Salman Rushdie
Ảnh hưởng
Bài đọc tại Đại học Torino
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Trịnh Hữu Tuệ hiệu đính
Tiểu thuyết gia và thi sĩ người Úc David Malouf nói với chúng ta rằng
"kẻ
thù đích thực của viết là nói”. Ông đặc biệt khuyên tránh nói về các
tác phẩm
dang dở. Lúc đang viết thì tốt nhất là nên câm mồm, như vậy chữ mới
theo nhau
mà ra, tất nhiên không phải từ miệng, mà từ ngón tay. Bạn xây con đập
trên sông
lời, the river of words, và tạo ra thuỷ điện văn chương, the
hydroelectricity of literature.
Do vậy, tôi xin được nói, không phải về những gì tôi đã viết, mà về
những gì
tôi đã đọc, và cụ thể là về những cách khác nhau mà kinh nghiệm đọc văn
Ý (và
phải nói thêm là cả kinh nghiệm xem phim Ý) đã định hình những gì tôi
nghĩ cũng
như phong cách và nội dung những gì tôi viết. Nghĩa là tôi muốn nói về
ảnh
hưởng.
"Ảnh hưởng". Bản thân từ này làm ta liên tưởng đến chất lỏng, đến sự
"chảy vào" hay “trôi đến”. (1).
Tôi cảm thấy điều này đúng, kể cả nếu chỉ vì
tôi vẫn luôn hình dung thế giới của trí tưởng tượng không phải là một
châu lục,
mà đúng hơn là một đại dương. Bồng bềnh trôi dạt và tự do một cách rùng
rợn
trên mặt biển vô bờ bến, nhà văn, với hai bàn tay trần, muốn làm phép
biến hoá.
Như nhân vật trong cổ tích phải kéo rơm thành vàng, nhà văn phải tìm
được cách
bện nước thành đất liền; cho tới khi thình lình xuất hiện sự vững chắc
nơi
trước đây chỉ có dòng chảy, hình thái nơi trước đây chỉ có hỗn độn; cho
tới khi
dưới chân anh là đất rắn. (Và nếu thất bại thì tất nhiên anh sẽ chết
đuối. Ngụ
ngôn là hình thức văn học tàn nhẫn nhất).
Nhà văn trẻ, có thể rụt rè, có thể đầy tham vọng, có khi cả hai, nhìn
quanh tìm
người đến cứu; và thấy lấp ló trong sóng biển cái gì đó chăng chắc
giống như
những sợi dây thừng, những tác phẩm của các nhà bện nước tiền bối,
những tay
phù thuỷ đã từng bơi lối này trước anh. Vâng, anh có thể sử dụng những
cái
"trôi đến" đó. Anh có thể ôm lấy chúng, xây dựng tác phẩm của mình
quanh chúng. Vào lúc này, anh biết là sẽ sống sót. Và anh hăm hở bắt
tay vào
việc!
Một trong những đặc điểm kỳ thú nhất của ảnh hưởng văn chương, của
những dòng
chảy ý thức đầy hữu ích từ người khác, là chúng có thể trôi đến với nhà
văn từ
bất cứ nơi nào. Thường thường chúng vượt qua những chặng đường dài để
tìm đến
với người có khả năng sử dụng chúng. Tại Nam Mỹ, tôi đã ngạc nhiên khi
thấy
những nhà văn Mỹ La tinh biết rất rõ về nhà văn Bengali được giải
Nobel,
Rabindranath Tagore. Nhà biên tập Victoria Ocampo, vốn đã gặp và rất ái
mộ
Tagore, đã thu xếp cho tác phẩm của ông được dịch tới nơi tới chốn và
được xuất
bản rộng rãi trên toàn lục địa của bà, và kết quả là ảnh hưởng của
Tagore ở đây
có lẽ còn lớn hơn là ở ngay chính quê hương của ông nơi những bản dịch
từ tiếng
Bengali ra rất nhiều các ngôn ngữ khác của Ấn Độ thường rất tồi và cái
thiên
tài của con người vĩ đại này phải được chấp nhận bằng lòng tin.
Một thí dụ khác là nhà văn Mỹ William Faulkner. Nhà văn lớn này giờ đây
ít được
đọc ở Mỹ. Chắc chắn là hiếm có nhà văn Mỹ đương thời nào nhận Faulkner
làm
thầy. Một lần tôi có hỏi một nhà văn cũng thuộc loại khá của miền nam
nước Mỹ,
Eudora Welty, rằng Faulkner đối với bà là một sự giúp đỡ hay một sự cản
trở.
“Không giúp đỡ cũng không cản trở,” bà trả lời. "Như thể ta biết là có
một
ngọn núi khổng lồ ở ngay cạnh nhà. Biết vậy thì cũng tốt nhưng không
được việc
gì cả." Thế nhưng ở bên ngoài nước Mỹ - ở Ấn Độ, Phi Châu, và ở Mỹ La
tinh
– Faulkner là nhà văn Mỹ được các nhà văn địa phương ca ngợi nhiều
nhất, được
họ coi là một nguồn cảm hứng, là người tiếp sức, người mở cửa cho họ.
Từ cái khả năng gây ảnh hưởng xuyên văn hóa và ngôn ngữ này chúng ta có
thể suy
ra một điều về bản chất của văn chương: rằng (xin được tạm bỏ qua cái
ẩn dụ
sũng nước ở trên) văn có thể mọc lên từ quê hương cội rễ của người sáng
tác,
nhưng văn cũng có thể sinh ra từ những mảnh sợi bay lang thang khắp đó
đây
trong gió. Rằng ngoài cái cách chia thế giới quen thuộc bằng máu và đất
cũng có
thể chia được nó bằng ngôn từ. Đôi khi - như trường hợp ảnh hưởng của
James
Joyce đối với Samuel Beckett và sau đó là ảnh hưởng của Beckett đối với
Harold
Pinter – cái ý thức về một triều đại, về một ngọn đuốc được chuyền tay
từ thế
hệ này qua thế hệ khác rất rõ ràng và mạnh mẽ. Trong những trường hợp
khác thì
quan hệ gia tộc không hiển nhiên bằng nhưng không vì thế mà kém phần
mãnh liệt.
Khi lần đầu tôi đọc những tiểu thuyết của Jane Austen, những quyển sách
từ một
xứ sở và thời đại thật xa cách với cái thành phố lớn Bombay giữa thế kỷ
20
trong đó tôi lớn lên, tôi sửng sốt khi thấy những nhân vật nữ của bà
lại Ấn Độ
và đương thời đến thế. Những người đàn bà thông minh, sôi nổi, lưỡi
nhọn hoắt,
đầy năng lực nhưng bị thói đời chật hẹp áp đặt cho cái kiếp ngày ngày
đi dự dạ
hội để săn chồng; những nhân vật như thế người ta có thể gặp ở bất cứ
đâu trong
xã hội trưởng giả Ấn Độ. Có thể thấy rõ ảnh hưởng của Jane Austen đối
với cuốn Sáng
ngày (Clear Light of the Day) của Anita Desai và cuốn Một chàng
trai môn
đăng hộ đối (A Suitable Boy) của Vikram Seth.
Đọc Charles Dickens tôi cũng thấy ngay là rất Ấn Độ. Thành phố Luân Đôn
mà ông
miêu tả, gớm ghiếc, tởm lợm, đầy trộm cắp và lừa đảo, một thành phố nơi
cái
tốt, cái đẹp thường xuyên bị trấn áp, đe dọa, đối với tôi nó chẳng khác
gì bộ
mặt phản chiếu những thành phố nhung nhúc, ngập ngụa của Ấn Độ nơi đám
thượng
lưu sống trên những tòa nhà chọc trời trong khi đồng bào của họ giành
giật sự
sống hàng ngày trong những con phố hỗn loạn bẩn thỉu phía dưới. Trong
những
tiểu thuyết đầu tay của tôi, tôi đã cố gắng học tập cái thiên tài của
Dickens.
Cái gây cho tôi ấn tượng mạnh nhất ở ông là sự kết hợp độc đáo giữa một
bối
cảnh tả thực và một tiêu điểm siêu thực. Ở Dickens, những chi tiết về
nơi chốn
và tập tục xã hội được găm vào nhau bằng mũi kim băng của một chủ nghĩa
hiện
thực tàn nhẫn, một sự tả thực chính xác chi ly chưa ai đọ được. Trên
mảnh vải
hiện thực đó ông vẽ lên những nhân vật ngoại khổ của ông, những nhân
vật mà
chúng ta phải tin bởi vì chúng ta không thể nào không tin cái thế giới
của họ.
Tôi cũng đã cố gắng, trong Những đứa trẻ nửa đêm, đặt lên trên
cái bối
cảnh xã hội và lịch sử được quan sát chi ly – nghĩa là đặt lên trên cái
nền Ấn
Độ "thực" – cái ý niệm "không thực" của tôi về những đứa
trẻ sinh đúng vào khoảnh khắc giành lại độc lập lúc nửa đêm của Ấn Độ,
những
đứa trẻ được ban sức mạnh thần bí qua sự ngẫu nhiên này, những đứa trẻ
mang
trong mình cả những hy vọng lẫn những sai sót của cuộc cách mạng đó.
Bằng giọng văn độc đoán của chủ nghĩa hiện thực, Dickens còn làm được
chúng ta
tin vào cái văn phòng chính quyền mang đầy tính Siêu thực có tên The
Circumlocution Office (Văn phòng Vòng vo), mà nhiệm vụ là giữ không cho
có gì
xẩy ra; hay cái phiên tòa mang đầy tính Phi lý kiểu Ionesco có tên
"Jarndyce chống lại Jarndyce", được định nghĩa là một phiên tòa không
bao giờ kết thúc; hay hình ảnh Hiện thực Huyền ảo của những đống bụi
trong Người
bạn chung của chúng ta - biểu tượng vật chất một xã hội sống dưới
bóng sự
phế thải của chính nó, và cũng nói thêm rằng hình ảnh này chắc chắn đã
ảnh
hưởng đến một tác phẩm Mỹ gần đây có ẩn dụ trung tâm là rác của nước
Mỹ, tiểu
thuyết Thế giới ngầm (Underworld) của Don DeLillo.
Biết là ảnh hưởng hiện diện ở mọi nơi trong văn học, chúng ta vẫn cần
phải nhấn
mạnh rằng nó luôn luôn chỉ là thứ yếu trong một tác phẩm có chất lượng.
Nếu quá
thô, quá lộ liễu, nó sẽ trở thành buồn cười. Tôi đã từng nhận được từ
một mầm
non văn nghệ một truyện ngắn bắt đầu thế này: "Một buổi sáng, bà K.
thức
giấc thấy mình biến thành một cái máy giặt." Không hiểu Kafka sẽ phản
ứng
thế nào đối với một hành động tưởng mộ kém cỏi đến như vậy.
Có lẽ vì văn hạng nhì thường là văn chịu ảnh hưởng người khác và lại có
quá
nhiều văn hạng nhì, nên ảnh hưởng đã trở thành một thứ dùng để buộc tội
hoặc
chê bai tác phẩm của nhau. Biên giới giữa ảnh hưởng và bắt chước, thậm
chí giữa
ảnh hưởng và ăn cắp, gần đây bắt đầu trở nên mờ nhạt. Cách đây hai năm,
nhà văn
nổi tiếng người Anh Graham Swift đã bị một viện sĩ vô danh người Úc
buộc cho
một cái tội ngửi rất giống tội ăn cắp văn: trong cuốn sách được giải
Booker
mang tên Last Orders của mình ông đã “vay mượn đáng kể” cấu
trúc kể
chuyện đa giọng của William Faulkner trong Lúc tôi hấp hối, (As
I Lay
Dying). Báo chí Anh bèn mượn gió bẻ măng, biến câu chuyện thành một
xì-căng-đan văn học, và thế là Swift bị buộc tội “cướp văn”, ai bênh
vực ông
thì bị chê là “nhân nhượng”. Và chuyện này xảy ra mặc dù, hay có lẽ là
bởi vì,
chính Swift vẫn sẵn sàng thú nhận ảnh hưởng Faulkner, và mặc dù là cấu
trúc hai
tác phẩm thực ra là không hẳn giống nhau tuy đúng là có những chỗ từa
tựa. Cuối
cùng thì những sự thực đơn giản như thế cũng khiến vụ xì-căng-đan phải
xì hơi,
nhưng lúc đó thì Swift cũng đã bị báo chí nướng cho đâu ra đấy rồi.
Thú vị là khi xuất bản cuốn Lúc tôi hấp hối, chính Faulkner
cũng bị buộc
tội vay mượn cấu trúc từ một cuốn tiểu thuyết trước đó, Chữ A Đỏ
(The
Scarlet Letter) của Nathaniel Hawthorne. Câu trả lời của ông đúng
là câu
trả hay nhất có thể có: rằng khi ông đang đau đẻ với cái mà ông gọi một
cách
khiêm tốn là tour de force của mình, ông phải vớ bất cứ thứ gì
ông cần
từ bất cứ nơi nào, và ông không biết một nhà văn nào lại không nghĩ
rằng làm
thế là hoàn toàn đúng.
Trong cuốn tiểu thuyết Haroun và Biển Chuyện (Haroun and the
Sea of
Stories), một cậu bé thực sự đã đi đến đại dương của trí tưởng
tượng, mà
tay hướng dẫn viên đã mô tả như sau:
Cậu bé nhìn xuống nước và thấy nó được tạo thành bởi một ngàn lẻ một
con nước
khác nhau, mỗi con một màu, đan trộn, xoắn xuýt vào nhau thành một tấm
thảm
nước tinh vi đến ngạt thở; và Iff giải thích rằng những con nước đó là
những
dòng Suối Chuyện, mỗi một dòng chứa một câu chuyện. Những vùng biển
khác nhau
chứa những loại chuyện khác nhau, và, người ta có thể tìm được ở đó đủ
thứ
chuyện đã được kể ra từ trước tới nay, hoặc còn đang được nghĩ ra; Biển
Chuyện
thực ra là thư viện lớn nhất trong vũ trụ. Và bởi vì tại đây chuyện
được gìn
giữ ở thể lỏng nên chúng có khả năng thay đổi, trở thành bản khác, hay
nhập vào
chuyện khác để trở chuyện mới. Bởi vậy nên Biển Chuyện không chỉ là một
nhà
kho. Nó sống, không chết.
Bằng cách sử dụng cái cũ và thêm vào cái gì đó mới của riêng mình, ta
làm ra
cái mới. Trong Những vần thơ quỉ ám tôi tìm cách trả lời câu
hỏi cái mới
từ đâu tới với thế gian này? Ảnh hưởng – cái cũ chảy vào cái mới – là
một phần
của câu trả lời.
Trong Những thành phố vô hình, Italo Calvio miêu tả thành phố
thần tiên
Octavia, treo lơ lửng giữa hai quả núi trên một thứ mạng nhện. Nếu ảnh
hưởng là
cái mạng nhện trên đó chúng ta treo tác phẩm thì tác phẩm của chúng ta
chính là
thành phố Octavia, bảo vật lóng lánh, thành phố mơ mộng, đong đưa trên
mạng
nhện, và cứ đong đưa như thế mãi chừng nào mạng nhện còn mang nổi sức
nặng của
nó.
Tôi gặp Calvino lần đầu khi được yêu cầu giới thiệu một bài đọc của ông
tại
Riverside Studios ở Luân Đôn, đầu thập niên 1980. Cuốn Nếu vào một
đêm đông
một khách du lịch (If on a Winter’s Night a Traveler) của
ông vừa
được xuất bản tại Anh và tôi vừa làm một bài tiểu luận dài về tác phẩm
của ông
trên tờ Điểm Sách London – đây là một trong những bài viết nghiêm trang
đầu
tiên về ông xuất hiện trên báo chí Anh, một điều đáng xấu hổ. Tôi biết
Calvino
thích bài viết đó, tuy nhiên tôi cảm thấy hồi hộp khi phải nói về tác
phẩm của
ông mà lại có ông ở đó. Sự hồi hộp càng tăng khi ông đòi đọc trước bài
giới
thiệu của tôi trước khi chúng tôi ra trước công chúng. Tôi phải làm gì
nếu ông
không đồng ý? Ông im lặng đọc, hơi nhíu mày, xong đưa lại cho tôi và
gật đầu.
Hiển nhiên là tôi đã qua được bài thi, và ông tỏ ra đặc biệt hài lòng
khi tôi
so sánh tác phẩm của ông với tác phẩm của nhà văn cổ điển Lucius
Apuleius, tác
giả cuốn Con lừa vàng (The golden ass). “Cho tôi một xu
và tôi sẽ
kể cho bạn một câu chuyện vàng”, những người kể chuyện Milesian vẫn
thường nói
như vậy và những câu chuyện của Apulius về sự biến hình đổi dạng đã sử
dụng một
cách hữu hiệu phong cách ngụ ngôn của những tay kể chuyện cổ xưa. Ta có
thể
thấy ở Apuleius những phẩm chất mà ta có thể tìm thấy cả ở Calvino, và
Calvino
đã viết rất hay về chúng ở một trong những tác phẩm sau cùng của ông, Sáu
điểm ghi nhớ cho thiên niên kỷ tới (Six Memos for the Next
Millennium):
nhẹ, nhanh, chính xác, rõ ràng và dồi dào. Những phẩm chất này luôn ở
trong đầu
tôi khi tôi bắt đầu viết Haroun và Biển Chuyện.
Tuy về hình thức cuốn tiểu thuyết nói về một cuộc phiêu lưu kỳ diệu của
một đứa
trẻ, tôi muốn xoá đi sự phân chia giữa văn chương dành cho trẻ con và
văn
chương dành cho người lớn. Nói cho cùng câu đố là làm sao tìm cho được
đúng
giọng kể thích hợp, và Apuleius và Calvino là những người đã giúp tôi
tìm ra
nó. Tôi đọc lại bộ tiểu thuyết ba cuốn của Calvino, The Baron in
the Trees, The Cloven Viscount, và The Nonexistent
Knight,
và chúng đã giúp
tôi giải được câu đố. Lời giải là sử dụng ngôn ngữ của truyện ngụ ngôn
nhưng
tránh giảng đạo đức kiểu Aesop.
Mới đây tôi lại nghĩ về Calvino. Lời nhắc nhở thứ sáu cho thiên niên kỷ
mới đã
được ông dự tính là “kiên định”. Calvino có ý định gợi ý rằng kiên định
là
thiên tài độc đáo của Bartleby the Scrivener của Melville, cái
nhân vật
Bartleby anh hùng và khó hiểu, người nhất định lúc nào cũng chỉ
“preffer not
to”. Bạn có thể thêm vào đó Michael Kohlhaas của Kleist, không
mỏi mệt
đi tìm sự công bằng tuy nhỏ nhưng cần thiết, hay Nigger of the
Narcissus
của Conrad, người luôn nhất định là sẽ phải sống cho tới khi chết, hay
chàng
hiệp sĩ điên rồ Don Quixote, hay anh chàng trắc địa của Kafka, luôn
mong mỏi
hướng về Toà Lâu Đài không bao giờ tới được.
Chúng ta nói tới kiên định mang tính sử thi, một ám ảnh đẩy tới bi kịch
hay
huyền thoại. Nhưng kiên định còn có thể được hiểu một cách u tối hơn,
thí dụ
như Ahab săn tìm con cá voi, hay Savonarola đốt sách, hay Khomeini định
nghĩa
cuộc cách mạng của ông là một cuộc nổi loạn chống lại chính lịch sử.
Tôi ngày càng thấy mình bị cuốn hút vào phẩm chất thứ sáu vốn chưa được
tìm
hiểu của Calvino. Thiên niên kỷ mới đang có khả năng bị các kiểu kiên
định đe
dọa: những kẻ không chịu nhân nhượng, những Don Quixote điên dại, những
kẻ hẹp
hòi, những kẻ tin chắc vào chân lý. Nhưng vào lúc này, tôi như đang làm
đúng
cái điều mà David Malouf cảnh cáo - nghĩa là, tôi đang nói về tác phẩm
còn đang
phôi thai và mỏng manh (bởi vì chưa thành hình) của mình. Vì vậy, tôi
phải
ngừng tại đây, và chỉ nói thêm rằng tôi sẽ không bao giờ quên sự giúp
đỡ và
khuyến khích của Calvino và ông vẫn luôn thì thầm trong tai tôi.
Tôi cũng phải nói thêm là còn rất nhiều những nghệ sĩ La Mã cổ điển và
Ý hiện
đại luôn đi bên cạnh tôi. Khi viết cuốn Hổ thẹn (Shame),
tôi đọc
lại bản nghiên cứu vĩ đại về mười hai Hoàng đế La mã của Suetonius. Tôi
như
nhìn thấy họ, những vì vua đó, trong những cung điện của họ, khùng điên
vì quyền
lực, vì dâm đãng, kẹt cứng vào những âm mưu hãm hại lẫn nhau. Chỗ này
một cuộc
đảo chính, chỗ kia một cuộc phản đảo chính; tuy nhiên, ở phía bên ngoài
những
bức tường cung điện chẳng có gì thay đổi. Quyền lực nằm lại trong gia
đình.
Cung điện vẫn là Cung điện.
Tôi học được rất nhiều, từ Suetonius, về bản chất nghịch lý của giai
cấp thống
trị, và tôi đã sáng tạo ra một giai cấp thống trị riêng trong cái nước
Pakistan
mà là bối cảnh của Shame: một giai cấp thống trị đẫm hận thù và
có thể
đánh nhau đến chết nhưng lại bị trói chặt bởi những liên hệ về huyết
thống và
hôn nhân và quan trọng nhất là luôn nắm toàn bộ quyền hành trong nước.
Đối với
đám dân đen thì những cuộc chiến tranh đẫm máu trong nội bộ giai cấp
thống trị
chẳng mang lại mấy thay đổi. Cung điện vẫn tiếp tục cai trị và nhân dân
vẫn
tiếp tục rên xiết dưới gót giầy của nó.
Nếu Shame chịu ảnh hưởng của Suetonius, thì Những vần thơ
quỷ ám (The
Satanic Verses) với chủ đề chính là sự hóa thân đã chịu ảnh hưởng
rất nhiều
từ Ovid; còn để hiểu Đất dưới chân nàng (The Ground Beneath
Her Feet)
với nội dung dựa trên huyền thoại Orpheus và Eurydice, thì bắt buộc
phải đọc
Georgics của Virgil.
Và xin phép được gợi ý về tương lai một lần nữa, tôi bấy lâu nay vẫn
quan tâm
và nghiên cứu về Florence thời Phục Hưng nói chung và về nhân vật
Niccolo
Machiavelli nói riêng.
Tôi thấy rằng việc bôi nhọ Machiavelli là một trong những hành động vu
khống
thành công nhất trong lịch sử Âu Châu. Trong văn chương Anh vào thời
hoàng kim
Elizabeth có chừng trên bốn trăm qui chiếu về Machiavelli mà không có
lấy một
cái nói tốt. Vào lúc đó chưa hề có một tác phẩm nào của Machiavelli
được dịch
sang tiếng Anh; những nhà viết kịch Anh bèn dựa vào một bản dịch tiếng
Pháp,
bản Anti-Machiavel, để tạo ra những chân dung ác quỉ về Machiavelli.
Cái bộ mặt
hắc ám vô đạo đức họ sáng tạo ra cho Machiavelli vẫn tiếp tục làm u tối
danh
tiếng của vị thầy. Là một “văn hữu” của ông, bản thân cũng có chút kinh
nghiệm
về vu khống, tôi cảm thấy đã đến lúc thẩm định lại người công dân xứ
Florence này.
Tôi đã cố gắng nói ngắn gọn về cái hiện tượng thụ phấn xuyên văn hóa mà
không
có nó văn học sẽ chỉ mang tính tỉnh lẻ và địa phương. Trước khi kết
luận, cho
phép tôi được vinh danh thiên tài điện ảnh Federico Fellini. Thời còn
trẻ tôi
đã học được từ phim ông cách chuyển hóa những nội dung mạnh mẽ của tuổi
thơ và
đời riêng thành chất liệu sân khấu và thành huyền thoại. Tôi cũng xin
được vinh
danh những bậc thầy Ý khác như Passolini, Visconti, Antonioni, De Sica,
và còn
nhiều, nhiều nữa, bởi vì ảnh hưởng và kích thích sáng tạo là vô tận.
3.1999
© 2004 talawas
(1) Chú
thích của talawas: Ảnh hưởng tiếng
Anh là influence, gồm hai yếu tố là in, có nghĩa là
“vào”, “đến”,
và fluence, có nghĩa là “chảy”, “trôi”.
bản tiếng Anh:
Salman Rushdie
Influence
[A lecture delivered at the University of Torino]
The Australian novelist and poet David Malouf tells us that "the real
enemy of writing is talk." He warns particularly of the dangers of
speaking about work in progress. When writing, one is best advised to
keep
one's mouth shut, so that the words flow out, instead, through one's
fingers.
One builds a dam across the river of words in order to create the
hydroelectricity of literature.
I propose, therefore, to speak not of my writing but rather of my
reading, and
in particular of the many ways in which my experience of Italian
literature
(and, I must add, Italian cinema) has shaped my thoughts about how and
what to
write. That is, I want to talk about influence.
"Influence." The word itself suggests something fluid, something
"flowing in." This feels right, if only because I have always
envisaged the world of the imagination not so much as a continent as an
ocean.
Afloat and terrifyingly free upon these boundless seas, the writer
attempts,
with his bare hands, the magical task of metamorphosis. Like the figure
in the
fairy tale who must spin straw into gold, the writer must find the
trick of
weaving the waters together until they become land: until, all of a
sudden,
there is solidity where once there was only flow, shape where there was
formlessness; there is ground beneath his feet. (And if he fails, of
course, he
drowns. The fable is the most unforgiving of literary forms.)
The young writer, perhaps uncertain, perhaps ambitious, probably both
at once,
casts around for help; and sees, within the flow of the ocean, certain
sinuous
thicknesses, like ropes, the work of earlier weavers, of sorcerers who
swam
this way before him. Yes, he can use these "in-flowings," he can
grasp them and wind his own work around them. He knows, now, that he
will
survive. Eagerly, he begins.
One of the most remarkable characteristics of literary influence, of
these
useful streams of other people's consciousness, is that they can flow
toward
the writer from almost anywhere. Often they travel long distances to
reach the
one who can use them. In South America, I was impressed by the
familiarity of
Latin American writers with the work of the Bengali Nobel laureate
Rabindranath
Tagore. The editor Victoria Ocampo, who met and admired Tagore, had
arranged
for his work to be well translated and widely published throughout her
own
continent, and as a result the influence of Tagore is perhaps greater
there
than in his own homeland, where the translations from Bengali into the
many
other tongues of India are often of poor quality, and the great man's
genius
must be taken on trust.
Another example is that of William Faulkner. This great American writer
is
little read in the United States these days; certainly there are few
contemporary American writers who claim him as an influence or teacher.
I once
asked another fine writer of the American South, Eudora Welty, if
Faulkner had
been a help or a hindrance to her. "Neither one," she replied.
"It's like knowing there's a great mountain in the neighborhood. It's
good
to know it's there, but it doesn't help you to do your work." Outside
the
United States, however — in India, in Africa, and again in Latin
America —
Faulkner is the American writer most praised by local writers as an
inspiration, an enabler, an opener of doors.
From this transcultural, translingual capacity of influence we can
deduce
something about the nature of literature: that (if I may briefly
abandon my
watery metaphor) books can grow as easily from spores borne on the air
as from
their makers' particular and local roots. That there are international
families
of words as well as the more familiar clans of earth and blood.
Sometimes— as
in the case of the influence of James Joyce on the work of Samuel
Beckett, and
the subsequent and equal influence of Beckett on the work of Harold
Pinter —
the sense of dynasty, of a torch handed on down the generations, is
very clear
and very strong. In other cases the familial links are less obvious but
no less
powerful for that.
When I first read the novels of Jane Austen, books out of a country and
a time
far removed from my own upbringing in metropolitan,
mid-twentieth-century
Bombay, the thing that struck me about her heroines was how Indian, how
contemporary, they seemed. Those bright, willful, sharp-tongued women,
brimming
with potential but doomed by the narrow convention to an interminable
Huis-clos
of ballroom dancing and husband hunting, were women whose counterparts
could be
found throughout the Indian bourgeoisie. The influence of Austen on
Anita
Desai's Clear Light a/Day and Vikram Seth's A Suitable Boy is plain to
see.
Charles Dickens, too, struck me from the first as a quintessentially
Indian
novelist. Dickensian London, that stenchy, rotting city full of sly,
conniving
shysters, that city in which goodness was under constant assault by
duplicity,
malice, and greed, seemed to me to hold up the mirror to the
pullulating cities
of India, with their preening elites living the high life in gleaming
skyscrapers while the great majority of their compatriots battled to
survive in
the hurly-burly of the streets below. In my earlier novels I tried to
draw on
the genius of Dickens. I was particularly taken with what struck me as
his real
innovation: namely, his unique combination of naturalistic backgrounds
and
surreal foregrounds. In Dickens, the details of place and social mores
are
skewered by a pitiless realism, a naturalistic exactitude that has
never been
bettered. Upon this realistic canvas he places his outsize characters,
in whom
we have no choice but to believe because we cannot fail to believe in
the world
they live in. So I tried, in my novel Midnight's Children, to set
against a
scrupulously observed social and historical background—against, that
is, the
canvas of a "real" India — my "unrealist" notion of
children born at the midnight moment of India's independence, and
endowed with
magical powers by the coincidence, children who were in some way the
embodiment
of both the hopes and the flaws of that revolution.
Within the authoritative framework of his realism, Dickens can also
make us
believe in the perfectly Surrealist notion of a government department,
the
Circumlocution Office, dedicated to making nothing happen; or in the
perfectly
Absurdist, lonesco-like case of Jarndyce v. Jarndyce, a case whose
nature it is
never to reach a conclusion; or in the "magical realist" image of the
dust-heaps in Our Mutual Friend — the physical symbols of a society
living in
the shadow of its own excrement, which must, incidentally, also have
been an
influence on a recent American masterpiece, which takes the waste
products of
America as its central metaphor, Don DeLillo's Underworld.
If influence is omnipresent in literature, it is also, one should
emphasize,
always secondary in any work of quality. When it is too crude, too
obvious, the
results can be risible. I was once sent, by an aspiring writer, a short
story
that began, "One morning Mrs. K. awoke to find herself metamorphosed
into
a front-loading washing machine." One can only imagine how Kafka would
have reacted to so inept — so detergent — an act of homage.
Perhaps because so much second-rate writing is derivative — and because
so much
writing is at best second-rate — the idea of influence has become a
kind of
accusation, a way of denigrating a writer's work. The frontier between
influence and imitation, even between influence and plagiarism, has
commenced
of late to be somewhat blurred. Two years ago, the distinguished
British writer
Graham Swift was accused by an obscure Australian academic of something
odorously close to plagiarism in his Booker Prize — winning novel Last
Orders:
the "substantial borrowing" of the multi-voiced narrative structure
of his novel from William Faulkner's As I Lay Dying. The British press
whipped
this accusation up into a sort of scandal, and now Swift was accused of
literary "plundering," and those who defended him were sneered at for
their "lofty indulgence" toward him. All this in spite of, or perhaps
because of, Swift's ready concession that he had been influenced by
Faulkner,
and in spite, too, of the awkward fact that the structures of the two
books
aren't really so very alike, although some echoes are apparent. In the
end such
simple verities ensured that the scandal fizzled out, but not before
Swift had
been given a media roasting.
Interesting, then, that when Faulkner published As I Lay Dying, he
himself had
been accused of borrowing its structure from an earlier novel,
Nathaniel
Hawthorne's The Scarlet Letter. His retort is the best possible answer
that
could be given: that when he was in the throes of composing what he
modestly
called his tour de force, he took whatever he needed from wherever he
could
find it, and knew of no writer who would not find such borrowing to be
completely justified.
In my novel Haroun and the Sea of Stories, a young boy actually travels
to the
ocean of imagination, which is described to him by his guide: He looked
into
the water and saw that it was made up of a thousand thousand thousand
and one
different currents, each one a different color, weaving in and out of
one
another like a liquid tapestry of breathtaking complexity; and Iff
explained
that these were the Streams of Story, that each colored strand
represented and
contained a single tale. Different parts of the Ocean contained
different sorts
of stories, and as all the stories that had ever been told and many
that were
still in the process of being invented could be found here, the Ocean
of the
Streams of Story was in fact the biggest library in the universe. And
because
the stories were held here in fluid form, they retained the ability to
change,
to become new versions of themselves, to join up with other stories and
so
become yet other stories; so that. . . the Ocean of the Streams of
Story was
much more than a storeroom of yarns. It was not dead but alive.
By using what is old, and adding to it some new thing of our own, we
make what
is new. In The Satanic Verses I tried to answer the question, how does
newness
enter the world? Influence, the flowing of the old into the new, is one
part of
the answer.
In Invisible Cities, Italo Calvino describes the fabulous city of
Octavia,
suspended between two mountains in something like a spider's web. If
influence
is the spider's web in which we hang our work, then the work is like
Octavia
itself, that glittering jewel of a dream city, hanging in the filaments
of the
web, for as long as they are able to bear its weight.
*
I first met Calvino when I was asked to introduce a reading he gave at
the
Riverside Studios in London in the early 1980s. This was the time of
the
British publication of If on a Winter's Night a Traveler, and I had
just
published a long essay about his work in the London Review of Books —
disgracefully, this was one of the earliest serious pieces about
Calvino to be
published in the British press. I knew Calvino had liked the piece, but
nevertheless I was nervous about having to speak about his work in his
presence. My nervousness increased when he demanded to see my text
before we
went out to face the audience. What would I do if he disapproved? He
read it in
silence, frowning a little, then handed it back and nodded. I had
evidently
passed the examination, and what had particularly pleased him was my
comparison
of his work with that of the classical writer Lucius Apuleius, author
of The
Golden Ass. "Give me a penny and I'll tell you a golden story," the
old Milesian oral storytellers used to say and Apuleius's tale of
transformation had used the fabulist manner of these ancient tellers of
tall
stories to great effect. He possessed, too, those virtues that Calvino
also
embodied and of which he wrote so well in one of his last works, Six
Memos for
the Next Millennium: the virtues of lightness, quickness, exactitude,
visibility and multiplicity. These qualities were much in my mind when
I came
to write Haroun and the Sea of Stories.
Although the form of this novel is that of a child's fantastic
adventure, I
wanted the work somehow to erase the division between children's
literature and
adult books. It was in the end a question of finding precisely the
right tone
of voice, and Apuleius and Calvino were the ones who helped me to find
it. I
re-read Calvino's great trilogy The Baron in the Trees, The Cloven
Viscount,
and The Nonexistent Knight, and they gave me the clues I needed. The
secret was
to use the language of the fable while eschewing the easy moral purpose
of, for
example, Aesop.
Recently, I have again been thinking about Calvino. The sixth of his
"memos for the next millennium" was to have been on the subject of
consistency Consistency is the special genius of Melville's "Bartleby
the
Scrivener," Calvino was planning to suggest — that heroic, inexplicable
Bartleby who simply and unshakably "preferred not to." One might add
the names of Kleist's Michael Kohlhaas, so inexorable in his search for
small
but necessary justice, or of Conrad's Nigger of the Narcissus, who
insisted
that he must live until he died, or of chivalry maddened Quixote, or of
Kafka's
Land Surveyor, eternally yearning toward the unattainable Castle.
We are speaking of an epic consistency, a monomania that strives toward
the
condition of tragedy or myth. But consistency also may be understood in
a
darker sense, the consistency of Ahab in pursuit of his whale, of
Savonarola
who burned the books, of Khomeini's definition of his revolution as a
revolt
against history itself.
More and more I feel drawn toward Calvino's unexplored sixth value. The
new
millennium that is upon us already shows signs of being dominated by
alarming
examples of consistency of all types: the great refusers, the wild
quixotics,
the narrow-minded, the bigoted, and those who are valiant for truth.
But now I
am coming close to doing what David Malouf warns against — that is,
discussing
the nature of my own embryonic, and fragile (because as yet uncreated),
work.
So I must leave it there, and say only that Calvino, whose early
support and
encouragement I will always remember, continues to murmur in my ear.
I should add that many other artists both of classical Rome and of
modern Italy
have been, so to speak, present at my shoulder. When I was writing
Shame, I
re-read Suetonius's great study of the twelve Caesars. Here they were
in their
palaces, these foul dynasts, power-mad, libidinous, deranged, locked in
a
series of murderous embraces, doing one another terrible harm. Here was
a tale
of coup and counter-coup; and yet, as far as their subjects beyond the
palace
gates were concerned, nothing really changed. Power remained within the
family
The Palace was still the Palace.
From Suetonius, I learned much about the paradoxical nature of power
elites,
and so was able to construct an elite of my own in the version of
Pakistan that
is the setting for Shame: an elite riven by hatreds and fights to the
death but
joined by bonds of blood and marriage and, crucially, in control of all
the
power in the land. For the masses, deprived of all power, the brutal
wars
inside the elite change little or nothing. The Palace still rules, and
the
people still groan under its heel.
If Suetonius influenced Shame, then The Satanic Verses, a novel whose
central
theme is that of metamorphosis, evidently learned much from Ovid; and
for The
Ground Beneath Her Feet, which is informed by the myth of Orpheus and
Eurydice,
Virgil's Georgics were essential reading.
And, if I may make one more tentative step toward the unwritten future,
I have
for a long time been engaged and fascinated by the Florence of the High
Renaissance in general, and by the character of Niccolo Machiavelli in
particular.
The demonization of Machiavelli strikes me as one of the most
successful acts
of slander in European history. In the English literature of the
Elizabethan
golden age, there are around four hundred Machiavellian references,
none of
them favorable. At that time no work of Machiavelli's was available in
the
English language; the playwrights of England were basing their satanic
portraits on a translated French text, the Anti-Machiavel. The
sinister, amoral
persona created for Machiavelli then still cloaks his reputation. As a
fellow
writer who has also learned a thing or two about demonization, I feel
it may
soon be time to reevaluate the maligned Florentine.
I have sought to portray a little of the cultural cross-pollination
without
which literature becomes parochial and marginal. Before concluding, I
must pay
tribute to the genius of Federico Fellini, from whose films, as a young
man, I
learned how one might transmute the highly charged material of
childhood and
private life into the stuff of showmanship and myth; and to those other
Italian
masters, Pasolini Visconti, Antonioni, De Sica, and so on, and so on -
for of
influence and creative stimulation there can really be no end.
March 1999