|
The Nobel
Prize in Literature 2013
“I hoped to
write novels,” Ms Munro admitted in the preface to her "Selected
Stories". But her life didn’t seem to allow for them. “When you are
responsible for running a house and taking care of small children,
particularly
in the days before disposable diapers or ubiquitous automatic washing
machines,
it’s hard to arrange for large chunks of time.” The moral dramas faced
by
women—by every woman—have always been at the centre of her work. This
makes the
award of the Nobel all the more welcome. Out of 106 Nobel prizes for
literature, this is only the 13th to go to a woman.
Prospero
“Tôi mong viết
tiểu thuyết,” Ms Munro viết, trong lời tựa cho tập truyện “Truyện ngắn
chọn lọc”.
Nhưng đời hình như không chiều bà. “Khi bạn đầu tắt mặt tối với căn
nhà, với lũ
trẻ, vào cái thuở hồng hoang, con người chưa sáng chế ra được cái tã
lót, và
máy gặt quần áo, thật khó cưu mang 1 cuốn tiểu thuyết.
Truyện ngắn thì OK”. Cái gọi là bi kịch đạo đức mà người đàn bà trực
diện – mọi nguời đàn bà – luôn luôn ở
trung tâm
cái viết của bà. Truyện ngắn mà đợp Nobel mới bảnh chứ truyện dài thì
nói làm
gì! “Nữ dzăng sĩ” lại càng bảnh hơn nữa. Trong 106 người lãnh giải, chỉ
có 13
bà. Con số xui xẻo may mắn!
Nhà văn nữ lớn
đoạt Nobel thì chúng ta biết rồi, nhưng còn độc giả lớn, người đó
trưởng thành
ra sao (Were you a big reader growing up”)? “Fan” của những ai (What
work of
any had an influence)? The Paris Review.
Đọc là đời tôi
cho tới khi tôi 30 tuổi. Tôi sống ở trong sách. Những nhà văn Nam Mỹ là
những
người đầu tiên thực sự làm tôi xúc động bởi là vì họ chỉ cho tôi, tôi
có thể viết
về những thành phố nhỏ, những con người nhà quê, và cái thứ cuộc đời
này thì tôi
quá rành. Nhưng điều mà những nhà văn Miền Nam làm tôi quan tâm, tôi
thực sự không
nhận ra, đó là, tất cả những nhà văn Miền Nam đó, thì đều là đàn bà,
tôi không thích Faulkner nhiều lắm đâu. Tôi mê Eudora Welty, Flannery
O’Connor, Katherine Anne
Porter, Carson McCullers. Có cái cảm giác là những người đàn bà này có
thể viết
về những cái kỳ cục, thói đồng bóng, vùng ven, ngoại vi, bên lề…
Vinh danh
Muno, đám phê bình thường nhắc tới Chekhov, người Nga, tới William
Trevor, người
Ái Nhĩ Lan, là những bực tổ sư truyện ngắn, và cõi nhân sinh
nhỏ bé mà
truyện ngắn chuyên chở. Nhưng, có 1 sự khác biệt giữa Chekhov và
Munro, nếu 1 độc
giả Á Châu, mê truyện ngắn, đọc chăm chú, sẽ nhận ra. Cái sự đói khổ,
cái ác của
xứ Á, phân biệt một Chekhov với Munro, mà những người ảnh hưởng tới bà,
là những
nhà văn nữ Miền Nam nước Mỹ.
Bạn muốn chứng thực điều này, theo tôi, nên
tìm đọc Yiyun Li, cũng 1 chuyên gia về
truyện ngắn, tuy cũng
viết truyện dài, và thầy cũng là Chekhov, và Trevor.
Vả chăng, truyện
ngắn của
Munro không tiên đoán 1 sự thay đổi thời tiết, [Not yet & No
longer],
theo quan niệm của
Lukacs mà GCC đã muợn, để áp dụng vào trường hợp những truyện ngắn của
Nguyễn
Huy Thiệp. (1)
(1)
Lukacs phán:
Độc giả đọc Một ngày là cảm
thấy đây là biểu tượng cho mọi ngày của thời kỳ Stalin. Tuy
nhiên, không có một tí dấu vết của chủ nghĩa biểu tượng trong cách miêu
tả của
Solz. Ông trình ra một ngày của tên tù Ivan như một lát hiện thực, a
guenine,
realistic slice of life, qua đó, không một chi tiết bị khái quát quá để
có mùi
biểu tượng. Nói rõ hơn, số phận của hàng triệu triệu con người được nén
lại vào
trong một lát mỏng này
Điều làm cho
Solz thực sự trở thành số một, độc nhất, là sự kiện đơn giản tác phẩm
của ông
được xuất bản, ở Liên Xô, khi Khrushchev đang toàn quyền lực.
Applebaum
Nhận xét về Một ngày, như
trên, không đúng, bởi vì Applebaum không phải là một nhà văn. Bà
không hiểu gì về thể loại văn học có tên là truyện ngắn, nhất là những
truyện
ngắn ở vào những thời điểm nóng bỏng nhất của lịch sử. Một khi nó xuất
hiện, là
có biến chuyển, một thứ chim báo bão.
Khi viết về
NHT, Gấu đã nhận ra sự liên hệ giữa Tướng
về hưu và Một Ngày,
cũng như Lukacs
nhận ra sự liên hệ giữa Một ngày
và Typhoon của Conrad, hay Ngư ông và Biển cả
của Hemingway.
Tuy nhiên,
có lẽ phải đọc Tướng về hưu song
song với Bếp Lửa, một ở đầu,
một ở cuối cuộc
chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của Lukacs. Ở giữa
hai truyện
ngắn đó, là truyện Dọc Đường.
Truyện ngắn này, lại là một Not-Yet, mở ra cuộc
Exodus Vượt Biển của người Việt tị nạn: Hình ảnh người đàn ông lỡ độ
đường đứng
trơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần áo tiên đoán số phận người vượt
biển đi những
ngày sau dead line, chẳng nước nào nhận!
*
Nhận xét về
truyện ngắn, và vai trò “Not Yet &
No Longer” của nó trong lịch sử văn học, của Lukacs, ghê thật, nhưng
chưa ghê bằng
nhận xét của Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:
At certain
periods of history it is only poetry that is capable of dealing with
reality by
condensing it into something graspable, something that otherwise
couldn't be
retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen
name of
Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly
enable her
to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know.
She
was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed.
She
showed these solutions first through the prism of the individual heart
then
through the prism of history, such as it was. This is about as much as
one gets
in the way of optics any way:
Ở một giai
đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi
vì chỉ có
nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái
gì được
ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua
không làm
sao cất giữ được.
Điều Brodsky
nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù
Phạm
Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn
của văn
chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!
Ngoài kia
súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt!
Khi Gấu viết
được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn
của VC,
đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết
của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de
force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.
Những ngày Mậu
Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào
da thịt
thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của
thành phố
cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm
nhìn bóng
mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố,
trong lúc cảm
thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách
thánh thiện,
nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với
cuộc sống
thảm thương như vậy...
Cõi Khác
Đừng nghĩ là
Gấu tự thổi, nhưng mấy cái truyện ngắn Mậu Thân của Gấu, sau này, là
những “lỗ
đen” chứa trong nó cả 1 thời kỳ thê lương, của Xề Gòn, giống những
bản nhạc
sến, hay thơ TTT...
Hà, hà!
Thiệp và Gấu
G. Lukacs,
trong “Solzhenitsyn: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” (1969)
[William David
Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971]
viết:
Liên hệ mỹ học
giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường
được phân
tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai
thể loại,
trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their
interrelationship throughout the course of literary development]. Tuy
nhiên,
đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học
hiện thời
[the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện
ngắn
[novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên
văn: tiền
thân, precursor] cho sự ra đời của hùng
ca, sử thi, hay những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu
vệ
[rearguard], một cách viết ở tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác,
hoặc nó xuất
hiện như là một Sẽ Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a
No-Longer, Nichtmerhr].
Áp dụng nhận
xét trên vào Một Ngày... của Solz.,
Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả
tưởng cận
và đương thời đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong
toan
tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con
người.
[With this
reservation, one can say of contemporary and near-contemporary fiction
that it
often withdraws from the novel into the novella, in its attempt to
provide
proof of man’s moral stature…..]
“Không phát
hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của
Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến
trình lại khám phá ra cái tôi,
cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ
nghĩa.”
[Lukacs].
Truyện ngắn
của NHT có gì tương tự với Một Ngày
Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenisyn.
Nó báo hiệu sự suy tàn của một chế độ, sự tận cùng của một thời kỳ [a
termination at the end of a period, a No-Longer], và đồng thời nó đăng
quang
con người, như một cá nhân [lại khám phá ra một cái tôi, thí dụ như của
NHT, của
Bùi Ngọc Tấn, và nhất là, của Nguyễn Chí Thiện, một cái tôi như là tôi
dám tự
chọn cho tôi: nhà thơ ngục sĩ đời đời!
Prospero
Alice Munro
and the Nobel prize
The best fiction
acts as a kind of mirror, showing us to ourselves through the lives of
others.
This is one of Ms Munro’s greatest gifts. “Millions of readers pick up
an Alice
Munro story and react with a kind of galvanized self-recognition,”
marveled
Jane Smiley, a novelist and Man Booker judge chairman, when she
presented the
Man Booker international prize to Ms Munro in 2009. This was the first
time the
award went to a short-story writer. Books such as "The Progress of
Love" (1986), "The Love of a Good Woman" (1988) and
"Runaway" (2004) cemented Ms Munro's reputation as a writer capable
of reinventing a seemingly tired form. Her stories play with structure
and
theme, even as they evoke a deeply felt realism.
Giả tưởng thứ
xịn thì giống như 1 thứ gương soi, nó cho chúng ta nhìn thấy chúng ta,
qua cuộc
đời của những người khác. Đó là một trong những tài năng lớn lao nhất
của Ms
Munro. "Hàng triệu độc giả cầm một cuốn truyện của Alice Muno lên, và
nó
như 1 thỏi nam châm, làm người đó nhận ra mình”, Jane Smiley, tiểu
thuyết gia
và là chánh chủ khảo Man Booker, khi trao giải thưởng này, 2009, cho Ms
Munro,
rạng rỡ phán. Đó là lần thứ nhất giải về tay 1 tác giả chuyên viết
truyện ngắn.
Những tác phẩm như "The Progress of Love" (1986), "The Love of a
Good Woman" (1988) và "Runaway" (2004), làm danh tiếng của bà trở
thành bất hủ, vĩnh viễn: một nhà văn tái phát minh, làm sống lại, một
thể dạng
văn học đã... mệt nhoài: truyện ngắn.
... I got an offer of a
job teaching creative
writing at York University outside of Toronto. But I didn’t last at
that job at
all. I hated it, and even though I had no money, I quit.
INTERVIEWER
Because you
didn’t like teaching fiction?
MUNRO
No! It was
terrible. This was 1973. York was one of the more radical Canadian
universities, yet my class was all male except for one girl who hardly
got to
speak. They were doing what was fashionable at the time, which had to
do with
being both incomprehensible and trite; they seemed intolerant of
anything else.
It was good for me to learn to shout back and express some ideas about
writing
that I hadn’t sharpened up before, but I didn’t know how to reach them,
how not
to be an adversary. Maybe I’d know now. But it didn’t seem to have
anything to
do with writing—more like good training for going into television or
something,
getting really comfortable with clichés. I should have been able to
change
that, but I couldn’t. I had one student who wasn’t in the class, who
brought me
a story. I remember tears came into my eyes because it was so good,
because I
hadn’t seen a good piece of student writing in so long. She asked, How
can I
get into your class? And I said, Don’t! Don’t come near my class, just
keep
bringing me your work. And she has become a writer. The only one who
did.
Tôi được mời
dậy môn sáng tác tại Đại Học York, ngoại vi Toronto, nhưng đếch khoái,
sau cùng
đành bỏ. Nói, tôi ghét mới đúng, và dù đếch có tiền, vưỡn bỏ.
Bởi là vì bà
không thích dậy môn giả tưởng?
Không. Thật
khủng, phải nói như thế. Đó là năm 1973. York là 1 trong những đại học
cấp
tiến của Canada, tuy nhiên lớp của tôi toàn nam sinh viên, chỉ có 1
mống nữ, và
em này rất ít nói. Đám sinh viên tỏ ra thời thượng, vào thời gian đó,
tức là lúc
nào cũng làm ra vẻ đếch ai hiểu nổi lũ chúng ông, và thật là cũ rích,
rẻ tiền. Họ
có vẻ cố chấp về bất cứ chuyện gì. Cũng thật tốt cho tôi, nhờ thế, học
được điều,
biết quạt lại, và hiểu ra được 1 số ý nghĩ về việc viết, trước đó tôi
lơ là, không làm
sao bắt kịp, đại khái, làm thế nào không là 1 địch thủ. Có thể, bây giờ
tôi biết,
nhưng ba cái thứ lẻ tẻ này thực không liên quan đến việc viết – mà như
để tỏ ra
lành nghề khi xuất hiện trên màn hình TV, hay tỏ ra thoải mái với ba
thứ sáo mòn,
bản kẽm….
Có 1 nữ sinh viên, không học lớp tôi, đưa cho tôi một truyện ngắn của
em. Thần sầu, đọc 1 phát là nước mắt ràn rụa. Em hỏi, em có thể học lớp
của cô.
Tôi quát, đừng! Đừng bao giờ mò đến đó, mà chỉ việc mang những truyện
ngắn cho
tôi đọc.
Và em trở thành 1 nhà văn. Người độc nhất làm được điều này.
Ui chao, đọc 1 phát, là
nhớ đến cái em sinh viên của Steiner:
Tôi chán ông
quá rồi. Tôi bỏ lớp, bỏ trường, đi về quê, chăn trâu, mai mốt làm vợ… Sáu Dân! (1)
Hà, hà!
(1)
Trong
đời tôi, tôi đã gặp được năm hoặc sáu sinh viên phú bẩm (doués), sáng
láng
(créatifs) hơn tôi. Một lần ở [Đại học] Cambridge, một trong những nữ
sinh
viên, con chim đầu đàn của khóa học, đã nói với tôi: "Tôi ghê tởm tất
cả
những gì thầy dậy tôi; tôi quá chán tất cả những gì mà thầy đại diện;
tôi chẳng
bao giờ thèm nghe nói về văn hóa, và tôi bỏ đi làm một người y sĩ chân
trần ở
Trung quốc." Vài năm sau, tôi được mời thăm Bắc kinh, và vị Đại sứ Anh
quốc
đã cho tôi tin tức về người đàn bà này. Bà là một y sĩ, trong một làng
quê
không điện không nước… Vậy đó, bà ta có lẽ là một thành công độc nhất
của tôi.
INTERVIEWER
Were you a
big reader growing up? What work if any had an influence?
MUNRO
Reading was
my life really until I was thirty. I was living in books. The writers
of the
American South were the first writers who really moved me because they
showed
me that you could write about small towns, rural people, and that kind
of life
I knew very well. But the thing about the Southern writers that
interested me,
without my being really aware of it, was that all the Southern writers
whom I
really loved were women. I didn’t really like Faulkner that much. I
loved
Eudora Welty, Flannery O’Connor, Katherine Ann Porter, Carson
McCullers. There
was a feeling that women could write about the freakish, the marginal.
INTERVIEWER
What is your
reaction to magic realism?
MUNRO
I did love One Hundred Years of
Solitude. I loved it, but it can’t be imitated. It looks
easy but it’s not. It’s wonderful when the ants carry off the baby,
when the
virgin rises into the sky, when the patriarch dies, and it rains
flowers. But
just as hard to pull off and just as wonderful is William Maxwell’s So
Long, See You Tomorrow, where the dog is the character. He’s
dealing with
a subject that potentially is so banal and makes it brilliant.
The Nobel
Prize in Literature 2013
Alice Munro
Photo: ©
shapton
Alice Munro
Born: 10
July 1931, Wing ham, Canada
Prize
motivation: "master of the contemporary short story"
“Thầy truyện ngắn hiện
đại”.
Note: Vòng
hoa Nobel văn chương năm nay, có thể cũng là do những vòng hoa trước,
gây
"trouble", mà ra.
Bèn ngắn gọn:
Bậc thầy truyện ngắn!
Cóc cần “tỉu thiết”. Cóc
cần kịch cọt!
“Mấy con dã
tràng” đủ ăn Nobel rùi!
Thì cũng....
Canada.
Biết đâu đấy!
Hà, hà!
Chắc là phải
mướn người dịch lẹ qua tiếng mũi lõ!
Alice Munro
is the 13th woman awarded the Nobel Prize in Literature so far. She is
also the
110th Literature Laureate in total.
Note: Còn
thiếu 1 cái “lucky thirteen”, bà được Nobel vào năm (20)13!
The Paris
Review
Alice Munro,
The Art of Fiction No. 137
Interviewed
by Jeanne McCulloch, Mona Simpson
Canadian short-story
writer, 82, was one of favourites to
win honour, awarded in same year she announced retirement
Nữ văn sĩ Canada, chuyên viết truyện ngắn, 82 tuổi, được Nobel năm nay,
đúng
vào năm bà tuyên bố về hưu
Alice Munro,
winner of the 2013 Nobel prize in literature. Photograph: Andrew
Testa/Rex
Features
Alice Munro,
the Canadian doyenne of the short story, has been awarded the Nobel
prize in
literature, following in the footsteps of Sartre, Hemingway, Pinter and
Pirandello.
The 82-year-old
had been among the favourites to win the prize, along with the Japanese
novelist Haruki Murakami and the Belorussian journalist and author
Svetlana
Alexieva.
In her 14
volumes of short stories, including The View From Castle Rock (2006)
and The
Progress of Love (1986), the warp and weft of rural and small-town life
in
south-western Ontario has always been her subject, having only once
swerved off
course into the novel.
She once
said of her work: "What I wanted was every last thing, every layer of
speech
and thought, stroke of light on bark or walls, every smell, pothole,
pain,
crack, delusion, held still and held together – radiant, everlasting."
Earlier this
year she announced her retirement from writing – which prompted the
following
tribute from the novelist Jane Smiley: "Thank you, Alice Munro, for one
glittering jewel of a story after another. Thank you for the many days
and
nights I spent lost in your work. Thank you for your unembarrassed
woman's
perspective on the lives of girls and women, but also the lives of boys
and
men. Thank you for your cruelty as well as your kindness, because the
one plus
the other is the essence of truthfulness."
Munro is the
110th winner of the prize and the 13th woman to receive it.
*
Not many
successful writers have lived into their 80s – the perennially mature
Henry
James was 72 when he died, Tolstoy 71 when he published his last novel.
Edith
Wharton was working on her last novel when she died at 75. The View
from Castle
Rock, which Munro published when she was 75, was a grand and intriguing
departure, both geographically and thematically, and one of my
favourites.
But now we
must let her off the hook. Thank you, Alice Munro, for one glittering
jewel of
a story after another. Thank you for the many days and nights I spent
lost in
your work. Thank you for your unembarrassed woman's perspective on the
lives of
girls and women, but also the lives of boys and men. Thank you for your
cruelty
as well as your kindness, because the one plus the other is the essence
of
truthfulness.
Jane Smiley: Farewell
Alice Munro, and thanks for
everything
Ít nhà văn
thành công sống thọ, tới tám bó – Henry James 72 ngỏm, Tolstoy 71, khi
cho xb
cuốn chót... Cái Nhìn từ Castle Rock,
Munro cho xb năm bà 75 tuổi, là 1 chuyến khởi hành lớn, tình tiết hấp
dẫn, cả về
mặt địa dư lẫn chủ đề, và là 1 trong những cuốn tôi mê.
Nhưng bi giờ,
chúng ta phải tha cho bà thôi, cho bà nghỉ hưu, đừng làm phiền bà nữa.
Cám ơn
bà về những truyện ngắn, như những viên ngọc quí, viên này tới viên
khác. Cám
ơn bà, vì những ngày đêm tôi mất ăn mất ngủ với chúng. Cám ơn bà về cái
nhìn
không bực bội, nhạy cảm hay không nhạy cảm của người đàn bà, về cuộc
sống của
thiếu nữ cũng như phụ nữ, và còn của thanh thiếu niên, và đàn ông. Cám
ơn sự độc
ác, cũng như sự dịu dàng của bà, bởi là vì, cái nọ cộng cái kia thì mới
làm nên
yếu tính của cái có thực.
Gấu mới đọc
1 bài trên The New Yorker cằn nhằn vô cùng về cái chuyện Mẽo
đếch được
Nobel. Cằn nhằn thì nhiều lần rồi, nhưng năm nay sức ép coi bộ dữ dằn
lên Uỷ
Ban Nobel, và Gấu tự hỏi, làm sao đây.
Thế là họ bèn cho 1 tên Canada, cũng Mẽo, nhưng Bắc Mẽo, cùng quê
với...
GCC!
Lẽ tất nhiên Munro quá xứng đáng, nhưng không thể bỏ qua cái
sự cằn
nhằn của anh láng giềng của nó, trong vụ trao Nobel năm nay.
Cũng thế,
khi trao Nobel cho Milosz, cho Pasternak...
Họ xứng đáng, quá xứng
đáng, nhưng
ngoài cái đó ra, còn có 1 cái gì khác nữa!
Ui chao, lại
nhớ đến Primo Levi, bài viết ngay dưới đây. Ông “vặc”, “sao tui ?”, khi
sống
sót… Lò Thiêu!
November 20,
2012
On “Dear
Life”: An Interview with Alice Munro
Posted by Deborah
Treisman
*
Làm gì làm một
chuyện suốt đời:
À peine
adolescente, elle décide de devenir écrivain et ne déviera jamais de sa
voie.
«Je n'ai
aucun autre talent, je ne suis pas intellectuelle et me débrouille mal
comme
maîtresse de maison. Donc rien ne vient perturber ce que je fais»,
déclarait-elle il y a quelques années.
Nhà văn có
sách bán nhưng không ra mắt sách!
«Ce n'est
pas un écrivain mondain, on la voit rarement en public, elle ne court
pas les
lancements», observe David Homel, écrivain, traducteur et critique
littéraire
américain établi à Montréal.
Tả phụ nữ
nhưng không đề cao sắc đẹp của họ.
Malgré le
succès et une moisson impressionnante de prix littéraires qu'elle
engrange
depuis quarante ans, elle reste discrète, à l'image de ses personnages,
essentiellement des femmes, dont ses textes ne mettent jamais en relief
la
beauté physique. Un écho, peut-être, des influences puritaines ayant
marqué le
milieu de son enfance.
Nói về phụ nữ
nhưng không nói xấu đàn ông…
«Elle écrit
sur les femmes et pour les femmes, mais elle ne diabolise pas les
hommes», dit
David Homel.
|