gau
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

CHUYỂN NGỮ
Ảnh hưởng
1
3


Influence 2
Ảnh Hưởng
[Bài đọc tại Đại Học Turin]
Salman Rushdie

Lần đầu tiên đọc tiểu thuyết Jane Austen, từ một xứ sở, thời đại thật là xa vời so với nền học vấn, sự dạy dỗ và nơi chốn trưởng thành của tôi, là thành phố lớn Bombay giữa thế kỷ 20, điều làm tôi sửng sốt, là bằng cách nào, những nhân vật nữ của bà lại Ấn Độ, lại đương thời đến như thế; cứ như tôi có thể "sờ" thấy họ. Những người đàn bà thông minh, sôi nổi, lưỡi nhọn hoắt, lúc nào cũng như muốn xổ lồng, muốn bay bổng, nhưng bị "cấm cung" ["huis clos", tiếng Pháp trong nguyên bản] bởi thói đời chật hẹp, vùng vẫy chi đâu thì cũng chỉ trong bốn bức tường của những cuộc khiêu vũ gia đình, nhằm săn cho được một ông chồng; những nhân vật như thế, người ta có thể gặp ở bất cứ đâu đâu, trong xã hội trưởng giả Ấn Độ. Ảnh hưởng của Jane Austen trên cuốn Sáng Ngày, Clear Light of the Day, của Anita Desai và trên Một Cậu Trai Dễ Bảo, A Suitable Boy, của Vikram Seth,là thật hiển nhiên.

Charles Dickens cũng làm tôi ngạc nhiên ngay từ thuở ban sơ [mơ tưởng chuyện viết], như một nhà văn Ấn Độ chính hiệu con nai vàng. Thành phố Luân Đôn mà ông miêu tả, gớm ghiếc, tởm lợm, đầy những tên trộm cắp, lường đảo và những kẻ đồng lõa, một thành phố nơi cái tốt, cái đẹp thường xuyên bị trấn áp, đe dọa bởi những trò lưu manh lường gạt, đối với tôi, nó chẳng khác gì bộ mặt phản chiếu những thành phố nhung nhúc, ngập ngụa của Ấn Độ, nơi đám cao sang, những nhân vật sáng giá ngự trị ở trên những tòa nhà chọc trời trong khi ở dưới chân tòa nhà, đám nhân dân khốn khổ của chúng cố giành giựt sự sống trong những con phố hầm bà làng, bát nháo. Trong những cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi, tôi đã cố gắng, phải làm sao cướp lấy một tị [nguyên văn: tạo cho mình hứng khởi từ] thiên tài của Dickens. Và nhất là, từ cái điều mà với tôi là sự cách tân thiệt sự thể loại văn học, là văn tiểu thuyết, ở nơi ông: làm thế nào pha trộn, nhào nặn thành một thực thể duy nhất, hai “kẻ thù không đội trời chung”: một, nền thực tại thô cứng, và một, bộ mặt quỉ mị, phi thực.

Ở Dickens, những chi tiết về nơi chốn và những tập tục xã hội đều như được chạm trổ, bằng ngọn bút nhọn hoắt của một thứ chủ nghĩa hiện thực tàn nhẫn, và bằng sự chính xác chi ly, và cũng rất ư là tự nhiên, tựa như trời sinh ra là phải như thế. Trên cái nền hiện thực tàn nhẫn đó, ông bầy ra những nhân vật ngoại khổ của ông, những nhân vật mà chúng ta chẳng có một cách chọn lựa nào khác là đành tin vào chúng, bởi vì chúng ta không thể nào không tin, cái thế giới mà chúng sống ở trong đó. Vì vậy, tôi đã cố gắng làm điều này, ở trong cuốn tiểu thuyết Những Đứa Con Giờ Tí của tôi: Trên cái nền xã hội và lịch sử được quan sát một cách thật là chi ly - hay nói một cách khác - trên hạ tầng cơ sở một nước Ấn Độ "thực", tôi nhét vào đó, ý niệm "không thực" của tôi, về những đứa trẻ sinh vào đúng giờ tí, [nửa đêm], thời điểm Ấn Độ tuyên bố độc lập. Được ban cho những quyền lực thần kỳ, do đẻ đúng giờ linh, những đứa trẻ, một cách nào đó, chính là sự nhập thế, của cả hai, những hy vọng và những sai sót của cuộc cách mạng.

Trong khung quyền thế là chủ nghĩa hiện thực của ông, Dickens làm cho chúng ta tin, cái ý tưởng hoàn toàn "Siêu thực", về một ban bộ trong chính quyền, Văn phòng Circonlocution, được nặn ra để làm sao cho chẳng có gì xẩy ra, hay là trường hợp rất ư “Phi lý”, theo kiểu Ionesco, là vụ "Jarndyce chống lại Jarndyce", một vụ kiện mà bản chất của nó là chẳng bao giờ đạt tới một kết luận; hay hình ảnh "hiện thực huyền ảo" của những đống bụi, ở trong Người Bạn Chung Của Chúng Ta - những biểu tượng vật lý về một xã hội sống trong bóng của cứt đái, đồ phế thải của chính nó. Tiện thể, tôi xin nói thêm, hình ảnh này chắc chắn đã ảnh hưởng lên một tác phẩm Mẽo nổi tiếng, xuất bản gần đây, mà ẩn dụ trung tâm của nó là sự tích tụ cứt đái, đồ phế thải của xứ Cờ Huê, tác phẩm Thế Giới Chìm (Underworld, bản tiếng Pháp dịch là Ngoại Thiên, Outremonde), của Don DeLillo.

Nếu ảnh hưởng hiện diện ở bất cứ nơi nơi, trong văn học, nếu thế, thì chúng ta cần phải nhấn mạnh một điều, rằng nó, ảnh hưởng, luôn luôn chỉ là thứ yếu, ở trong một tác phẩm có chất lượng. Một khi ảnh hưởng quá lộ liễu, thô thiển, nó làm người đọc tức cười, nếu không muốn nói, thương hại. Tôi đã từng nhận được, từ một mầm non văn nghệ, một truyện ngắn, mở ra như thế này: "Một buổi sáng, bà K. thức giấc, thấy mình biến thành một cái máy giặt đồ." Người ta không thể tưởng tượng ra nổi, Kafka sẽ nghĩ thế nào, về lòng tưởng mộ ông của hậu thế, qua ảnh hưởng ngu xuẩn tới mức thảm hại như vậy. 

Có lẽ bởi vì văn chương hạng nhì là thứ thường rất dễ bị xào, luộc, đánh cắp nhãn, và bởi vì có rất nhiều tác phẩm chỉ vươn tới đỉnh cao của chúng, là hạng nhì, thành thử người đời thường dùng nó - ý tưởng về ảnh hưởng - để buộc tội, hoặc chê bai tác phẩm của nhà văn. Vả chăng, biên giới giữa ảnh hưởng và bắt chước [imitation], và ngay cả giữa ảnh hưởng và đạo văn, càng về những ngày sau này càng trở nên mờ nhạt. Cách đây hai năm, nhà văn nổi tiếng người Anh, Graham Swift đã bị một nhà khoa bảng hắc ám [obcure] người Úc ban cho cái tội  rất gần với tội đạo văn. Trong cuốn được giải Booker của ông, “The Last Orders” [nghĩa đen: những mệnh lệnh chót; “order” thường được sử dụng khi gọi món ăn, bản tiếng Pháp dịch là Chầu Đãi Chót, La Dernière Tournée, Gấu tôi chưa đọc cuốn sách nên không dám dịch ẩu cái tựa], cấu trúc đa giọng trong đó, “chủ yếu mà nói, là đã vay mượn” từ cuốn “Trong khi tôi hấp hối”, “As I Lay Dying”, của William Faulkner. Báo chí Anh bèn mượn gió bẻ măng, biến câu chuyện thành một xì-căng-đan văn học, biến Swift thành một tay đạo văn chính cống bà lang Trọc, biến những người chống đỡ  bảo vệ ông thành những kẻ “nhân nhượng” đối với ông, mặc dù, và có lẽ là do, chính Swift đã chẳng thèm úp mở, thẳng thừng nói, ông ảnh hưởng Faulkner, luôn cả điều, giọng kể ở trong hai cuốn, tuy không hoàn toàn giống nhau y chang, nhưng đọc cuốn này là gợi nhớ tới cuốn kia. Sau cùng, những sự thực đơn giản như thế khiến vụ xì-căng-đan xì hơi, nhưng cũng chỉ sau khi Swift đã phải trân mình chịu đựng đòn hội chợ của đám báo chí.

Thú vị là, khi cho xuất bản cuốn Khi tôi hấp hối, Faulkner, chính ông, cũng bị buộc tội vay mượn cấu trúc từ một cuốn tiểu thuyết xuất hiện trước đó, The Scarlet Letter, [Lá Thư Đỏ] của Nathaniel Hawthorne. Cú “rờ ve” [quật ngược] của ông đúng là một câu trả lời tuyệt vời nhất mà người ta có thể nghĩ ra được, vào trường hợp này: rằng, khi tớ đang ở trong tình trạng thật dễ dàng bị tẩu hỏa nhập ma, cố nặn ra cho được đứa con mang nặng đẻ đau, tớ vớ bất cứ thứ gì tớ cần, từ bất cứ xó xỉnh nào mà tớ có thể kiếm thấy, và tớ tin rằng, một hành động vay mượn như vậy là hoàn toàn được phép đối với bất cứ một nhà văn.

NQT dịch giới thiệu