*
Notes

1
2

















Đỉnh cao chói lọi


*


Gấu mua cuốn trên, nhân 'chiều một mình xuống phố, âm thầm nhớ nhớ CM', cùng với tờ báo [Books, báo Pháp, nhưng tên báo, tiếng Anh, www.booksmag.fr, trang bìa sau dành cho quảng cáo sách của DTH], chỉ vì một câu khen thật bảnh, và thật lạ về nó, trong bài giới thiệu: "The Moon…" của Cesare Pavese có lẽ là cuốn 'tiểu thuyết Mẽo' chưa từng được viết ra cho đến nay, bằng một thứ tiếng nước ngoài. Đây đúng đề tài bài viết của Nhị Linh, về chuyện đem chuông đi đấm nước người: dịch những tác phẩm Mít ra tiếng nước người, của những tác giả Mít đương đại.
Chúng ta chưa có tác phẩm Mít, 'được viết bằng ngôn ngữ nước ngoài', thực sự là như vậy. Những Nỗi buồn chiến tranh, Đỉnh cao chói lọi.. thì cũng vậy vậy!
Bài giới thiệu cuốn The Moon thật tuyệt. Tác giả Cesare Pavese, sở dĩ viết một cuốn tiểu thuyết Mỹ, bằng tiếng Ý, là vì ông ở Mẽo, và là một chuyên gia dịch tác giả Mẽo, trong đó có Faulkner.
Tờ báo Books, số tháng Năm 2009, là số đặc biệt về tra tấn, chuyện thường ngày ở huyện, không phải ở những xứ sở độc tài, như xứ Mít, nhưng ở 2/3 nhà nước trên thế giới: Tại sao những chế độ dân chủ tra tấn?
*

Thực tại vượt tưởng tượng

"Perhaps", writes Nietzsche in the Genealogie der Moral, "there is nothing more terrible and mysterious in the whole prehistory of mankind than our mnemonic technique. We burn something into the mind so that it will remain in the memory; only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có lẽ không có chi khủng khiếp và bí ẩn hơn, so với kỹ thuật tạo dấu ấn của con người, Netzsche viết trong Genealogie der Moral: Chúng ta đánh dấu trái tim của chúng ta bằng lửa, sao cho, chỉ cái đau được giữ lại, [cái sướng bỏ đi].
... Weiss learned in exile to understand the fate he escaped...... so vital to him, of whether he himself was on the side of the creditors or the debtors. He finds the answer to the question in the course of his own study, as it becomes increasingly clear to him that rulers and ruled, exploiters and exploited, are in fact the same species, so that he, the potential victim, must also range himself with the perpetrators of the crime or at least theirs accomplices.
Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của mình, ở về phía kẻ ăn cướp hay bị ăn cướp. Ông tìm thấy câu hỏi cho câu trả lời theo dòng nghiên cứu của chính ông, và mọi chuyện càng ngày càng trở nên rõ ràng, đối với ông, là, cai trị hay bị trị, bóc lộc hay bị bóc lột, thì cũng rứa, và, bởi vì ông ta sinh ra là có tướng bị ăn đòn rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng cùng với những kẻ tạo ác, hay chí ít, cũng đồng phạm.
*
Yankee mũi tẹt thì vưỡn muôn đời là Yankee mũi tẹt!
Ui chao lại nhớ Bà Trẻ của Gấu: Dòng họ Nguyễn nhà mày không có mả đánh người!
Chuyên 'bị ăn đòn', như vậy, mà vẫn phải xếp hàng cùng với những kẻ tạo ác, những kẻ giơ dao kề cổ đàn bà, con nít, thế mới đau chứ!
*
« La torture est bien montrée comme ayant été efficace ».
En préparant notre dossier « Pourquoi les démocraties torturent » (mai 2009),  j’avais lu l’article consacré par Wikipédia au film La Bataille d’Alger, de Gillo Pontecorvo et Yacef Saadi. On y lit que la torture est « bien montrée comme ayant été efficace ». Un bon exemple de la fragilité de l’entreprise Wikipédia.
Nguồn

“Có lẽ đã đến lúc cần thẳng thắn mà nhìn nhận một sự thật: văn học Việt Nam không mấy hấp dẫn thế giới. Cho dù số lượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài ngày ngày càng tăng và Việt Nam trở thành “thiên đường mua sắm” cho du khách Nhật Bản, thì cũng thật là viển vông khi đặt niềm tin vào một cuộc xuất khẩu ồ ạt văn chương nước nhà hay mơ mộng đến ngày một nhà văn Việt Nam có tên trong danh sách nhận giải Nobel Văn chương.”
CVD: Spect. talawas

Câu này, có một ‘tiểu chú’ như thế này, ở trên blog Nhị Linh:
+ Theo tôi cứ như thế này Dương Thu Hương rất có khả năng được Nobel Văn học. Khi đó thì sẽ như thế nào? Chắc sẽ giống phản ứng của Liên Xô ở trường hợp Pasternak, Trung Quốc ở trường hợp Cao Hành Kiện. Chúng ta cứ đi theo đít mấy con quái vật khổng lồ đó thôi.
Posted by Nhị Linh at 9:20 PM 4 comments

 Bà Dương Thu Hương mà được Nobel Văn học thì báo chí trong nước có đưa tin không nhỉ? Hehehe

*

DTH thuộc đẳng cấp những tiểu thuyết gia lớn yêu dân tộc của bà và những nỗi đau của họ. Bà đan dệt tấm thảm, là cuốn tiểu thuyết của bà, với những sợi dây thời gian, tô điểm nó bằng những mầu sắc của những phong cảnh đã mất, và mầu đỏ của máu, của những người đã hy sinh, thứ mầu đỏ thiên thu của quyền lực và của vinh quang…
Đây là một câu chuyện tình, quyền, và sát nhân…
HCM, hay là định mệnh bi thảm của một con người bằng đá, nhưng chỉ là bằng thịt và máu…
25 ngàn ấn bản đã được bán ra
[Quảng cáo free của Tin Văn]
*
Có một thứ văn Mít hấp dẫn thế giới, nhưng không thuộc dòng chính!
Càng không phải dòng WJC!
*
Vấn nạn này, Gấu đã nhận ra từ khuya, chính vì thế mà khi talawas vừa xuất hiện, là Gấu bèn mặt dầy đưa đơn xin chân bồi bút, cắp rổ theo đàn bà, với bài viết trứ danh "Dịch là cướp", bởi vì theo thiển ý, đã đến lúc "reach out", khuân đồ làng về nhà mình.
Hoá ra không phải, và hiện tượng "khuân" này, có xẩy ra, những không phải hàng văn học, mà là "hàng khác", và thế giới quả có biến thành một bãi đánh hàng, đối với dân Mít!
Phải đến khi nghiền ngẫm văn học Nga, thời "dưới hầm", thì mới ngộ ra: Vấn đề của Mít là "reach in", và một cách nào đó, nó nằm ở trong những bài viết, tác phẩm tạm gọi là "văn chương tự thú", [Vâng quả là chúng tôi có hèn, có nhục, có "ăn cướp", ăn "kít", cái này là NHT nói đấy nhé, cả Tô Hải nữa, khi ông tự coi mình là Câu Tiễn chịu nhục nếm phân... ] với những tác phẩm, thí dụ như của Nguyễn Khải, Tô Hoài, Tô Hải...

Văn chương Mít sở dĩ không hấp dẫn thế giới, chính là vì nó là thứ văn chương “tam, tứ vô”: vô ích, vô hại, vô học, vô dụng…

Nó là thứ văn chương không “tham dự lớn vào bản khế ước xã hội”, như Le Clézio phán. Thứ văn chương "không dám sống thế nào thì không dám viết thế đó"!

Ngay cả thứ văn học dịch ở trong nước, nở rộ, vì là nhu cầu tất yếu của một xã hội bị bưng bít đủ mọi đường, cố tìm cách vươn ra ngoài, y chang như Gấu khi ra được ngoài này, khi làm trang Tin Văn, khi xin xỏ được viết cho Sến cô nương. Nhưng hãy thử nhìn xem, văn học dịch ở trong nước ra làm sao. Cũng toàn thứ vô hại, vô dụng… Ngay cả với những tác giả nguy hại, thì cũng bị lũ thợ dịch hoặc tự ý kiểm duyệt, hoặc cơ quan kiểm duyệt thiến sạch những đoạn ‘nhạy cảm’! Đến Brodsky, khi được ông thợ dịch lừng danh "Butor Mít" giới thiệu với độc giả Mít, thì cũng biến thành dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy, nữa là!

Bởi thế mà mấy em trong nước, có em đã từng phàn nàn với bà chị Sến, sao đọc văn dịch thấy dở quá, chúng em viết còn hay hơn nhiều!
Cái sự vươn ra [‘reach out’], thì như thế, làm sao mà có tác phẩm ẵm Nobel văn chương?

Làm sao chúng ta có được một Nobel văn chương như một Pasternak, một Cao Hành Kiện? Thưa, còn khuya, dù thực tâm thực lòng đi theo voi hít bã mía. Đâu có dễ, cái việc đi theo đít mấy con quái vật khổng lồ, vì có chịu đọc những "quái vật khổng lồ", là Akhmatova, Pasternak, Brodsky, Solzhenitsyn... hay Cao Hành Kiện đâu?

Cái phần "reach in" [với vô], của văn Mít, chính là cái phần văn học Nga chưa từng được đám Yankee mũi tẹt biết đến, trong khi nếu có nhắc đến, thì lại thứ cứt đái vệ quốc, thứ đó thì Việt Nam đâu có thiếu, nào Nê Nựu, nào Anh Hùng Núp, nào Mặt trời chân ní chiếu qua tim?
Trong “reach in”, rất ư là hơi bị thiếu hụt ở trong nước, có cả cái sự không chịu đọc những nhà văn của các nước cựu CS, như Milosz, Manea, thí dụ, hay những nhà văn hậu chiến Đức, như Boll, Grass [Grass dù được dịch, nhưng cũng chưa được đọc, đúng như ông là], hay Christia Wolf, của Đông Đức.
Còn nhiều lắm.
Đọc eVăn mới thấy thê thảm. Toàn là dịch thời sự văn nghệ vô ích, vô hại, hay tin mấy em đào chuyên cởi chuồng… 

Tin Văn như cái tên của nó, toan tính làm cái công chuyện giới thiệu cái phần thiếu hụt nặng nề này, của trong nước.

Gấu nhớ, hình như là Fuentes có phán một câu nghe thật khoái lỗ nhĩ, về tiểu thuyết, và tiểu thuyết gia, đại khái như vầy, có những tác giả thời nào cũng đọc được, thí dụ Proust, có những tác giả, mà thời đó không có ông ta là không được, thí dụ Kafka. Giả như không có Kafka, làm sao chúng ta hiểu được chính chúng ta, chính cái thế kỷ của chúng ta ?
Và, như chúng ta đã từng biết, Kafka phán, cái thứ văn chương mà chúng ta cần đọc, nó giống như cái dìu phá băng, phá tảng băng lạnh giá là cái đầu vô cảm của chúng ta. (1)
Ấy đấy, thứ văn chương đó, Mít chưa có.

Vả chăng, cái trò mê văn học vệ quốc của Liên Xô của đám Yankee mũi tẹt, theo Gấu chỉ là ‘nguỵ tín’, hay nói huỵch toẹt, lập lờ, mượn mầu ‘vỏ lựu, máu chó, mào gà’, ‘đánh lận con đen’, như Tú Bà dậy Kiều!

Ấy là vì với chúng, làm đếch gì có "vệ quốc", mà là ‘ăn cướp’.
Khốn nạn thế đấy!

(1)  "Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta đọc không lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần, chúng đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một người thật thân thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin như vậy." (Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A History of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)
*
Khi điểm tập truyện ngắn Mây Bay Đi của Nguyên Sa, và nhìn ra, đây là một tác phẩm của một nhà văn dễ dãi và hạnh phúc, Gấu chưa đọc Kafka. Và cú đánh quá nặng, vì trúng ngay tim của ông, khiến ông phát khùng lên, và ban cho Gấu cái nick thật là tuyệt vời, tên "sa đích văn nghệ".
Còn nhớ, ngồi với ông anh tại Quán Chùa, nhìn cái mặt nhăn nhó của thằng em, ông an ủi, làm người thì phải có người ghét, người yêu, cứ tròn xoe như hòn bi lăn đâu cũng được, thì nhảm quá. Nhưng ông cảnh cáo, giá mà mày viết về mấy thằng bạn văn của mày, y như vậy, thì thành nhà phê bình được đấy!
Phải đến khi đọc Kafka, thì Gấu mới tìm ra câu trả lời, cho những đòn của Nguyên Sa và ê kíp, trong có Duyên Anh, dưới tên Thương Sinh, đánh Gấu ròng rã cả gần một năm trời trên nhật báo Sống.
Gấu có một kỷ niệm cũng thật là tuyệt vời về chuyện này. Đó là lần đến thăm cô học trò, con ông chú T, Gấu có nói tới trong bài viết Tên của cuộc chiến. Cô lôi ra cả một tập báo Sống, nói, anh đọc đi.
Hóa ra là cô nhớ Gấu quá, và, thù Gấu quá, vì cái chuyện đi lấy vợ Nam Kỳ, bèn cắt tất cả những bài viết chửi Gấu, để dành đọc chơi!
Nhưng kỷ niệm "ôi nhìn nhau lần cuối đi em", mới thật ảo não.
Gấu có ghi lại, trong bài viết về Bình Nguyên Lộc, post lại ở đây:

Gòa không, Gòa không?


Bình Nguyên Lộc là nhà văn Miền Nam thân cận nhất đối với thằng bé di cư-tôi ngày nào. Tôi làm quen với Sài-gòn là qua ông. Cái trò ngồi quán nhâm nhi ly hồng trà, ngóng chờ hồn ma cũ, trong khi tương lai đang đợi ở một ngã tư nào đó, là do ông, phần nào.
Ông già tôi khi còn sống, đặt cho tôi một biệt hiệu: thằng Mõ Phố. Ông làm nghề dậy học, cứ bị đổi trú sở hoài. Nghe nói Tây không ưa ông. Thằng con, ngay những giờ phút đầu tiên đến đất lạ đã lân la làm quen, từ người đến cảnh. Chưa kịp làm quen người bố, ông đã bị đảng phái thủ tiêu.
Mõ Phố vào Nam, việc đầu tiên, mua một tấm bản đồ thành phố Sài-gòn, rồi "khốn khổ khốn nạn" vì nó. Chả là, thằng nhỏ tin theo bản đồ, lần theo đường chỉ, đụng ngay một đồn Bình Xuyên. Thành phố những ngày đầu di cư, bản đồ nào "cập nhật hóa" cho nổi! Người lính gác, chắc chỉ muốn cho thằng nhỏ Bắc-kỳ một bài học, bắt đứng đó đến chiều tối; mỗi lần buồn buồn, anh lên cò súng lách cách, hăm: Tao bắn bỏ mày! Anh ta làm sao biết thằng nhỏ bị gắn khằn trong trí tưởng, hình ảnh một ông bố bị cột đá bỏ sông.
Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc lúc đó rất ăn khách, và những tờ nhật báo tại Sài-gòn thường in kèm như phụ trương. Bạn mua tờ báo, mở ra, truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc là một "cahier" khổ nhỏ kẹp ở giữa.
Nhớ đến ông, tôi nhớ đến một người viết khác, ông anh rể của tôi, Nguyễn Hoạt.
Nguyễn Hoạt thuở mới vào cũng ham viết tiểu thuyết về miền nam. Cuốn Trăng Nước Đồng Nai của ông kể lại việc kiếm cơm miền nam bằng nghề dậy học tại Biên Hòa. Ông quá mê thằng nhỏ xe "lô" (location), mời chào khách: Gòa không, Gòa không? (Hòa không, Hòa không?). Ông tả những cô gái miền nam tự nhiên đến nỗi mặc "đồ ngủ", leo cây, hái trái!
Ông chú Th. của tôi cười ngất, buông một câu: Bộ nó tưởng gái Miền Nam "dễ dzô" lắm sao?
Bà thím tôi ngồi kế bên cười tủm tỉm. Hai người sắp thành ba người, mới lo làm đám cưới!
Nhân đó, ông hỏi tôi thường đọc ai, tôi nói: Cháu mê Bình Nguyên Lộc. Ông gật gù, trúng ý. Trên bàn là một tờ báo hàng ngày, với truyện ngắn mới nhất của ông.
Ông chú này, tôi đã nhắc tới, nhân đi tìm "cái tên", cho một cuộc chiến. Gọi là chú, vì cùng học với ông già. Ông thi rớt, bỏ vào Sài-gòn lập nghiệp từ khi còn "nước Nam-kỳ", "tân thế giới" của những chàng trai xứ Bắc. Bà thím gốc xa xưa Tiều, rất hiền. Bà kể lại, kỷ niệm lấy chồng. Ổng nói, nếu ngày đó, tôi "hỏng" chịu cưới, bà tính sao? Đành ôm bầu, đẻ con, chịu làm "gái ngoan" chứ làm sao giờ!
Kỷ niệm trên, dù sao cũng vui.
Buồn: những ngày làm ăn khá giả, khi chưa xẩy vụ di cư, bà sợ nhất cảnh đếm tiền mỗi lần ông đưa về. Sau bà nghĩ ra một cách thật giản dị: dùng đấu, để đong, như đong gạo!
Là một thương gia giầu có nhưng có thể do bỏ Miền Bắc, ông lại càng tin vào một "mùa Thu" mà ông đã không có dịp được thưởng thức khí hậu. Mãi sau này, ân hận, nhưng cũng may, mất trước khi mất miền nam, không phải chứng kiến cảnh kiểm kê tài sản.
Cô con gái thứ của ông là mối tình đầu của tôi.
Tôi mê cô cùng lúc mê Bình Nguyên Lộc. Thương thằng nhỏ con người bạn học, ông chú kêu tôi về làm trợ giáo cho mấy đứa con ông. Không hiểu ông có một vầng trăng thề nào không, khi rời xứ Bắc, vì mấy cô con gái đều mang tên người đẹp cung Quảng. "Đệ nhị tiểu thư" được cưng nhất, nhưng không vì vậy mà bớt sợ bố. Ông là một "hung thần" trong gia đình.
Lần cuối, tôi tới thăm nhưng "vô ý" mang luôn đôi dép dính bùn vô nhà. Cô hoảng quá la lớn: Anh để dép bên ngoài! Tôi quay ra, dép theo luôn. Mãi sau này, khá trộng tuổi, cô mới lấy chồng. Bây giờ hình như hai vợ chồng ở Úc. Không hiểu khi chọn tôi làm "trợ giáo" cho mấy đứa nhỏ, ngoài chuyện thương đứa nhỏ mồ côi, ông chú tôi có bị ảnh hưởng Bình Nguyên Lộc hay không?
Nếu Miền Nam của Sơn Nam là một miệt vườn, hoặc "trước" thuở miệt vườn, một hình bóng cũ; Miền Nam trong Bình Nguyên Lộc, là cảnh nhập nhằng kẻ chợ, người quê. Những nhân vật của ông cũng nửa quê nửa tỉnh. Đây là lý do theo tôi, dân Sài-gòn rất mê ông, nhất là những độc giả "nhựt trình". Trong tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc đã manh nha một Sài-gòn sắp sửa biến mất, như một Miền Nam biến thành huyền thoại, ở Sơn Nam. Người ta tự hỏi mấy cô gái trong Đò Dọc, lo chạy giặc Tây giạt về một xóm quê, suốt ngày lóng ngóng không biết làm gì, suốt đời chờ đợi một người lái "đi xem heo", họ sẽ sử sự ra sao, sau này, khi quân đội Mỹ và đồng minh đổ xô tới...


Ceux qui ne tirent pas les leçons du passé sont condamnés à le revivre.
Kẻ nào không rút ra được những bài học quá khứ, kẻ đó bị kết án phải sống lại nó.
Hannah Arendt.
*

DTH: Nobel văn chương?

Gấu ngửi ra cái vụ này, khi anh Tây làm rùm beng, lần ra mắt cuốn Chốn Vắng, và để làm rùm beng thêm, trong giới Mít, Tin Văn đi liền mấy bài…
Tuy nhiên, điều lo âu của Gấu, là những bản dịch tiếng Tây, văn phong, cùng tính khí của Bà.. .
Sở dĩ CHK được Nobel, là nhờ người dịch ông hiểu ông. Mít ta chưa có ai “mê văn” DTH, để mà dịch qua tiếng Tây như trường hợp CHK. 
Nói chung là, căng lắm, khó lắm.
Vậy cũng mừng cho VC!
Nobel văn chương hồi sau này, cho, chỉ cần một cuốn. Gấu nhớ, DTH có cuốn viết về một em đi lao động Liên Xô, để nuôi cả một đại gia đình Yankee mũi tẹt, và nếu đúng như thế, thì chỉ cần một cuốn đó, là đủ.
Vả chăng, tiếng nói của CHK là tiếng nói của một cá nhân chống lại tiếng ồn của đám đông.
Còn của DTH? Không lẽ chỉ để tìm chân lý về một Bác Hồ?
Còn về cuộc chiến?
Cái nhìn của DTH về cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến ngu xuẩn, theo Gấu, sai.
Giọng văn DTH đanh đá quá, hằn học quá, lên gân quá, thành ra rất cần một dịch giả đủ tài, đủ mê văn bà, để chuyển tải cái phần đẹp đẽ nhất của nó, làm bật ra người đàn bà Bắc Kỳ, suốt chiều dài lịch sử dân Yankee mũi tẹt, chống lại Cái Ác Bắc Kít, tượng trưng bằng Ông Bố Bắc Kít,  liệu có thể nói như thế?
NQT
DTH còn thiếu cả, tầm nhìn sau đây, sau khi ngồi vệ đường Sài Gòn, khóc cuộc chiến ngu xuẩn.
Tản mạn về Ba  Người  Khác
Cũng nhiều người miền Bắc không may họ hàng phân tán chia ly trong chiến tranh, bây giờ hay nhắc đến chú bác cô dì, ông nội ông ngoại đã từng làm tướng tá hay viên chức trong chính phủ Việt Nam Cộng Hoà một cách công khai, đôi khi pha lẫn tự hào.
Đỗ Hoàng Diệu: Con ngáo ộp là có thật !
*
Nhân nhắc tới DTH, Tin Văn post bài điểm cuốn Hành trình thơ ấu của bà:
LES LIVRES DU MOIS
LE CHOIX DES MOTS DE MINUIT
par Philippe Lefait
« Un an loin des parents et l'expérience de la vie grandit d'un empan. Quand elle atteint la taille d'un arbre qui pousse sur les cimes des montagnes, alors on peut dire qu'on connaît la vie. » Itinéraire d'enfance, le dernier livre traduit en français de Duong Thu Huong est un roman de formation dans le Vietnam de 1985, marqué par la résistance contre le colon français et englué dans des pesanteurs idéologiques et partisanes qui font exclure de sa classe une gamine qui ignore encore que vérité et « autocritique» sont antagonistes. Rebelle, celle-ci décide, avec son amie Loan Graine-de-jacquier, de partir retrouver son père, garde-frontière depuis des années aux confins de la Chine. Itinéraire d'enfance décrit ce voyage sans le sou, les rencontres et l'appprentissage qu'il permet, l'évidence d'une filiation. C'est aussi un documentaire ethhnologique où l'on apprend, par exemple, les secrets de fabrication de la gélatine de tigre ou l'art d'accommoder le cochon. La simplicité du style fait sa fluidité. C'est une écriture qui prend par la main. Il y a les odeurs, les paysages, presque un conte sur le désir que la réalité fracasse. Duong Thu Huong a poétisé la révolution, adhéré au parti communiste avant de préférer les droits de l'homme. « Si je veux cracher sur le pouuvoir, je n'ai pas le droit de craindre », dit celle qui a dénoncé la dérive, été exclue en 1990 de l'Union des écrivains vietnamiens, a connu la prison et une résidence surveillée. Ses livres ont été interdits. Elle est désormais publiée en France, où elle vit depuis la publication l'an dernier chez Sabine Wespieser du puisssant Terre des oublis. À 60 ans, elle voit sa destinée comme celle d'un animal doulouureux condamné à souffrir. « La nostalgie de mon pays me ronge, mais j'ai la liberté. ».
Itinéraire d'enfance Duong Thu Huong
Trad. du vietnamien par Phuong Dang Tran
Éd. Sabine Wespieser, 380 p., 24 €.
Des mot de minuit
* Le Magazine littéraire participe un mercredi par mois à l'émission Des mots de minuit.
* Des mots de minuit, tous les mercredis, la nuit sur France 2. Rediffusion le dimanche suivant sur France 4 à minuit.
[Le Magazine Littéraire, Juillet & Aout, 2007]