Thay ngựa giữa dòng.

Gấu nhớ, TTT, trong một hồi nhớ, có kể là, ông vừa dậy học ở Thủ Dầu Một, vừa viết Bếp Lửa, và khi ông viết đến dòng cuối (1),  là lúc ngoài đường, dân chúng đang xuống đường, trong cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại.
 Trong một lần khác, ông kể, ông đang ngồi với một số bạn hữu, thì nghe tin Ngô Đình Diệm bị Mẽo làm thịt, và cả đám bạn bè đều lắc đầu, hỏng rồi.
Mấy anh VC gọi cú này là thay ngựa giữa dòng.
Bi giờ tới lượt VC thay ngựa giữa dòng.
Liệu… lần này, chúng mình được… về  nhà?
(1) Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm
Viết xong tại Thủ Dầu Một vào tháng 10-1956
*
Trở lại chuyện hai đứa mình, tức hai  người đã tiên đoán đế quốc Đỏ sụm bà chè, như Milosz cho biết.
Một, là
Andrei Amalrik, tác giả cuốn “Liệu Liên Xô Sống Sót Tới Năm 1984”? [Harmonsworth, England: Penguin Books].


Nhà báo Foglia, La Presse, Montréal đi Bắc Kinh dự Thế Vận Hội nhưng ông thích ra đường thăm dân cho biết sự tình.

Gặp một nữ bác sĩ ở quảng trường Thiên An Môn, ông hỏi:
-  Xin bà cho biết sau Mao, những thay đổi nào là lớn nhất ở Trung Quốc?
Câu trả lời làm tôi ngạc nhiên: Ăn. Thời Mao dân lúc nào cũng đói. Và Mặc. Thời Mao chúng tôi ăn mặc giống nhau.
-  Vậy còn tự do?
-  À ha, đúng, còn tự do nữa. Tôi quên mất.
Cái giọng thở ra làm cho tôi nhận ra bà không coi đây là một thay đổi lớn.
...  Ông tiếp tục hỏi các “du khách Trung Hoa” lên Bắc Kinh xem Thế Vận Hội, chẳng ai trả lời các câu hỏi có tính chính trị của ông. Người Trung Hoa ngại trả lời cho người ngọai quốc các câu hỏi này trừ bà bác sĩ kia, mỗi câu, mỗi chữ của bà đều chính trị!
Nguồn

Có ăn rồi, thì phải học ăn.
Đây, bài viết của một bạn văn VC của Gấu ngày nào!
Nguồn
Mỗi câu mỗi chữ của ông bạn văn VC ngày nào của Gấu thì cũng đều chính trị!
*
Foglia, ký giả báo La Presse Montréal ngồi xem lễ khai mạc Thế Vận Hội với gia đình cô Tian, thông dịch viên của ông.
Cha cô Tian là một cán bộ cao cấp, nhà có hai xe hơi, hai phòng tắm. Tháng 9 cô sẽ đi du học ở Pháp. Ông Gong cha cô Tian nói gia đình ông thuộc hạng trung lưu, bà vợ sửa nhẹ: trên trung lưu một chút.
Ông Foglia hỏi ông Gong:
- Ông vào đảng Cộng Sản như thế nào?
Ông Gong tránh câu hỏi này, quá rắc rối. Tóm lại là ông nói các đảng viên cộng sản là những công dân ưu tú nhất. Như thế khiêm tôn mà nói, ông cũng là đảng viên.
-Vì sao cộng sản lại thành tư bản?
Ông không cười cũng không chống. Ông nói đương nhiên sau 30 năm cải cách thì nhà nước phải tìm dụng cụ nào hữu ích nhất để cải thiện đời sống cho người dân Trung Quốc.
-Vậy thì tư bản là dụng cụ “hiệu nghiệm” nhất?
Tôi định hỏi vì sao có hai chủ nghĩa cùng một lúc, vừa tư bản vừa cộng sản. Nhưng tôi tự tìm ra câu trả lời: “hiển nhiên là để cứu cục cứt của chế độ.” Cái tệ nhất của hai chế độ thì còn đỡ tệ hơn là cái tệ của một chế độ.
Kỳ cục nhưng nó là như vậy, đừng tìm câu trả lời cho nhức đầu.
Vậy đó.

Nguồn


Olympics 2008: US coach's relative murdered in Beijing


*

Tribute

'Nhà thơ' Karadzic

Nhà báo Anh Ed Vulliamy kể lại về chuyến thăm Bosnia 1992 cùng đoàn làm phim ITV rằng Karadzic, một bác sĩ tâm thần học, thạo tiếng Anh (từng học ở đại học Columbia, Hoa Kỳ), có "cặp mắt nhợt nhạt", "cái bắt tay hờ hững".
Ai dám nghĩ một trí thức nhỏ nhẹ có vầng tóc cao không khác gì một nghệ sĩ ở Paris lại cho quân lính bắn giết, hãm hiếp điên cuồng.
Đoàn làm phim bay qua các làng mạc bị đốt cháy, những bãi xác người tới Pale, để gặp Karadzic, kẻ tự hào nói về chính sách "thanh lọc sắc tộc".
Cùng lúc, tại "nước cộng hòa" tự xưng của vài trăm nghìn người Serb ở Bosnia, những nhóm dân chúng cuồng nộ vì tinh thần bài Hồi giáo còn tổ chức hội thơ của Karadzic, vừa là tổng thống, vừa là nhà thơ dân tộc.
"Nhà thơ lớn" còn sang London, Paris để dự các cuộc hội đàm "hòa bình", một vết nhơ của lịch sử ngoại giao châu Âu.
BBC

Như vậy, chỉ vì ông Trùm còn là nhà thơ, cho nên ông BBC Mít này mới để kế bên nhà văn Solz?
Bác Hồ chẳng phải vừa là Cha Già, vừa là Nhà Thơ Dân Tộc sao?
Viết về ông Trùm, bèn nhớ tới Bác?
*
Và đây là mấy dòng thơ của ông Trùm:

« Je suis né pour vivre sans tombeau, / ce corps humain ne mourra jamais, /
 il n'est pas né seulement pour sentir les fleurs / mais aussi pour incendier, tuer et tout réduire en poussière ... »
[Tôi sinh ra để sống không một nấm mồ
Xác thân này không hề chết
Nó sinh ra không phải chỉ để ngửi mùi hoa
Mà còn để đốt nhà, giết người và biến tất cả thành tro bụi]
*

Lukacs phán:
Độc giả đọc Một ngày là cảm thấy đây là biểu tượng cho mọi ngày của thời kỳ Stalin. Tuy nhiên, không có một tí dấu vết của chủ nghĩa biểu tượng trong cách miêu tả của Solz. Ông trình ra một ngày của tên tù Ivan như một lát hiện thực, a guenine, realistic slice of life, qua đó, không một chi tiết bị khái quát quá để có mùi biểu tượng. Nói rõ hơn, số phận của hàng triệu triệu con người được nén lại vào trong một lát mỏng này

*

Either way, the enormous tension between those who had been "there" and those who had stayed home could not remain confined in bedrooms and locked behind doors forever. Those responsible for what had happened were still alive. Finally, at the Twenty-second Party Congress in October 1961, Khrushchev, now fighting for influence within the Party, began naming them. He announced that Molotov, Kaganovich, Voroshilov, and Malenkov were all "guilty of illegal mass repressions against many Party, Soviet, military and Komsomol officials and bear direct responsibility for their physical destruction." More ominously, he also hinted darkly at the "documents in our possession" which would prove this guilt.

Yet Khrushchev did not, in the end, publish any such documents in the course of his struggle against the Stalinists who opposed his reforms. Perhaps he was not really powerful enough to do so--or perhaps such documents would have revealed his own role in Stalinist repressions as well. Instead, Khrushchev deployed a new tactic: he widened the public discussion of Stalinism even further, broadening it beyond internal Party debates-spreading it to the literary world. Although Khrushchev probably was not much interested in Soviet poets and novelists for their own sake, he had seen, by the early 1960s, that they could playa role in his bid for power. Slowly, vanished names began to reappear in official publications, without explanation of why they had gone and why they were being allowed back. Characters hitherto unacceptable in Soviet fiction-greedy bureaucrats, returning camp inmates-began to appear in published novels.
Khrushchev saw that such publications could conduct his propaganda for him: literary writers could discredit his enemies by tarring them with the cri!lles of the past. That, at any rate, appears to have been the reasoning behind his decision to allow the publication of Alexander Solzhenitsyn's One Day in the Life of Ivan Denisovich, the most famous of all Gulag novels.

For his literary significance, as well as for the role he played in publicizing the existence of the Gulag in the West, Alexander Solzhenitsyn would cerrtainly deserve special mention in any history of the Soviet camp system. But his brief career as a famous, widely published, "official" Soviet author is also worth telling because it marks an important moment of transition. When Ivan Denisovich first appeared in print, in 1962, the Thaw was at its height, political prisoners were few, and the Gulag seemed a thing of the past. By the summer of 1965, when a Party journal described Ivan Denisovich as "an undoubtedly controversial work, both ideologically and artistically," Khrushchev had been ousted, the backlash had begun, and the number of political prisoners was rising with ominous speed. By 1974, when The Gulag Archipelago - Solzhenitsyn's massive, three-volume history of the camp system - had appeared in English, Solzhenitsyn had been expelled from the country, and his books could only be published abroad. The institution of the Soviet prison camp had been firmly reestablished, and the dissident movement was in full swing.

Solzhenitsyn's prison career had begun in a manner typical for zeks of his generation. After entering officers' training school in 1941, he fought across the western front throughout the autumn and winter of 1943, penned some poorly disguised criticism of Stalin in a letter to a friend in 1945 - and was arrested soon after. Hitherto a more or less true communist believer, the young officer was stunned by the brutality and crudity with which he was treated. Later, he would be even more shocked by the harsh treatment meted out to Red Army soldiers who had fallen into Nazi captivity. These, he felt, were men who should have returned home as heroes.
His subsequent camp career was perhaps slightly less than typical, only because - thanks to some undergraduate math and physics - he served some of his time in a sharashka, an experience he later recorded in his novel The First Circle. Other than that, it is fair to say that he served in a series of unremarkable lagpunkts, including one in Moscow, and one in a special camp complex in Karaganda. He was also an unremarkable prisoner. He flirted with the authorities, served as an informer before seeing the light, and wound up working as a bricklayer. Bricklaying was the career he later gave to Ivan Denisovich, the zek "Everyman" who was the hero of his first novel. After his release, he went to teach at a school in Ryazan, and began to write about his experiences. That too was not unusual: the many hundreds of Gulag memoirs that have been published since the 1980s are ample testimony to the eloquence and talent of Soviet ex-prisoners, many of whom wrote in secret for years. What made Solzhenitsyn truly unique, in the end, was the simple fact that his work appeared in print, in the Soviet Union, while Khrushchev was still in power.
*
Đoạn trên, trích Gulag a history, được coi như ấn bản chung quyết về Gulag, được Pulitzer Prize, của Anne Applebaum, cho thấy, Solz đã từng ve vãn quản giáo, làm ăng ten trước khi nhìn ra con đường của mình. Cuộc đời của ông cho thấy, không thể coi ông là một nhà trí thức Cộng Sản của châu Âu được, để mà so sánh với Trùm
Karadzic.
*
Điều làm cho Solz thực sự trở thành số một, độc nhất, là sự kiện đơn giản tác phẩm của ông được xuất bản, ở Liên Xô, khi Khrushchev đang toàn quyền lực.
Applebaum

Nhận xét về Một ngày, như trên, không đúng, bởi vì Applebaum không phải là một nhà văn. Bà không hiểu gì về thể loại văn học có tên là truyện ngắn, nhất là những truyện ngắn ở vào những thời điểm nóng bỏng nhất của lịch sử. Một khi nó xuất hiện, là có biến chuyển, một thứ chim báo bão.

Khi viết về NHT, Gấu đã nhận ra sự liên hệ giữa Tướng về hưu và Một Ngày, cũng như Lukacs nhận ra sự liên hệ giữa Một ngày và Typhoon của Conrad, hay Ngư ông và Biển cả của Hemingway.

Tuy nhiên, có lẽ phải đọc Tướng về hưu song song với Bếp Lửa, một ở đầu, một ở cuối cuộc chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của Lukacs. Ở giữa hai truyện ngắn đó, là truyện Dọc Đường. Truyện ngắn này, lại là một Not-Yet, mở ra cuộc Exodus Vượt Biển của người Việt tị nạn: Hình ảnh người đàn ông lỡ độ đường đứng trơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần áo tiên đoán số phận người vượt biển đi những ngày sau dead line, chẳng nước nào nhận!
*
Nhận xét về truyện ngắn, và vai trò “Not Yet  & No Longer” của nó trong lịch sử văn học, của Lukacs, ghê thật, nhưng chưa ghê bằng nhận xét của Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:
At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly enable her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed. She showed these solutions first through the prism of the individual heart then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics any way:

Ở một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.

Điều Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến! 

Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt! 

Khi Gấu viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Cõi Khác
*
Tản mạn xung quanh Tuổi Hai Mươi Yếu Dấu
Có lần, tôi đọc một bài viết, tác giả của nó tỏ ra rất là thất vọng về thần tượng của mình, là ông, NHT.
Thành thực mà nói, tôi mừng cho cả hai, tác giả và độc giả.
Có vẻ như tôi đã chờ một bài viết như thế.
Liệu không có bài Giã Từ Thần Tượng đó, ông sẽ còn phải đeo gánh nặng “thần tượng” tới khi nào?
Phải chăng nhờ vậy mà có Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu?
Phản ứng về nó cho thấy, tác phẩm/tác giả có thay đổi, nhưng độc giả/cách đọc chưa thay đổi.
Nói chung, có vẻ như mọi người đều thất vọng về NHT, trừ… tôi ra!
Hình như tôi đoán trước được, một NHT như thế.

Tôi lấy thí dụ, nhận xét mới đây, của Dương Tường:
DT: Tôi cũng đồng ý với quan điểm của anh Nguyên Ngọc. Nhà văn chúng ta... dốt quá. Không chịu học, không chịu đọc, lại mang cái bệnh "ếch ngồi đáy giếng", mới "nho nhoe" lên một tý cứ tưởng mình nhất thế giới. Nguyễn Huy Thiệp khi mới bật lên cũng tưởng mình nhất thế giới, thực ra cỡ như Thiệp ở Ðức, Mỹ, Nhật, Pháp... cũng có thể... vơ hàng tá!
[Trích Talawas]. 

Nhà văn chúng ta... dốt quá thì đúng quá rồi. Nhưng cái chuyện viết hay hay không hay, nhất là ở những người viết truyện ngắn, theo tôi, không liên quan nhiều tới.. tri thức. Cần một con mắt quan sát, cần một tấm lòng - cần nhất là một tấm lòng - là đủ.
G. Lukacs, trong “Solzhenitsyn: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” (1969) [William David Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971] viết:
Liên hệ mỹ học giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường được phân tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai thể loại, trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their interrelationship throughout the course of literary development]. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học hiện thời [the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện ngắn [novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên văn: tiền thân, precursor] cho sự ra đời của hùng ca, sử thi, hay những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard], một cách viết ở tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là một Sẽ Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer, Nichtmerhr].

Áp dụng nhận xét trên vào Một Ngày...  của Solz., Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người.
[With this reservation, one can say of contemporary and near-contemporary fiction that it often withdraws from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of man’s moral stature.…..]

“Không phát hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến trình lại khám phá ra cái tôi, cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ nghĩa.” [Lukacs].

Truyện ngắn của NHT có gì tương tự với Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenisyn. Nó báo hiệu sự suy tàn của một chế độ, sự tận cùng của một thời kỳ [a termination at the end of a period, a No-Longer], và đồng thời nó đăng quang con người, như một cá nhân [lại khám phá ra một cái tôi, thí dụ như của NHT, của Bùi Ngọc Tấn, và nhất là, của Nguyễn Chí Thiện, một cái tôi như là tôi dám tự chọn cho tôi: nhà thơ ngục sĩ đời đời!

Hay như Nguyên Ngọc nhận xét về Nỗi Buồn Chiến Tranh, cùng trong bài viết trích Talawas nêu trên, của Bảo Ninh, có thể áp dụng cho NHT: 

"Theo tôi, nói một cách thật nghiêm khắc, từ Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta mới thật sự có tiểu thuyết hiện đại. Trước đấy, về cơ bản là sử thi, tức chiến tranh được soi nhìn bằng cái nhìn của cộng đồng, từ góc độ của dân tộc mà nhìn cuộc chiến tranh (Ðất nước đứng lên của tôi cũng vậy thôi). Ðến Bảo Ninh thì khác hẳn, lần đầu tiên chiến tranh được soi nhìn qua số phận của một cá nhân. Như vậy không hề có nghĩa là cái nhìn sau chống lại cái nhìn trước, nhưng đã là một cái nhìn khác hẳn. Ðiều này làm thay đổi hẳn ngôn ngữ của tiểu thuyết, từ độc thoại chuyển sang đối thoại, tức một giai đoạn mới trong tư duy tiểu thuyết." 

Tuy nhiên, thật khó mà đồng ý với nhận định, "không hề có nghĩa cái nhìn sau chống lại cái nhìn trước". Cái nhìn sau quyết liệt loại trừ cái nhìn trước, hay nói rõ hơn: cái nhìn trước là... bố láo! Cái nhìn sau mới là cái nhìn đích thật về cuộc chiến tưởng như là... thần thánh, nhưng thật sự chỉ là nồi da sáo thịt! 

Sự xuất hiện của NHT, hay của Bảo Ninh, là rất đặc biệt, và cần thiết, và thật khó mà nói rằng, "thực ra cỡ như Thiệp ở Đức, Mỹ, Nhật, Pháp... cũng có thể... vơ hàng tá".
Ở Đức, có, vào thời kỳ hậu chiến, với những nhà văn thí dụ như một Boll, nhưng ngược lại với Thiệp, họ nhục cái nhục thua trận, cái nhục Nazi, chứ không như Thiệp, nhục cái nhục thắng trận!

Ở Nga, có, như một Solzhenitsyn, khi ông tố cáo, và cùng lúc tiên đoán sự cáo chung, của Gulag. 

Cái nhìn trước là..."bố láo"..., G. Lukacs lịch sự hơn, khi dùng từ "minh họa". Ông viết, trò ma nớp thô bạo quá khứ chỉ là một sắc thái của trò ma nớp mọi hình tượng, hoàn cảnh, số mệnh, viễn tượng..  etc, nói ngắn gọn, đây là những tác phẩm của "văn chương minh họa" ["illustrating literature" - "Đất nước đứng lên" của tôi thì cũng như vậy, lập lại lời Nguyên Ngọc].

Áp dụng vào NHT và Bảo Ninh, chúng ta có thể nói rằng, không có NHT, sẽ không có những tác phẩm sau đó, thí dụ Cơ Hội Của Chúa, của Nguyễn Việt Hà. Nhân vật chính trong Chuyện Kể Năm Hai Ngàn, sở dĩ dám nhận mình là nhà văn, là bởi vì có người tên là NHT dám viết những truyện ngắn, thí dụ như Tướng Về Hưu. Đây mới chính là hồi chuông báo tử cho một nền văn chương minh họa, mà Nguyễn Minh Châu đã  từng mơ tưởng, ông sẽ là người đọc lời ai điếu.

[Chúng ta tự hỏi tại sao Nguyên Ngọc không thể nói "không" với cái nhìn trước đó, của lớp  người như ông, những người đã từng đặt niềm tin vào "cái nhìn cộng đồng" - đây là từ mới, để chỉ "tứ" cũ, cái nhìn của Đảng? Câu trả lời, dễ nhất, là ông không thể nói khác, và nhờ người khác, thí dụ như tôi, nói giùm. Câu trả lời thứ nhì, là của Lukacs, trong  bài viết "Chủ nghĩa Bôn sê vích như là vấn đề đạo hạnh" [bản tiếng Anh in trong The Lukacs Reader, do Arpad Kadarkay biên tập, nhà xb Blackwell, Oxford UK & Cambridge USA, 1995], qua đó, ông cho rằng: Quyền lực mê hồn [fascinating power] của chủ nghĩa Bôn sê vích, là nó giải phóng chúng ta ra khỏi tình trạng nhập nhằng giữa thiện và ác, xấu và tốt... Bởi vì, với những người Bôn sê vích, là giả dụ mang tính siêu hình này: cái tốt có thể phát sinh, được hoàn thành, từ cái xấu, bằng những phương tiện ma quỉ, và tự do có thể phát sinh từ bạo tàn, bạo quyền, bạo chúa..., và không hề có sự sửa sai đối với họ. Nếu có, là vì nhu cầu nhất thời, phải...  bịa đặt ra. Chính vì thế mà Nguyên Ngọc khẳng định, "không hề có nghĩa, cái nhìn sau chống lại cái nhìn trước". Nhờ cái nhìn "cộng đồng" trước, mà có cái nhìn "cá nhân" sau.]
Tuổi Bụi



Gấu có nhớ nhà không?

Gấu có cảm tưởng "tribute" đẹp nhất, có ý nghĩa nhất, của riêng Gấu, nhân dịp Solz ra đi, là hoàn tất những trang hồi ức về Lò Cải Tạo, như một “ứng tác”, improvisation, variation, à la manière de… Quần đảo Gulag!
Hà, hà!


Chữ "lùm xùm" ông dùng rất đắt, rất tượng hình, rất thích hợp để mô tả những điều đã khiến ông phải lên tiếng thêm một lần nữa. Một "cái gì đó" không có hình thù rõ rệt, sù sì, tua tủa, gai gai, vương vướng, chỉ muốn vứt đi, rẫy bỏ đi mà không biết làm thế nào và bắt đầu từ đâu! Nó khiến chúng ta loay hoay, và trong bài viết "Nói thêm một lần để không nói nữa" đã khiến Lữ Phương không chỉ loay hoay mà còn, bằng vào sự loay hoay của mình, làm cho mối "lùm xùm" trở nên tệ hại hơn nữa!
Nguồn

Nhà văn “hề tuồng” chắc là lần đầu được nghe biết đến từ “lùm xùm”, thành ra khen nức khen nở.
Đây là một từ rất thông dụng của Miền Nam đâu có ghê gớm gì đâu mà "lùm xùm"?
Trong số những từ đôi như thế, thí dụ, lầu bầu, lèo nhèo, bèo nhèo, lèm bèm… hay nhất, ấn tượng nhất, ngay cả với người Miền Nam, là những từ như “tèm lem”, “tèm nhẹp”… để tả cảnh khóc ngoài quan ải, làm dơ mình dơ mẩy, dơ quần áo em!
Chắc là PN chưa từng gặp cảnh này?
*
Có một dạo, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc gây xôn xao dư luận. Nhà văn nhận xét thế nào về quyển sách này và về tác giả?
- viết hay nhưng hỗn. Văn phong của cổ hơi cà rỡn. Cái nhìn trong “Cánh đồng bất tận” không rộng, nông dân ở đó không nhìn hẹp như thế mà mỗi cái họ đều có lý của họ. Ngọc thông minh, sẽ còn phát triển nữa nhưng cần người chỉ dẫn sau vụ lùm xùm về “Cánh đồng bất tận”.
Sơn Nam
Hỗn

Ông nhà văn PN khen ông VC nằm vùng LP sử dụng từ "lùm xùm", tuyệt chiêu: Một "cái gì đó" không có hình thù rõ rệt, sù sì, tua tủa, gai gai, vương vướng, chỉ muốn vứt đi, rẫy bỏ đi mà không biết làm thế nào và bắt đầu từ đâu!
Tuy nhiên, ông không biết ý nghĩa thực sự của nó, được Sơn Nam sử dụng, để chửi Nguyễn Ngọc Tư, như trên.
Từ cách dùng của ông già Nam Bộ này, chúng ta suy ra, "lùm xùm" là từ của một người lớn tưổi dùng để chửi đám nhỏ tuổi.
Tay VC nằm vùng LP này, cũng muốn làm cha thiên hạ, nên mới sử dụng từ "lùm xùm", trong bài viết của hắn. Ông nhà văn hải ngoại tưởng của bở, ôm lấy hôn hít, thổi nhặng xị, "lùm xùm" cả lên!
Ông nhà văn PN cần phải học lại tiếng Nam Bộ, theo Gấu



Tiền của Xịa

Gấu nhớ là, khi mới ra ngoài này, lần đầu tiên được một người quen cho biết, với vẻ mừng rỡ, anh đã được ghi tên vô văn học sử, rồi đưa cho coi cuốn Tổng Quan Văn Học của Võ Phiến, trong có nhắc tới Gấu. Đọc, thấy ông viết, “Tập sách này được hoàn tất là do sự giúp đỡ tài chánh của Uỷ ban Nghiên cứu Khoa học…" Gấu mừng quá, như vậy là hải ngoại đã có một cơ sở văn hóa Mạnh Thường Quân rồi.
Hóa ra không phải. Đây là tên một cơ quan của Mẽo.
Sau cứ nghĩ mãi về vụ, tại sao ông VP không dám nói huỵch toẹt, Mẽo cho tao tiền viết?
Chỉ một tí ti hỏng đó, mà hỏng cả đại cuộc!
Từ chỉ một tí ti “hỏng” đó, mà Brodsky phán: Mỹ là mẹ đạo hạnh!
*
Người tố Sáng Tạo lấy tiền của Xịa, là thi sĩ Nguyên Sa. Bạch hoá là đúng, là tự nhiên, nhưng bạch hoá do thù oán, do nghỉ chơi với nhau, bèn tố cáo nhau, thì không tự nhiên.
Mẽo đưa tiền cho Mai Thảo, như sau này chúng ta biết. Giá mà ông lo tờ báo, thì thật tuyệt, nhưng ông lo bao gái nhiều hơn lo làm báo. Thành thử báo chết.
Người đích thân cầm tiền của Xịa, chứ không phải Mẽo chung chung, để làm việc thiện, giải phóng đất nước Tây Tạng, là Đức Phật Sống Dalai Lama.
Trên Người Nữu Ước có một bài, lâu rồi, về vụ này. Gấu kiếm không thấy, trong ‘thư viện riêng’, nhưng lại kiếm thấy bài của tay Jonathan Mirsky, trên NYRB, 10 June, 1999: Đức Phật Sống Dalai Lama nói về sự kế vị, và về CIA.
Tên của Ngài có trong payroll của Xịa. Mỗi tháng Xịa chi cho Ngài 15.000 đô Mẽo, tới cuối 1974 thì ngưng.

Tác giả bài viết hỏi Phật Sống, lấy tiền của Xịa như vậy có hại không [Was the CIA connection a harmful one?]. Ngài nói, làm sao không [Yes, that is true]. "Một khi Mẽo đổi chính sách đối với Trung Quốc, là họ chấm dứt chi tiền".
Đúng y chang chính sách của Mẽo tại Việt Nam. Một khi Mẽo nói chuyện với TQ, là họ bỏ VN. Lúc đó, Israel đang rất cần viện trợ.
Mới đây thôi, đọc báo trong nước, cũng nói chuyện Mẽo bật đèn xanh cho VC Miền Bắc lấy Miền Nam, trong cuộc gặp gỡ ở Bắc Kinh, giữa Kissinger và Mao [Trên NYRB có bài viết rõ về vụ này].
Giả như chưa có cái vụ đi đêm đó, chưa chắc Mỹ dám bỏ Miền Nam.
Thảm thật.
Đức Phật Sống nói tiếp, Ngài rất biết ơn Xịa. Không có họ là Ngài không thể nào ra hải ngoại được.
Tuy nhiên vụ Ngài vượt thoát, không phải do Xịa tổ chức, như tác giả bài báo cho biết. Hoàn toàn do kháng chiến Tây Tạng.
*
Người đầu têu cái vụ lập ra cả một policy lấy tiền Mẽo để viết văn chống Cộng, theo kiểu Mai Thảo, Võ Phiến, và trên toàn thế giới, là...  Koestler.
Milosz có một entry, trong cuốn ABC của ông, về đòn Mộ Dung Cô Tô áp dụng vào thực tế Âu Châu thời kỳ mê phải bả CS sau Cuộc Chiến Lớn, Tin Văn sẽ giới thiệu, khi có thì giờ!

Tuy nhiên, bảnh nhất, là tờ HL, vừa lấy tiền của VC, vừa của Xịa. Thế mới ghê! (1)

(1) Tiền của VC, là danh sách độc giả báo dài hạn, của đám bỏ chạy biếu KT, làm vốn lận lưng. Tiền của Xịa, theo một bạn văn rất đáng tin cậy của Gấu, là hai ngàn Mẽo, đưa cho NT, khi mới ra lò.
Note: Không phải hai ngàn, mà hơn. Hai ngàn, là cho tờ TC, nhưng đám này lắc đầu, theo như NTV, sau khi hỏi TDT, cho biết.

Lúc đó, VC quá cần một tờ báo hải ngoại, do một tên Ngụy chính cống Bà Lang Trọc đứng mũi chịu sào. Được anh lính khùng KT, mừng quá. Ông này, hồi chiến tranh, đói quá, đầu quân, "làm lính mà thôi", chắc bị mấy tay sĩ quan VNCH đì quá, thế là thù còn hơn thù VC, lại thêm i tờ rít, thuộc loại vô danh, bỗng chốc nổi như cồn, "vượt giai đoạn, vuợt thời của mình, bắt tay với VC, giao lưu hòa giải, xoá bỏ hận thù..." Tuyệt!
Chẳng thế VL từng gọi KT là Tân Xuân Tóc Đỏ của thời đại! (1)
(1) Vui thôi mà! NQT


Có người tu hang Pắc Bó

ta nhớ mùi sình kênh nhiêu lộc
nơi mẹ ta ngộ độc thuốc trừ sâu
bãi rau muống xanh như là cách mạng
còn mẹ ta đời vẫn thế... nát nhàu...
DTQ
Phê bình: Rau muống xanh nhưng rẻ không được so sánh với cách mạng. Tại sao không so sánh với thứ nuôi dưỡng rau muống mà lại so sánh với rau muống, dụng ý gì?
NQL


Ngoại ô đèn vàng

Trong “Bẩy ngọn đèn của kiến trúc”, John Ruskin dành nhiều trang của chương “Hồi nhớ” cho những vẻ đẹp kiến trúc, do tính ngẫu nhiên “tình cờ” của nó, ngược vẻ đẹp đặc biệt của những hình thức cổ điển, vốn có tính chi ly dàn dựng. Vì vậy, ông dùng từ “đẹp như tranh” [picturesque] để miêu tả một phong cảnh kiến trúc, một vẻ đẹp trở nên đẹp theo dòng thời gian, theo một đường hướng mà chính kẻ sáng tạo ra nó cũng không đoán trước được. Theo Ruskin, “đẹp như tranh”, là nhờ những chi tiết, và những chi tiết này chỉ lộ ra, khi tòa nhà trải qua hàng trăm năm, qua bao mùa mưa gió, trơ gan cùng tuế nguyệt, giữa đám cỏ dại, những chùm giây leo, những cánh đồng cỏ, và những rong rêu của thời gian, những trải dài của thiên nhiên (những sóng biển, những mây bay, những sỏi, những đá, những trời xanh nơi em về, tất nhiên, làm sao không?). Bởi vậy, làm gì có vẻ đẹp kiến trúc ở nơi tòa nhà còn thơm mùi vôi vữa? Một tòa building mới tinh như thế đó, phải đợi hàng trăm năm mới tới thời của nó. Nó chỉ trở nên đẹp như tranh, khi lịch sử ban cho nó vẻ đẹp "tình cờ, ngẫu nhiên" và bảo đảm cho chúng ta một viễn ảnh mới.