
ngắn của Munro không có cái ác khủng khiếp như trong truyện của YiYun
Li. Trong
"A Thousand years of good prayers", truyện ngắn có tên là "Chuyện
này thì mắc mớ gì tới tôi", thuật câu chuyện, tác giả nói, chuyện
thực, về 1 em giống như em Phương Uyên, viết thư phàn nàn Đảng, Đoàn về
1 điều gì đó, và
bị kết tội phản động, bị đưa đi tù. Ở tù, em vẫn viết thư phàn nàn và
bị án tử.
Đúng thời gian đó, bà vợ anh y tá dạo, thủ tướng VC, bị bịnh gan nặng,
cần 1 lá
gan thay thế. Thế là ngày xử bắn, 1 đội ngũ y tế chờ sẵn, vừa đòm 1
phát, là cắt vội lá
gan đem về trình thủ
tướng VC!
Cái vụ cho
Nobel năm nay, 1 tác giả chuyên viết truyện ngắn, ở 1 cái xứ chưa từng
biết đến
chủ nghĩa toàn trị, cái đói, cái ác của nó, Lò Thiêu, Lò Cải Tạo… xem
ra có cái
gì lấn cấn theo GCC, nếu nhìn theo quan điểm của Lukacs về thể loại
này.
Có vẻ
như Uỷ ban Nobel đang ở trong thời kỳ nằm giữa hai nút chặn, "Not Yet"
và "No
Longer"!
Hà, hà!
Tin Văn sẽ
post liền hai bài viết trong "Ngàn năm Kinh Kệ", "A Thousand
years of good prayers", 1, của David Robinson, "Nếu tôi mò về", "If I
Go Back",
trình bày quan điểm của YiYun Li, để tặng mấy tên nhà văn Mít hải ngoại
bò về,
và 1, là cái truyện ngắn tóm tắt ở trên.
V/v truyện
ngắn. Trên số báo Books mà GCC vừa nhắc
tới, có bài phỏng vấn nhà văn Tẫu Liao Yiwu, "Hãy chia nước Tẫu thành
20 xứ",
có cái truyện ngắn thật tuyệt: Màu của
cái chết, La couleur de la mort, tác giả Pema Tseden, một nhà làm
phim người
Tây Tạng. Khi nhìn thấy màu đó, là người ta biết chắc chắn, 1 người nào
đó, chết!
*
NQT bảo dịch
Other Colors thành "những sắc màu khác". Tôi không đồng í vì
"shade of color" mới là "sắc màu".
Du mục da
vàng
Tình cờ Gấu
khám phá ra trang này, thấy post nhiều bài trên TV.
Tks
NQT
V/v màu sắc
vs màu.
Người Miền Nam thường nói
"sắc màu", hay "màu sắc",
khi nghĩ/dịch từ “color”.
Vả chăng, nếu
dịch sắc màu, thì lại lấy thêm được ý màu [da], và có thể Pamuk cũng có
ý đó,
khi đặt tên cuốn sách.
Một trong những ông thầy của Pamuk, là Faulkner, và
ông
này không cùng màu da với anh Thổ Nhĩ Kỳ, Pamuk.
Vargas Llosa cũng nghĩ như
thế, hẳn thế, khi viết về Faulkner. Ông phán, thằng chả, Yankee mũi lõ,
nhưng
đúng là cùng
màu da, cùng tiếng nói với chúng ta! (1)
(1)
“He wrote in
English, but he was one of our own”.
Vargas
Llosa: Fauklner in Labertino, in
"Making Waves"
Note: Bài
này ngắn. GCC cứ tính dịch, nhưng sức người có hạn, hứa lèo hoài, vả
lại
ham chơi quá, thành ra quơn!
Trong “Tại
sao đọc những nhà văn cổ điển”, Italo Calvino có đi 1 đường về Chekhov,
sư phụ
của những Alice Munro, YiYun Li. Cái tít thú lắm, cõi nhân gian bé tí
của
Chekhov [nhớ đại khái, để coi lại].
Italo
Calvion: Pourquoi lire les classiques
La
petitesse de l'homme chez Anton Tchekhov
Note: Thay
vì viết về Alice Munro, Tin Văn giới thiệu bài viết của Italo Calvino,
về sư phụ
của Bà, Chekhov.
Ở trong bài
viết này, Calvino cũng nói ra cái ý mà GCC “vừa mới phán” [thế mới bảnh
chứ, đâu
có quàng cà chớn một ông Thần Tháp Rùa, với ông “Beckett, Nobel văn
chương- Lại Khám Phá
Ra Kịch"!]: Khó
mà coi Munro là đệ tử của Chekhov, so với 1 em Tẫu như Yiyun Li [cũng
da
vàng mũi tẹt
như Mít, cũng khốn nạn như Mít vì Cái Ác Á Châu,
hơn thế nữa, Cái Đại Ác CS]:
Il existe pour
lui, en Union soviéique, une affection qui touche à la vénération: et,
de ce
petit médecin au regard étincelant et ironique derrière son pince-nez,
ils font presque un prophète
de la société socialiste; alors qu'en Occident il est célèbre
tantôt comme
un père du pessimisme et de l'agnosticisme libéraux, tantôt même comme
un
symboliste mystique.
Ở Liên Bang
Xô Viết, Chekhov được thờ phụng như nhà tiên tri của xã hội chủ nghĩa,
trong khi ở
Tây Phương, chúng coi ông là 1 tên bi quan, hay quá thế nữa, 1 tay biểu
tượng thần
bí!
|
|