Influence
Ảnh Hưởng
[Bài đọc
tại Đại Học Turin]
Salman
Rushdie
Tiểu
thuyết gia và còn là thi sĩ
người Úc, David Malouf nói với chúng ta rằng, "kẻ thù đích thực của
viết,
là nói". Ông đặc biệt cảnh báo những hiểm nguy cái miệng "hại"
cái tay, nghĩa là bù lu bù loa trong khi rị mọ viết. Khi viết, tốt nhất
bạn nên
mím chặt miệng lại, như vậy mấy con chữ mới theo nhau mà ra, không phải
từ
miệng, lẽ tất nhiên, mà từ mấy kẽ tay. Bạn xây con đập trên sông lời,
the river
of words, và tạo ra thuỷ điện văn chương, the hydroelectricity of
literature.
Do vậy,
tôi đề nghị với các bạn,
tôi sẽ nói, không phải về viết, mà những gì tôi đã đọc, và đặc biệt
những mầy
mò trong cõi văn Ý, (và tôi phải nói thêm, phim ảnh Ý), nhờ vậy mà hiểu
được
làm sao viết, và viết cái gì .
Rõ hơn,
tôi muốn nói về ảnh
hưởng.
"Ảnh
hưởng". Từ này, tự
thân, nói lên một điều gì trơn chảy, một cái gì "tuồn vô". Đúng là
vậy, và đây là do tôi vẫn thường nhìn thế giới của sự tưởng tượng,
không phải
như đại lục, mà là biển cả. Bồng bềnh phiêu bạt, sợ hãi đấy, nhưng thật
là tự
do, không biết đâu là bến, là bờ, trên ngàn ngàn biển lạ, và nhà văn,
với hai
bàn tay trần, cố nắm bắt chức năng kỳ ảo của sự biến hoá. Như một nhân
vật
trong một câu chuyện thần tiên, tuồn rơm rạ qua kẽ tay và biến chúng
thành vàng,
nhà văn trải biển cả qua kẽ tay, cho tới khi nó biến thành đất liền; rõ
hơn,
cho tới khi, bất thình lình, quanh anh
ta, mới đó còn là "trơn tuột", đột nhiên biến thành "cưng
cứng", một hình dáng, một vật thể bỗng hiện ra ở một nơi trước kia vẫn
vô
hình vô dạng; bỗng nhiên, dưới chân anh ta, là đất cát, thay vì biển
cả. (Và
nếu anh ta thất bại, thì có nghĩa là anh ta chết đuối, chứ còn gì nữa.
Câu
chuyện ngụ ngôn này "tuyệt" không thể chê vào đâu được).
Nhà văn
trẻ, có thể ngần ngại, có
thể ham hố, có khi còn ôm cả hai, bèn ngó ngược ngó xuôi, bớ người ta,
giúp tôi
[cứu tôi] viết với; và nhìn thấy, mịt mù trong cõi trên trời, dưới biển
mênh
mông, hình như có cái gì chăng chắc, cưng cứng, giống như những sợi dây
thừng,
của những người bơi lội, những tay phù thuỷ đã từng bơi theo kiểu này,
trước
anh ta. Vâng, anh ta có thể sử dụng những cái "tuồn vô" đó. Như những
cái phao, anh ta ôm lấy nó, xây dựng tác phẩm, của chính mình, quanh
nó. Vào
lúc này, anh ta hiểu rằng, anh ta sẽ sống sót. Hăm hở, chàng bèn bắt
đầu!
Một trong
những cái thú của ảnh
hưởng trong văn chương, là, những dòng ý thức của những người khác đó
[của
những "ông thầy"] chúng có thể tuồn vô nhà văn [đệ tử] từ bất cứ nơi
nao. Thường là, chúng du lịch đường dài, tới với bạn từ xa thật xa,
chúng đi
tìm bạn, tìm người có thể sử dụng chúng.
[Kinh
nghiệm riêng: Ông thầy của
Gấu tôi, như đã nhiều lần nhắc tới, là nhà văn Mẽo, William Faulkner.
Nhưng
không phải ông này đi kiếm Gấu, mà Gấu cũng không biết tới ông này, nếu
không
có người giới thiệu. Một cách nào đó, có thể nói, người giới thiệu
Faulkner với
Gấu là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.
Nhà thơ
đàn anh dậy vị chi có
hai, nhưng đúng là hai tuyệt chiêu. Chiêu thứ nhất, ông phán, đừng sợ
sai, sai
thì sửa, và viện dẫn kinh nghiệm đọc và viết của Nguyễn Đình Thi, khi
thằng em
tập tành đọc, dịch và viết. Chiêu thứ hai, liên quan tới việc tìm thầy
học đạo.
Ông
khuyên, cậu thấy đấy, sách vở
như rừng, biết đọc cuốn nào, ông bà nhà văn nào... Nhưng rừng thì rừng,
có thứ
rừng nhiệt đới, hợp với tạng của mình. Văn chương, hằng hà sa số như
thế, nhưng
để ý, có những dòng, những luồng. Trước hết, phải đọc, đọc thật nhiều,
và cũng
đừng phân chia, đừng đánh giá, cứ đọc, đọc, đọc, và tới một ngày nào
đó, thấm,
và đột nhiên nhận ra, ông nào là thầy của mình, theo nghĩa, dòng văn
nào, hay
nói theo Rushdie, sợi dây thừng nào hợp với mình. Tuy Gấu tôi tự mình
kiếm ra
ông thầy William Faulkner, nhưng là qua sự chỉ đường mách lối của ông
anh. Hai
tuyệt chiêu ông dậy đúng là hai sợi dây cứu mạng cho một thằng bé, chưa
hề tập
bơi, ở trong cái biển cả văn học mà Rushdie ví von].
Tại
Nam
Mỹ, tôi ngạc nhiên về
chuyện, những nhà văn Mỹ châu La tinh tỏ ra rất thân quen với nhà văn
Nobel văn
chương Bengali, Rabindranath Tagore. Nhà biên tập Victoria Ocampo, vốn
đã gặp
và rất ái mộ Tagore, sau đó tìm mọi cách cho tác phẩm của ông được dịch
thật
tới nơi tới chốn, và được xuất bản rộng rãi trên toàn lục địa của bà,
kết cục,
ảnh hưởng của Tagore có lẽ còn lớn hơn ở ngay chính quê hương của ông,
nơi mà
những bản dịch từ tiếng Bengali ra rất nhiều ngôn ngữ khác của Ấn Độ,
thường
rất tồi, và thiên tài của con người vĩ đại này, đồng bào của ông đành
phải hồ
hởi chấp nhận, và tin cậy, rằng nó là như thế đấy!
Một thí
dụ khác, là nhà văn người
Mỹ, William Faulkner. Nhà văn lớn lao này vốn không được người Mẽo của
ông đọc,
vào những ngày này. [Nên nhớ, người Pháp, và sau đó, là thế giới -
trong cái
cộng đồng thế giới có Gấu tôi - đã khám phá ra Faulkner, và trao ông
giải
thưởng Nobel văn chương. Ngay cả khi ông được Nobel, tờ Nữu Ước thời
báo còn cảnh
cáo người đọc, đừng tưởng ở nước Mẽo đâu đâu cũng xẩy ra nạn kỳ thị da
đen, và
nạn loạn luân, như được miêu tả ở trong những tác phẩm của Faulkner].
Chắc chắn
rồi, có một hai ông nhà văn Mẽo đương thời tự nhận họ ảnh hưởng
Faulkner, và
coi ông ta là thầy. Một lần, tôi hỏi một nhà văn cũng thuộc loại bảnh
của miền
nam nước Mỹ, Eudora Welty, rằng liệu Faulkner có giúp bà tí ti nào
không, bà
trả lời, không là không, một tí cũng không. "Cứ như thể có một ngọn núi
to
tổ bố ngay ở bên hàng xóm. Thật cũng tốt, rằng ngọn núi sừng sững ngay
kế bên
như thế, nhưng ‘nó’ chẳng giúp đỡ được gì trong việc viết lách". Ôi
chao,
trong khi đó, ở bên ngoài nước Mẽo - ở Ấn Độ, Phi Châu, và ngay cả ở Mỹ
châu La
tinh - với những nhà văn địa phương, Faulkner là nhà văn “năm bơ oăn”
của Mẽo,
một cái giếng sâu đầy hứng khởi, múc hoài còn hoài. Người cầm tay bạn,
dậy,
bảo, ban cho bạn khả năng viết. Người mở cửa mời bạn vào trong cõi văn
chương.
[Lạ
một điều Rushdie không nhắc tới nước Pháp,
trong khi đây mới là quốc gia khám phá ra Faulkner. Không hiểu ông có
đọc những
bài viết tuyệt vời, thí dụ của Sartre, của Malraux, hay của Camus... về
Faulkner, có nghe tới Maurice Edgar Coindreau, chuyên gia dịch
Faulkner, hay có
đọc nhà văn Nobel Pháp, Claude Simon, một "đệ tử" của Faulkner, những
câu văn "cul-de-sac" (ngõ cụt, tuyệt lộ) trong Những Con Đường
Flandres của ông, là từ Faulkner mà ra.
Tình cờ giở một tờ Ngưòi Nữu
Ước cũ, Tin Văn gặp một bài viết về nữ văn
sĩ Eudora
Welty này, mà
tác giả bài viết, Claudia Roth Pierpont, gọi là một Phu Nhân Tuyệt Hảo
[a Perfect Lady] của miền nam, một thứ "patron saint" của Mississipi.
Xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay vào năm 26 tuổi, và trở thành một
"monument", của tiểu bang Mississipi. Giải văn chương Pulitzer, huy
chương Tự Do của tổng thống, tên của bà trở thành tên thư viện thành
phố quê hương, ngày sinh là ngày lễ của tiểu bang... một thứ của hiếm
mà miền nam dâng tặng cho Mẽo quốc [a living exemplar of the best that
a quaint and disappearing Southern society still has to offer].
Chúng ta tự
hỏi tại làm sao Faulkner lại bị quê hương Mẽo của ông ít
đọc. Theo Gấu tôi, lý do là, Faulkner có thể là người đầu tiên la to:
Yankees go home!, và sau này cứ thế vang động trên toàn thế giới, nhất
là vào những ngày chiến tranh Việt Nam, và bây giờ, tại Iraq....
và
để gửi đi từ
phương
này một tiếng nắng reo vì
bạn
cứ hay chào tạm biệt bằng
câu:
“Gửi cho chút nắng Sài gòn”.
Nguyễn thị Khánh Minh: Buổi sáng đọc báo
Một giấc mộng, dù lớn
lao dù
lý tưởng cỡ nào, cũng không thể làm sống lại, chỉ một sợi nắng Sài-gòn:
Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở
trong
tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo
đường cũ
xưa, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với thành phố, bởi cái
phần đời đó
mới đáng kể.
Lần Cuối Sài Gòn
Đây
cũng là lý
do, theo một ông bạn văn của Gấu, giải thích, về trường
hợp Gấu tui xin làm đệ tử Faulkner:Trong tiềm thức của mi,
vẫn ẩn tàng một tên Yankee [Bắc quân] xâm lược, và mi cảm thấy nhục nhã
vì thế,
ngay từ những ngày đầu được nắng miền nam sưởi ấm.
Đây là điều
Rushdie không nhận ra, khi giải thích tại sao Faulkner lại
là ông thầy của nhiều nhà văn, thí dụ như Garcia Marquez, và được rất
nhiều độc giả từ rất nhiều quốc gia trên thế giới tìm đọc: Trừ ở Mẽo.]
Từ
sự
kiện, có chuyện ảnh hưởng
xuyên qua rào cản văn hóa, ngôn ngữ, chúng ta có thể suy ra một điều,
về bản
chất của văn chương: rằng (hãy cho phép tôi tạm quên đi cái ẩn dụ nước
nôi trơn
tuột ở trên), những cuốn sách có thể sinh
ra từ những bào tử, được gió mang đi khắp nơi,
hay là từ những gốc
rễ đặc biệt, mang tính địa phương, vốn bám chặt lấy từng tác giả. [Gấu
tôi tự
hỏi làm sao cái chất miền nam của Faulkner lại có ở trong những truyện
ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư chẳng hạn, và Rushdie bèn trả lời], có những họ hàng
quốc tế của
những từ ngữ, cũng như những bộ lạc rất thân quen gần gụi, về đất cát,
và về
máu mủ. Đôi khi - thí dụ như trường hợp ảnh hưởng của James Joyce lên
chính tác
phẩm của Samuel Beckett [hai người đều là dân Ái Nhĩ Lan], rồi tiếp
liền đó, là
ảnh hưởng của Beckett lên tác phẩm của Harold Pinter với cùng một mức
độ như
của Joyce lên Beckett - chúng ta có cảm tưởng về một triều đại vua chúa
tiếp
nối nhau, hay một ngọn đuốc chuyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, thật
rõ ràng,
và cũng thật mãnh liệt. Trong những trường hợp khác, những nối kết quen
quen
như thế tuy không hiển nhiên bằng, nhưng chưa chắc đã kém phần ác liệt.
NQT
dịch giới thiệu