gau
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

CHUYỂN NGỮ
Ảnh hưởng
1 2


Ảnh hưởng [3]

Trong cuốn tiểu thuyết Haroun và Biển Chuyện, Hanoun and the Sea of Stories, một cậu bé sau chót đã tới được vuơng quốc biển cả của sự tưởng tượng, mà tay hướng dẫn viên đã mô tả như sau:

Cậu bé nhìn xuống nước và thấy nó do ngàn ngàn con nuớc khác nhau tạo thành, mỗi con nước có một mầu khác nhau, chúng đan trộn, xoắn xuýt vào nhau như một tấm thảm bằng chất lỏng thật là đa đoan, phức tạp đến ngỡ ngàng, nghẹt thở, và Iff giải thích, những con nước đó là Những Suối Chuyện, mỗi một con mầu như thế chỉ chứa Một Câu Chuyện. Những vùng biển khác nhau chứa những vùng chuyện khác nhau, và, người ta có thể tìm được ở đó đủ thứ chuyện đã được kể ra từ đời nào thuở nào, hoặc còn đang được bịa đặt; Biển Chưyện như thế đó thực ra là thư viện lớn lao nhất của vũ trụ. Và bởi vì chuyện được gìn giữ tại đây dưới dạng lỏng, cho nên chúng có khả năng thay đổi, trở thành bản khác, hay nhập vào chuyện khác để trở chuyện mới. Hơn nữa, khác hẳn thư viện sách, Biển Chuyện còn giống một nơi dự trữ những chuyện ký. Nó sống, không chết.

Trong khi sử dụng chất liệu cũ, thêm vào đó cái còn sống, còn tươi, người ta làm ra cái mới. Trong cuốn Quỉ Thi, tôi tìm cách trả lời câu hỏi: Cái mới từ đâu tới với thế gian này? Ảnh hưởng - cái dòng trơn tuột, tuồn cái cũ vào cái mới - là một phần của câu trả lời.

Trong Những Thành Phố Vô Hình, Italo Calvio miêu tả thành phố thần tiên Octavia, treo lơ lửng giữa hai quả núi, giống như một thứ mạng nhện. Nếu ảnh hưởng là cái mạng nhện trên đó chúng ta treo tác phẩm của mình, nếu như vậy, thì thế giới này chính là thành phố thần kỳ Octavia, đích thị nó, bảo vật lóng lánh về một thành phố mơ mộng, đong đưa trên mạng nhện, và cứ đong đưa như thế mãi, một khi mạng nhện còn mang nổi sức nặng của nó.

 ****

 Lần đầu gặp Calvino, là khi tôi được yêu cầu giới thiệu một bài đọc của ông tại Riverside Studios ở Luân Đôn, đầu thập niên 1980. Cuốn “Nếu vào một đêm hè, một khách du lịch” [If on a Winter’s Night a Traveler] của ông vừa được xuất bản tại Anh và tôi vừa làm một bài tiểu luận dài về tác phẩm của ông trên tờ Điểm Sách London. Của đáng tội, đây là một trong những bài viết nghiêm trang, sớm sủa nhất về ông, xuất hiện trên báo chí Anh. Tôi biết, Calvino thích bài viết đó, tuy nhiên, tôi cảm thấy không được thoải mái, khi nói về ông, mà lại có ông ở đó. Sự không thoải mái càng tăng, khi ông muốn được coi bài giới thiệu của tôi, trước khi ông chường mặt ra trước công chúng. Tôi phải sử sự như thế nào, nếu ông tỏ ra không khoái nó?

 Ông ta im lặng đọc, hơi nhíu mày, đưa lại cho tôi, và gật gật cái đầu. Hiển nhiên là tôi đã qua được cuộc hỏi cung, đặc biệt là, ông tỏ ra hài lòng, khi tôi so sánh tác phẩm của ông với của một nhà văn cổ điển Lucius Apulius, tác giả cuốn The Golden Ass [Con Lừa Vàng]

 

“Cho tôi một xu, và tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện thật là hay ho”, những người kể chuyện Milesian vẫn thường nói như vậy. Và những câu chuyện của Apulius về sự biến hình đổi dạng, là đã sử dụng phương cách thần kỳ của những tay kể chuyện cổ xưa, những câu chuyện của họ làm người nghe há hốc miệng, như muốn nuốt chửng hết tất cả. Calvino cũng có được cho ông cái đức kể chuyện này, và nhờ nó, ông kể thật là cừ, ở một trong những tác phẩm mới đây nhất của ông, “Sáu lời nhắc cho tân thiên niên kỷ” [Six Memos for the Next Millennium]: nhẹ như lông hồng, nhanh như cắt, chính xác như hai cộng hai là bốn, rõ như ban ngày, và rôm rả như thể trăm hoa đua nở, nhà nhà đua tiếng. Những đức tốt này luôn ở trong đầu tôi, khi viết Haroun và Biển Chuyện.

Tuy cuốn tiểu thuyết nằm trong dạng những cuộc phiêu lưu kỳ quái của một đứa trẻ, tôi muốn, làm thế nào, có một cách nào, xoá đi sự phân chia giữa văn chương nhi đồng và những cuốn sách dành cho người lớn. Nói cho cùng, đây là vấn đề làm sao tìm cho được đúng cái giọng kể của nó, và Apuleius và Calvino đã giúp tôi tìm ra nó. Tôi đọc lại bộ tiểu thuyết lớn gồm ba cuốn của Calvino, The Baron in the Trees, The Cloven Viscount, và The Nonexistent Knight, chúng cho tôi những chìa khoá tôi cần. Bí mật được bật mí: hãy sử dụng ngôn ngữ chuyện cổ tích, trong khi cố làm sao đừng vướng vào cái giọng làm ra vẻ đạo đức một cách dễ dãi, rẻ tiền.

Mới đây, tôi lại nghĩ về Calvino. Lời nhắc nhở thứ sáu, trong những nhắc nhở dành cho tân thiên niên kỷ của ông là về vấn đề “kiên định” [consistency: kiên định, tin cái gì thì cứ thế mà theo, không làm sao nghĩ khác đi được]. Kiên định là thiên tài đặc dị của tay Bartleby the Scrivener của Melville, người hùng khó hiểu này chọn cho mình một cách ở đời: tốt nhất là đừng. Bạn có thể thêm vào đó, Michael Kohlhaas của Kleist, hay Nigger of the Narcissus, của Conrad. Tay này luôn luôn nhắc nhở, rằng thì là, mình phải sống cho tới khi mình chết, hay là người hùng chuyên môn uýnh lộn với những quái vật, là những cối xay gió, tức nhân vật nghĩa hiệp khùng Quixote, hay anh chàng Đo Đạc Đất của Kafka, hít hà hoài về phía Toà Lâu Đài chẳng làm sao tới được.

Chúng ta nói tới kiên định mang tính sử thi, nó là một ám ảnh đẩy tới bi kịch hay huyền thoại. Nhưng kiên định còn được hiểu từ cái phần âm u của nó, thí dụ như hình ảnh Ahab, khùng điên với chính mình, trong cuộc truy đuổi tàn sát chú cá voi trắng, hay của Savonarola, kẻ đốt sách, hay Khomeini, khi định nghĩa cuộc cách mạng của ông là một cuộc nổi loạn chống lại lịch sử, chính nó.

Càng ngày tôi càng thấy mình bị cuốn hút vào giá trị của ghi chú thứ sáu của Calvino, vốn chưa được khai phá. Tân thiên niên kỷ đang đè lên chúng ta những bóng đen kiên định, với tất cả những dấu hiệu của nó: những tay chùm chăn hạng thầy, những đệ tử khùng của Quixote, những tên đầu óc bé tí bằng sợi tăm, những con ông cháu cha, bè phái, những ông tự ban cho mình là hiệp sĩ của chân lý. Nhưng vào lúc này, tôi như đang làm đúng cái điều mà David Malouf cảnh cáo – nghĩa là, tôi đang loay hoay bàn về bản chất của chính công việc viết lách của tôi, vừa phôi thai, vừa mỏng manh [bởi vì chưa thành hình]. Vì vậy, tôi phải ngưng tại đây, và hài lòng với chính mình, về ảnh hưởng của Calvino - sự giúp đỡ, khuyến khícha ông, trong những tác phẩm đầu tay, và ảnh hưởng này vẫn tiếp tục ngân lên ở trong tôi.

Tôi cũng phải nói thêm là, ngoài Cavino, còn rất nhiều nghệ sĩ, cả của Rome thời cổ điển lẫn của Ý thời hiện đại, họ luôn luôn hiện diện trên vai tôi. Khi viết cuốn Shame [Xấu Hổ], tôi đọc lại bản nghiên cứu lớn lao về mười hai vị César, của Suetonius. Tôi như nhìn thấy họ, những hoàng đế của La Mã đó, trong những cung điện của mình, khùng điên vì ngai vàng, vì quyền lực, vì dâm đãng, kẹt cứng vào âm mưu hãm hại, đâm chém lẫn nhau. Chỗ này, là một âm mưu, chỗ kia, là một đảo chánh, tuy nhiên, chẳng có gì vượt quá những bức tường cung điện; chẳng có gì thay đổi ở phía bên ngoài những bờ tường của nó. Quyền lực là chuyện trong gia đình. Cung Điện vẫn luôn luôn là Cung Điện.

Tôi học được rất nhiều, từ Suetonius, về bản chất ngược ngạo của quyền lực, ở những tinh hoa bậc thầy của chúng, và tôi đã sáng tạo ra cho chính tôi, và những độc giả của mình, một ông trùm quyền lực Pakistan, ở trong Shame: một ông trùm tắm đẫm hận thù và máu trong những vụ giết chóc, nhưng lại bị trói chặt bởi những liên hệ về huyết thống, bà con, hôn nhân, và sự kiện mấu chốt, quan trọng nhất ở trong cuốn sách của tôi: ông trùm đã tìm cách chan hòa quyền lực tới toàn cõi bà con họ hàng, trên toàn lãnh thổ của ông ta. Với nhân dân, chẳng có một quyền lực, họ là khán thính giả, trong cuộc đấu đá, tranh ăn giữa những ông trùm lớn nhỏ đó. Cung Điện vẫn tiếp tục cai trị, nhân dân vẫn tiếp tục rên xiết dưới gót giầy của nó.

Nếu Suetonius ảnh hưởng Shame, thì Quỉ Thi - một cuốn tiểu thuyết mà đề tài chính của nó là sự hóa thân, đã ảnh hưởng rất nhiều từ Ovid; còn Đất Dưới Chân Nàng, The Ground Beneath Her Feet, là được nuôi dưỡng bởi huyền thoại Orpheus và Eurydice, trong khi đọc Georgics, của Virgil, là chính, và thật là thiết yếu, không có không được. Về một cuốn sách nào đó của tôi, trong tương lai, có thể là nó sẽ bị ảnh hưởng bởi Florence, như tôi hiện đang bận rộn, và sững sờ bởi một Florence của thời Renaissance, nói chung, và bởi nhân vật của Nicolòs Machiavelli, nói riêng.

Cái việc biến Machiavelli thành một con quỉ làm tôi ngỡ ngàng, đây là một trong những màn vu khống thành công nhất của lịch sử Âu Châu (1). Trong văn chương Anh, thời hoàng kim Elizabeth của nó, có chừng trên bốn trăm qui chiếu về Machiavelli, chẳng có cái nào ra hồn. Vào lúc này, chưa hề có một tác phẩm nào của Machiavelli được dịch sang tiếng Anh; những nhà viết kịch Anh bèn dựa vào một bản dịch tiếng Tây, The Anti-Machiavel, để tạo ra những chân dung quỉ của họ. Cái mặt nạ hắc ám vô đạo đức mà họ sáng tạo ra cho Machiavelli vẫn tiếp tục làm u tối danh tiếng của vị thầy. Là một “văn hữu” của ông, bản thân cũng có chút kinh nghiệm về quỉ hoá, tôi cảm thấy đã đến lúc thẩm định lại một Florence đã bị tổn hại.

Tôi cố trình bầy sơ lược, điều gọi là hiện tượng thụ phấn, sự ảnh hưởng lẫn nhau về văn hóa. Không có nó, văn học sẽ chỉ mang tính tỉnh lẻ, địa phương. Trước khi kết luận, cho phép tôi được vinh danh thiên tài điện ảnh Federico Fellini. Tôi đã học được từ những phim của ông, coi từ thuở mới lớn, là, làm cách nào chuyển hóa những kỷ niệm, những nguyên liệu thật dũng mãnh của tuổi thơ và của cuộc đời riêng tư của mình, thành chất liệu cho một tác phẩm lớn lao, và quá nữa, thành huyền thoại. Tôi cũng xin được vinh danh những bậc thầy Ý khác như là Pasolini, Visconti, Antonioni, De Sica, và còn nhiều, nhiều nữa, bởi vì ảnh hưởng và sự kích thích do đọc người khác mà sáng tạo ra cái của mình, là không bao giờ chấm dứt.

NQT dịch giới thiệu
Đính chính:
(1)
Câu "The demonization of Machiavelli strikes me as one of the most successful acts of slander in European history": Cái việc biến Machiavelli thành một con quỉ làm tôi ngỡ ngàng, đây là một trong những màn vu khống thành công nhất của lịch sử Âu Châu - câu này tôi, NQT, dịch sai, đã sửa lại, sau khi đối chiếu với bản hiệu đính trên talawas.

Nguyễn Tiến Văn dịch là: Việc ma quỉ hóa Machiavelli vẫn chấn động tôi như là một trong những hành vi phỉ báng thành công nhất trong lịch sử Âu Châu.
Anh giải thích thêm, câu này còn hàm ý, chuyện liên quan tới chính bản thân Rushdie, qua tác phẩm Quỉ Thi. Rushdie chẳng đã từng bị Hồi giáo coi là quỉ, khi "phỉ báng" đạo Hồi?

Câu hiệu đính của Trịnh Hữu Tuệ trên talawas: Tôi thấy rằng việc bôi nhọ Machiavelli là một trong những hành động vu khống thành công nhất trong lịch sử Âu Châu.
Cám ơn anh Trịnh Hữu Tuệ.
NQT