|
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung |
Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn/ Viết
Thơ Mỗi Ngày
Nov 4 2015
RADE DRAINAC
[1899-1943]
Drainac was a famous Belgrade bohemian who spent his life in
the taverns of the city, often playing the violin. He served in the
Serbian army in the First World War. His first book, Purple Laughter,
was published in 1920. He wrote three more collections of poetry, plus
a novel and a war diary. He was influenced by Apollinaire, Cendrars,
and Esenin. He died of consumption.
Leaf
I've changed stations: autumn remained behind and my bags.
The sky now is doubtful like an awkward lie.
In the first tavern I'll need to forget
the melancholy letter that woke me from my sleep.
Idle, I stagger down the street past offices.
The swallows have flown and the typewriters have stayed.
One the horizon there is a huge trumpet of smoke.
A plane has just been invented as small as a butterfly.
Bravo! That's a good Sign.
The first autumn leaf falls on my hat.
Charles Simic: The Horse has six legs
Serbian Poetry ed by Simic
Lá
Tôi đổi ga, mùa thu ở lại cùng hành lý
Bầu trời hồ nghi như lời dối trá vụng về
Trong quán hầm thứ nhất tôi sẽ cần quên đi
Lá thư buồn đánh thức tôi khỏi giấc ngủ
Lừ đừ xuống phố, qua những văn phòng
Chim sẻ bay đi, cái máy chữ ở lại
Ở nơi chân trời 1 cột khói khổng lồ giống như cái kèn đồng
Một cái máy bay vừa được phát minh, nhỏ như 1 con bướm
Bravo! Một dấu hiệu tốt
Cái lá thu đầu tiên rớt xuống nón tôi.
Quả có cái air Apollinaire, sư phụ của nhà thơ bô hê miêng,
nổi tiếng, trải đời mình trong những quán hầm với cây vĩ cầm.
Đã từng là sĩ quan Ngụy trong Đệ Nhị Chiến!
Thơ Mỗi Ngày
DESCRIPTION
It was like a teetering house of cards,
A contortionist strumming a ukulele,
A gorilla raging in someone's attic,
A car graveyard frantic to get back
On the interstate highway in a tornado,
Tolstoy's beard in his mad old age,
General Custer's stuffed horse ...
What was? I ask myself and have no idea,
But it'll come to me one of these days.
-Charles Simic
Miêu tả
Như ngôi nhà bằng những lá bài phập phù
Như tay nhào lộn bập bùng cây đàn ukule
Như con khỉ đột phát cuồng trên căn gác xép nơi mái nhà
Như cái xe nát nơi bãi tha ma phát rồ muốn trở lại
Xa lộ liên bang, trong cơn cuồng phong,
Chòm râu Tolstoi trong tuổi già khùng
Chú ngựa nhồi bông của tướng Custer…
Cái gì nhỉ? Tôi tự hỏi mình và không một ý kiến
Nhưng nó sẽ tới, một trong những ngày này.
SWEPT AWAY
Melville had the sea and Poe his nightmares,
To thrill them and haunt them,
And you have the faces of strangers,
Glimpsed once and never again.
Like that woman whose eye you caught
On a crowded street in New York
Who spun around after she went by you
As if she had just seen a ghost.
Leaving you with a memory of her hand
Rising to touch her flustered face
And muffle what might've been something
Being said as she was swept away.
-Charles Simic
Cuốn trôi đi
Melville có biển. và Poe, những ác mộng
Để run rẩy và lai vãng,
Và nếu mi có bộ mặt người xa lạ,
Nhoáng, 1 phát, và đừng bao giờ, nữa, nhé!
Như thiếu phụ mà mi tóm được mắt của em
Trên con phố đông người ở New York
Em lúng ta lúng túng khi bị dòng người xô dạt về phía mi
Như thể nhìn thấy một bóng ma
Bỏ mặc mi với tí ti hồi nhớ bàn tay của nàng
Cố vươn lên để, biết đâu đấy, chạm được khuôn mặt bối rối
của em
Và chết sững, biến thành câm,
Như thể nghe em nói 1 điều gì đó
Trước khi bị dòng đời cuốn trôi đi
Cái gì gì, kiếp trước ta có nợ nần chi đâu mi
Mà sao kiếp này mi đòi kiếp khác
Mà ta đã biểu, đừng “run rẩy và lai vãng” bên ta nhiều
Khi ta đi rồi, mi sẽ khổ.
Mark Strand
An Old Man Awake in His Own Death
This is the place that was promised
when I went to sleep,
taken from me when I woke.
This is the place unknown to anyone,
where names of ships and stars
drift out of reach.
The mountains are not mountains anymore;
the sun is not the sun.
One tends to forget how it was;
I see myself, I see
the shine of darkness on my brow.
Once I was whole, once I was young ....
As if it mattered now
and you could hear me
and the weather of this place would ever cease.
Gấu Già thức giấc trong cái chết của
Gấu Cà Chớn
Đúng là chỗ được Trời Già gọi là Đất Hứa
Khi đi ngủ
Khi thức dậy thì mất mẹ nó rồi
Đây là chỗ chẳng ai biết đến
Nơi tên những con tàu, những vì sao
Trượt ra khỏi tầm tay
Núi không còn là núi
Mặt trời đếch là mặt trời
Bèn giả đò quơn, như thế nào, trước đó
Gấu nhìn chính Gấu, Gấu nhìn thấy
Cái sáng ngời của bóng tối
Trên lông mày
Đã có lần Gấu là trọn một Gấu
Đã có lần khi Gấu còn trẻ…
Như thể nó xẩy ra như thế vào lúc này
Và bạn có thể nghe Gấu
Và thời tiết của nơi chốn này
Mãi mãi ngưng.
A man is, after all, what he loves.
Brodsky
Nói cho cùng, một thằng đàn ông là "cái" [thay bằng "gái",
được không, nhỉ] hắn yêu.
"What", ở đây, nghĩa là gì?
Một loài chim biển, được chăng?
The world is ugly,
and the people are sad.
Đời thì xấu xí
Người thì buồn thế!
The Good Life
You stand at the window.
There is a glass cloud in the shape of a heart.
The wind's sighs are like caves in your speech.
You are the ghost in the tree outside.
The street is quiet.
The weather, like tomorrow, like your life,
is partially here, partially up in the air.
There is nothing you can do.
The good life gives no warning.
It weathers the climates of despair
and appears, on foot, unrecognized, offering nothing,
and you are there.
Một đời OK
Mi đứng ở cửa sổ
Mây thuỷ tinh hình trái tim
Gió thở dài sườn sượt, như hầm như hố, trong lèm bèm của
mi
Mi là con ma trong cây bên ngoài
Phố yên tĩnh
Thời tiết, như ngày mai, như đời mi
Thì, một phần ở đây, một phần ở mãi tít trên kia
Mi thì vô phương, chẳng làm gì được với cái chuyện như thế
đó
Một đời OK, là một đời đếch
đề ra, một cảnh báo cảnh biếc cái con mẹ gì cả.
Nó phì phào cái khí hậu của sự chán chường
Và tỏ ra, trên mặt đất, trong tiếng chân đi, không thể nhận
ra, chẳng dâng hiến cái gì,
Và mi, có đó!
IN MEMORIAM
Give me six lines written by the most honourable
of men,
and I will find
a reason in them to hang him.
-Richelieu
We never found the last lines
he had written,
Or where he was when they found him.
Of his honor, people seem to know nothing.
And many doubt that he ever lived.
It does not matter. The fact that he died
Is reason enough to believe there were reasons.
IN MEMORIAM
Cho ta sáu
dòng được viết bởi kẻ đáng kính trọng nhất trong những bực tu mi
Và ta sẽ tìm
ra một lý do trong đó để treo cổ hắn ta
-Richelieu
Chúng ta không kiếm ra những
dòng cuối cùng hắn viết
Hay hắn ở đâu, khi họ tìm thấy hắn
Về phẩm giá của hắn, có vẻ như người ta chẳng biết gì
Và nhiều người còn nghi ngờ, có thằng cha như thế ư
Nhưng cũng chẳng sao, nói cho cùng
Sự kiện hắn ngỏm là đủ lý do để mà tin rằng có những lý do.
người. ở lại
em có ở lại? mùa đông năm nay có lẽ sẽ dài hơn. và lạnh hơn. không hiểu
sao lại có cảm giác như vậy. những vỡ toang tận góc xa nhất của tâm hồn. rồi
có ai nhặt lại những mảnh vỡ đó. nhưng để làm gì.
bài hát yêu thích nhất. vừa dứt. nốt nhạc cuối còn rưng rưng. đưa ly rượu
cạn cho người phục vụ.
bước chân loạng choạng. theo chiếc lá khô xoay quanh quanh trên mặt đường.
một mình. và một chiếc lá. em đã không đến?
mùa nào say khướt. mênh mông tiếng cười. đã là dĩ vãng. gió. gió heo may.
chớm thu. vàng những lá.thẫm cả một trời riêng. rừng. lá. và núi. lặng câm.
lá giấu biền biệt những bước chân em. chỉ còn lại xạc xào. biết em nơi đâu?
những trốn tìm ngày cũ. một trời lồng lộng. đâu dịu dàng những cánh áo
hoa ngày đó. rồi em có đi?
mùa buồn nhất. cũng là mùa đẹp nhất. phủ. chụp một màu trắng toát lên mọi
vật.
nước từng giọt đi vào thân thể. căn phòng cũng một màu trắng đùng đục.
có người cúi đầu đọc ngàn câu thơ tình yêu. nói nghìn lời níu kéo. cánh
buồm căng căng gió. và em có về?
đôi mắt khép. lặng im. một đường thẳng tít tắp. tiếng u u vô nghĩa.
thôi em đừng khóc. những giọt nước mắt. rồi cô độc vĩnh viễn. tiễn tôi.
Đài Sử
DESCRIPTION
It was like a teetering house of cards,
A contortionist strumming a ukulele,
A gorilla raging in someone's attic,
A car graveyard frantic to get back
On the interstate highway in a tornado,
Tolstoy's beard in his mad old age,
General Custer's stuffed horse ...
What was? I ask myself and have no idea,
But it'll come to me one of these days.
-Charles Simic
Thơ trên trang Tinvan (tanvien.net)
DESCRIPTION
It was like a teetering house of cards,
A contortionist strumming a ukulele,
A gorilla raging in someone's attic,
A car graveyard frantic to get back
On the interstate highway in a tornado,
Tolstoy's beard in his mad old age,
General Custer's stuffed horse ...
What was? I ask myself and have no idea,
But it'll come to me one of these days.
-Charles Simic
Bác Gúc dịch
Dọa
Giống như ngôi nhà phập phù dựng bằng các lá bài
như người nhào lộn gảy đàn ukulele
như con khỉ đột đại náo tầng áp mái
như cái xe nát cuồng phóng hòng trở lại trên xa lộ liên bang
chòm râu của Tolstoy trong cảnh già rồ dại
đàn chiến mã (của tướng Custer) nhồi bông
là cái gì? Tôi tự hỏi và tuyệt không một ý tưởng
Nhưng nó sẽ đến lúc nào đó trong những lúc này
SWEPT AWAY
Melville had the sea and Poe his nightmares,
To thrill them and haunt them,
And you have the faces of strangers,
.Glimpsed once and never again.
Like that woman whose eye you caught
On a crowded street in New York
Who spun around after she went by you
As if she had just seen a ghost.
Leaving you with a memory of her hand
Rising to touch her flustered face
And muffle what might've been something
Being said as she was swept away.
-Charles Simic
HYUNDAI SONATA
IN D MAJOR
It was during the waiter meme scare, that was the short of it.
Some had furloughs by the hour, others came crisp to focus.
I was lemon-faced, just jungling around, honking for light in
hallways, noticing the kilowatt immensity of a bathroom stall.
Blindly, my cavities called me to questioned office. I reached
around for eiderdown allowance, a tort's incestuous waiting.
This was, after all, but yesterday. How else am I supposed
to suppose life significant, aghast in aisles of T84 calculators,
febrile as wrinkled springs spigotting off a billboard Danube?
I'm a resurrection junkie and collect culture's dejected viscera
for trace evidence of what some call the afterlife's afterlife.
Robust statuary. Like the scene of Psyche & Memory. Draw
closer now. Send in the closer now. Give me a chaser now.
I leak and shed off shadows strictly diurnal in solem~ity.
On the moonscape, a pimpled giraffe-float was but the sky.
And you, chump, were scenery to spare-but I cared. A lot.
I invited you in, a tube for tawdry gawking bellwethers.
Pumpernickel rode bitch. Cry moaned. Each was his own.
-Adam Fitzgerald
NRYB, Nov 5 2015
Pico Iyer
Theo GCC, cuốn
Người Mỹ Trầm Lặng được phát sinh, là từ cái tên
Phượng, đúng như trong tiềm thức của Greene mách bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn tiên tri ra được cuộc xuất cảng
người phụ nữ Mít cả trước và sau cuộc chiến, đúng như lời anh ký giả Hồng
Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng thứ ba” và đem Phượng về Mẽo,
quên cha luôn cái xứ sở khốn kiếp Mít này đi!
Mít vs Lò Thiêu Người
KIỀU
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như
Nguyễn Du
... Continue Reading
Courtship
Kua Ghệ
Từ níu vạt áo nàng quỳ
xuống nài nỉ, nàng dần dần xiêu lòng, đưa nhau vào phòng. Vừa mở dây lưng....
Tiền
kiếp của Gấu
There is a girl you like so you tell her
your penis is big, but that you cannot get yourself
to use it. Its demands are ridiculous, you say,
even self-defeating, but to be honored somehow,
briefly, inconspicuously in the dark.
When she closes her eyes in horror,
you take it all back. You tell her you're almost
a girl yourself and can understand why she is shocked.
When she is about to walk away, you tell her
you have no penis, that you don't
know what got into you. You get on your knees.
She suddenly bends down to kiss your shoulder and you know
you're on the right track. You tell her you want
to bear children and that is why you seem confused.
You wrinkle your brow and curse the day you were born.
She tries to calm you, but you lose control.
You reach for her panties and beg forgiveness as you do.
She squirms and you howl like a wolf. Your craving
seems monumental. You know you will have her.
Taken by storm, she is the girl you will marry.
Only they had escaped
to tell us how
the house had gone
and things had vanished,
how they lay in their beds
and were wakened by the wind
and saw the roof gone
and thought they were dreaming.
But the starry night
and the chill they felt were real.
And they looked around
and saw trees instead of walls.
When the sun rose
they saw nothing of their own.
Other houses were collapsing.
Other trees were falling.
They ran for the train
but the train had gone.
They ran to the river
but there were no boats.
They thought about us.
They would come here.
So they got to their feet
and started to run.
There were no birds.
The wind had died.
Their clothes were tattered
and fell to the ground.
So they ran
and covered themselves
with their hands
and shut their eyes
and imagined us
taking them in.
They could not hear
the sound of their footsteps.
They felt they were drifting.
All day they had run
and now could see nothing,
not even their hands.
Everything faded
around their voices
until only their voices were left,
telling the story.
And after the story,
their voices were gone.
2
They were not gone
and the story they told
was barely begun;
when the air was silent
and everything faded
it meant only that these
exiles came
into a country
not their own,
into a radiance
without hope.
Having come too far,
they were frightened back
into the night of their origin.
And on their way back
they heard the footsteps
and felt the warmth
of the clothes they thought
had been lifted from them.
They ran by the boats at anchor,
hulking in the bay,
by the train waiting
under the melting frost of stars.
Their sighs were mixed
with the sighs of the wind.
And when the moon rose,
they were still going back.
And when the trees
and houses reappeared,
they saw what they wanted:
the return of their story
to where it began.
They saw it in the cold
room under the roof
chilled by moonlight.
They lay in their beds
and the shadows of the giant trees
brushed darkly against the walls.
Mark Strand: Selected Poems
Prince
of poetry
Sunset's Coloring Book
The blue trees are arguing with the red wind.
The white mare has a peacock for a servant.
The hawk brings the night in its claws.
The golden mountain doesn't exist.
The golden mountain touches the black sky.
Charles Simic
Sách màu mặt trời lặn
Cây xanh lầu bầu với gió đỏ
Ngựa cái trắng có con công làm tên hầu
Con chim ưng đem đêm, những móng nhọn của nó, vô.
Ngọn núi vàng đếch có.
Ngọn núi vàng đụng bầu trời đen.
Without a Sough of Wind
Against the backdrop
Of a twilight world
In which one has done so little
For one's soul
She hangs a skirt
On the doorknob
Put s a foot on the chair
To lake off a black stocking
And it’s good to have eyes
Just then for the familiar
Large swinging breast
And the cleft of her ass
Before the recital
Of that long day's
Woes and forebodings
In the warm evening
With the drone of insects
On the window screen
And the lit dial of a radio
Providing what light there is
Its sound turned much too low
To make out the words
Of what sounds like
A silly old love song
Charles Simic: New and selected poems
Không một cọng gió
Chống lại cái nền của thế giới
chạng vạng/loạng quạng
Trong đó, chẳng ai làm gì được, dù chỉ một tí ti
Cho linh hồn Gấu Cà Chớn
Nàng treo cái áo thun
Lên núm cửa
Để một cẳng lên ghế
Lột cái vớ đen
Lúc này Gấu thoải mái làm sao
Chiêm ngưỡng cái quen thuộc
Cái gì gì, “ta về ta tắm ao ta”, là
Cặp vú bự ơi là bự
Lắc ơi là lư
Ui chao, cái gì gì, như là 1 đường nứt đen đen
Ở chảo của nàng
Trước cuộc trình diễn
Về những nỗi thống khổ và những điềm gở
Của ngày dài
Trong buổi chiều ấm áp
Với tiếng o o của bầy ong
Trên màn kính cửa sổ
Và cái chấm sáng tìm đài của cái la dô
Thì cứ kể như ánh sáng, “thôi thì thôi cũng thế thôi”,
Là thế đó
Âm thanh quá trầm, quá nhỏ
Để bật lên thành lời
Nhưng đúng là 1 bài tình ca của cái tay họ Trịnh cà chớn.
Shin Kyung-sook had earlier denied using material by Yukio Mishima, but
has now apologised, saying ‘I can’t believe my own memory’
Nữ văn sĩ Đại Hàn, giải thưởng văn học Man Asian Prize, thừa nhận có chôm
Mishima, nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ, đúng như Faulkner phán, cần thì
trấn lột cả bà cụ của mình, và đúng như thế: Tờ Người Kinh Tế, số mới có
1 bài thần sầu về nữ diệu thủ văn sĩ này!
The
lone room of Kyung-Sook Shin's Seoul
Left behind
The human breast moves in complex
ways, a fleshy oscillation. This was demonstrated in an experiment conducted
by Australian researchers, in which large-busted women ran on a treadmill
while wearing infrared-emitting diodes on their chests. I wince at the thought
of it. Breasts have no muscle; they are collections of glandular and fibrous
connective tissues and fat, supported in part by the skin. The average
weight of a woman’s breast is around a pound, but breast weights of ten
pounds and above are possible; breasts range from soft lemons to flopping
eggplants, and they swing, brother: a demonstration of Newton’s second law
with every step.
Unlike other mammals, humans have breasts that remain mature
outside lactation. We are born with mammary glands spread within the chest
wall, stretching from the armpit down toward the groin, but not with breasts.
They are the only organs to develop after birth — usually a single pair,
though extra breasts do occur, in both men and women. Unmistakable, yet greatly
varied, the visible breast can be shaped like a pear, melon, apricot, or
orange — for some reason, produce is a common metaphor — but also like a
cone, sausage, softball, plate, ham, or loaf of bread. The fibrous tissue
of the breast is a kind of suspensory structure called Cooper’s ligaments
that allows the breasts to move freely but gives little support. Breasts
may lie near each other or be widely spaced; they may grow high on the chest
or low. The nipples can point toward each other, away from each other, up,
down, or straight ahead.
Illustration by Katherine Streeter
Breasts can change dramatically, sometimes gaining and losing
more than 10 percent of their weight during a single menstrual cycle. Size
is largely a matter of fat deposition and seems to be genetically determined.
Fat women can have small breasts and slim women can have medium breasts,
but the idealized figure with large breasts on a thin body is rare — at least
rare in nature. Not uncommonly, a woman’s breasts are different sizes. Breasts
of the same shape and size may have different mass; breasts of different
shapes may have the same mass but different degrees of flaccidity. For women,
the peak of breast development is around the age of twenty, and atrophy begins
by forty. Breasts come and breasts go, and when gone, they are often acutely
missed.
No one can explain why women have continually
swollen breasts; the evolutionary function of such a unique body part is
hard to fathom. Many have theorized that the loss of strong pheromonal attractants
in humans required a compensatory mechanism — because otherwise how would
a man know a woman? Such theories fail to explain a great deal about human
sexual desire and even less about the life of the breasted. We simply have
them, almost all our lives.
Note: Bài này tuyệt quá. Đi tìm cái xú chiêng
tuyệt hảo.
Bạn đọc Tin Văn, đọc bài này, kèm bài thơ thần sầu của Charles Simic, ca
tụng "Dzú", thì mới hết xẩy con cào cào!
Xin post liền tù tù tì.
Câu thơ này mà chằng quá mê sao:
Tên già nằm trên giuờng, chờ đi xa
Bèn năn nỉ bà vợ
Cho coi dzú lần chót
Là tên đại thi sĩ đã từng sống trên cõi đời này
That the old janitor on his deathbed
Who demands to see the breasts of his wife
For the last time
Is the greatest poet who ever lived
Hay câu này:
Tớ mê dzú, cứng
Đầy thật đầy, được canh giữ
Bởi cái nút áo!
I love breasts, hard
Full breasts, guarded
By a button
Ba lịch sử
[bản dịch mới]
Có, ít ra là ba lịch sử khác
nhau, không phải một: lịch sử của sức mạnh, lịch sử của cái đẹp, và lịch sử
của khổ đau. Chỉ có hai cái đầu là được lên bảng, ít hoặc nhiều. Chúng có
những vì giáo sư, có những cuốn sách, sổ học. Nhưng khổ đau đếch có dấu vết.
Nó câm, nói về mặt lịch sử. Một tiếng la, khóc, thét… làm sao… kéo dài, hà, hà! Cũng đếch có một cái “note symbol” - biểu
tượng ghi chú - để đại diện cho nó, và làm cho nó kéo dài.
Chính vì thế mà thật là khó khăn để mà hiểu yếu tính của Lò Cải Tạo,
của Lò Thiêu. Từ cái nhìn của lịch sử của sức mạnh, nó là một thời kỳ không
đáng nghiên cứu cặn kẽ. Làm sao so được với đỉnh chao chói lọi, chiến thắng
Điện Biên, Điện Biên Phủ Trên Không, thí dụ? Nhưng với lũ Ngụy, vốn thuộc
dòng lịch sử của khổ đau, thì nó là cơ bản, là trung tâm, là tất cả - chúng
làm đéo gì có 1 thứ lịch sử nào khác, hà, hà!
Đau đớn thay bất hạnh thay, đếch có thứ lịch sử của khổ đau, Những nhà
sử học của nghệ thuật cũng đếch thèm quan tâm đến Trại Tù VC, Lò Cải Tạo.
Chứng cớ rõ ràng là lũ VC, chúng đâu có nhớ có 1 thời kỳ chúng dâng vợ
con của chúng cho Tẫu, để ăn cướp Miền Nam, nghĩa là để làm ra cái gọi là
lịch sử khổ đau cho Lũ Ngụy!
Trại Tù VC ư? Rừng thượng du Bắc Kít, bầu trời lùn tịt, sương trắng Cổng
Trời, đám họa sĩ VC chưa từng triển lãm tranh về nó, và họa sỡi Ngụy thì cũng
không!
THREE HISTORIES
THERE ARE AT least three different
human histories, not one: the history of force, the history of beauty, and
the history of suffering. Only the first two are cataloged and recorded, more
or less. They have their professors and their textbooks. But suffering leaves
no traces. It is mute. That is, mute historically. A scream does not last
long, and there is no note symbol to represent it and make it last.
That is why it is so difficult to understand the essence of Auschwitz.
From the point of view of the history of force, it was an episode, undeserving
of closer study. How much more interesting was the Battle of Wagram, for example.
As the history of suffering, Auschwitz was fundamental. Unfortunately, the
history of suffering does not exist. Art historians are not interested in
Auschwitz either. Mud, barracks, low skies. Fog and four skinny poplars. Orpheus
does not stroll this way. Ophelia doesn't choose to drown here.
Adam Zagajewski: Two Cities
Ba lịch sử [cũ]
Có ít nhất là ba lịch sử con
người khác nhau, không phải một. Lịch sử sức mạnh. Lịch sử nhan sắc, và lịch
sử của sự đau khổ. Chỉ hai cái đầu là được nghiên cứu, xếp loại, ghi chú,
ghi âm, ghi nhận… nhiều hoặc ít. Chúng có những vị giáo sư, những sổ sách.
Nhưng đau khổ đếch để lại một vết tích. Nó câm. Nghĩa là, câm, về mặt lịch sử mà nói. Một tiếng la đâu
có kéo dài. Và đếch có 1 biểu tượng, sử dụng như là ghi chú, tiểu chú cái
con mẹ gì đó, để thay mặt nó, trình nó ra, và làm cho nó có tuổi thọ.
Chính vì thế mà thật là khó khăn khi tìm, hiểu, cái gọi là yếu tính của
Lò Thiêu. Nhìn từ quan điểm lịch sử của sức mạnh, thì nó là một thời kỳ, không
đáng để bỏ công nghiên cứu, gần hay không gần, xa hay không xa. Cuộc chiến
tranh thần thánh đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thí dụ, bảnh hơn nhiều, cần
nghiên cứu cho ngàn ngàn đời sau.
Nhìn từ lịch sử của khổ đau, Lò Thiêu là cơ bản, là chủ yếu. Nhưng than
ôi, làm đếch gì có thứ lịch sử của khổ đau?
Những sử gia của nghệ thuật cũng đếch thèm để ý đến Lò Thiêu. Bùn, trại
tù dây kẽm gai, bầu trời lùn tịt. Thềm sương mù lù tà mù, rừng bạch dương
trơ xương. Orpheus đâu có đi dạo hướng đó. Ophelia đâu chọn nơi chốn tệ hại
như thế để mà trầm mình.
Adam
Zagajewski: Two Cities
Note: Gấu tính
dịch cái tít là “Một Mùa Thu Năm Qua Cách Mạng Tiến Ra”, thuổng PD, để tưởng
niệm cuộc cách mạng của VC, nhân chúng mới bày ra triển lãm CCRD.
Nhưng cái tít cứ để nguyên như thế, thì lại nói ra được nhiều hơn thế nhiều,
hà hà!
Đấu tranh đi tới cực đoan
Khẩu hiệu đi tới cực đoan
Cây kéo ăn đá đi tới cực đoan
Tôi nghe không khí đang rụng rơi
Điều này hoàn toàn thích hợp
với mi
Trong mùa thu đời xưa
Một người chết vì điều này
Nuốt vào chán mứa
Nuốt cả hổ giấy
Mà miệng nhân dân không ngoác đến tai
Hôm nay tôi lại bắt đầu
Nghiên cứu các kiểu hi sinh
Thứ ánh sáng cao ngất trời
Xương cốt cách mạng sắc nhọn
Lúc này, ở Thành Đô
Mọi người ùa tới
Đưa xe hơi cho tôi
Đưa cực đoan cho tôi
Đưa bạo lực và quảng trường cho tôi.
Dã Viên
dịch, từ nguyên tác
Sunset's Coloring Book
The blue trees are arguing with the red wind.
The white mare has a peacock for a servant.
The hawk brings the night in its claws.
The golden mountain doesn't exist.
The golden mountain touches the black sky.
Charles Simic
Sách màu mặt trời lặn
Cây xanh lầu bầu với gió đỏ
Ngựa cái trắng có con công làm tên hầu
Con chim ưng đem đêm, những móng nhọn của nó, vô.
Ngọn núi vàng đếch có.
Ngọn núi vàng đụng bầu trời đen.
It looks so dark
the end of the world may be near.
I believe it's going to rain.
The birds in the park are silent.
Nothing is what it seems to be,
Nor are we.
There's a tree on
our street so big
We can all hide in its leaves.
We won't need any clothes either.
I feel as old as a cockroach, you said.
In my head, I'm a passenger on a ghost ship.
Not even a sigh
outdoors now.
If a child was left: on our doorstep,
It must be asleep.
Everything is teetering on the edge of everything
With a polite smile.
It's because there
are things in this world
That just can't be helped, you said.
Right then, I heard the blood orange
Roll off the table and with a thud
Lie cracked open on the floor.
Cam máu
Trời đất quá âm
u chắc là trái đất sắp đi đứt
Tớ nghĩ là trời sắp mưa
Chim chóc công viên bèn nín thinh
Chẳng có gì ra cái gì
Chúng mình thì cũng rứa.
Phố chúng mình có
cái cây thật bự
Chúng mình có thể ẩn trong đám lá của nó
Đếch cần quần áo nữa, tất nhiên
Em cảm thấy lạnh như con rán, nàng nói
Trong đầu của anh, anh thấy mình là 1 hành khách trên con tàu ma
Ngay cả 1 tiếng
thở dài cũng đếch có, ở bên ngoài
Nếu thằng bé con bị bỏ ở thềm cửa
Hẳn là nó ngủ rồi
Mọi thứ thì như bấp bênh bồng bềnh, ở mép bờ của mọi thứ
Với 1 nụ cười lịch sự
Nếu như có
những điều này điều nọ ở trên cõi đời này
Ấy là bởi vì cũng theo hư không đi, nghĩa là chẳng đi đến đâu, đừng hy
vọng, em phán
Đúng lúc đó, tôi nghe trái cam máu
Rớt khỏi mặt bàn
Nghe đánh cộp 1 phát
Nằm tênh hênh, vỡ đôi, vỡ ba
Trên sàn nhà.
WALKING
I never run into
anyone from the old days.
It's summer and I'm alone in the city.
I enter stores, apartment houses, offices
And find nothing remotely familiar.
The trees in the park-were they always so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the bus that passed this way?
Where are the greengrocers and hairdressers,
And that schoolhouse with the red fence?
Miss Harding is probably still at her desk,
Sighing as she grades papers late into the night.
The bummer is, I can't find the street.
All I can do is make another tour of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me the way
And a place to sleep, since I've no return ticket .
To wherever it is I came from earlier this evening
Charles Simic:
That Little Something
Cuốc
Bộ
Tớ chẳng đụng đầu
với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào.
Mùa hạ, tớ một mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.
Cây trong công viên – Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm cắt tóc?
Rồi cái ngôi trường giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm ra con phố.
Tất cả những gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy vọng kiếm ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở về bất kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.
Note: Đúng là cái
lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà. Đếch làm sao kiếm
ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải, đành đi trở ra, nhưng
bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói lớn, vọng tới
Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân....Tới
đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên được
nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, [ở bài thơ trên] nhưng thay
vào đó, là mấy con gà đang lang thang trong sân đất…
Hát ở đâu đâu...
Ngoảnh nhìn lại quãng nửa nhà nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)
Không phải tiếc cuộc đời đã sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.
Đêm mở ra giấc mộng cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi.
Mùa thu ở đây đẹp não nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh ty
Mộ thành tuyết
Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng cuối
Hát ở đâu đâu...
Cô bạn thân ơi, những ngày tháng đó
Chạy xe như điên trên đường phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng những hồn ma Mậu Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi
Trong vương quốc của những người đã
chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu giấc mộng cuối (2)
(1)... that lonely halfway house which we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm Tuyền
NQT
Cây cầu ở Mỹ giống hệt một bức tranh phong
cảnh theo trường phái ấn tượng khi thu về.
Thu 2015
by VBT
Thu 2014
Oct 17 at 9:47 PM
Hello. Anh Tru & Chi Hong
Vua roi thang 8, nghe anh qua Cali, ma khong thay.
Anh & Chi Hong khoe khong
Ben day ngay nao cung say, ke me no, ai noi gi cung cho qua.
Tham vai hang, nho tra loi.
NDT
Tks
Tính Noel qua
Bà Hong OK
GCC, OK, “ke me no, ai noi gi cung cho qua” !
Take Care All
NQT
Popular Mechanics
The enormous engineering problems
You'll encounter attempting to crucify yourself
Without helpers, pulleys, cogwheels,
And other clever mechanical contrivances-
In a small, bare, white room,
With only a loose-legged chair
To reach the height of the ceiling-
Only a shoe to beat the nails in.
Not to mention being naked for the occasion-
So that each rib and muscle shows.
Your left hand already spiked in,
Only the right to wipe the sweat with,
To help yourself to a butt
From the overflowed ashtray,
You won't quite manage to light-
And the night coming, the clever night.
Charles Simic
Cơ học phổ thông
Đủ thứ khó khăn kỹ thuật
Một khi bạn tính tự đóng đinh, làm thịt mình
Theo kiểu Chúa Ky Tô
Không cần người trợ giúp, ròng rọc, bánh răng cưa
Và còn đủ thứ mưu mẹo cơ khí khác nữa
Trong một căn phòng nhỏ, trần trụi, trắng toát
Với chỉ một cái ghế long chân
Làm sao với tới trần nhà
Với mỗi một cái giầy để đóng đinh?
Chưa nói chuyện phải trần như nhộng
Khoe xương sống xương sườn
Tay trái của bạn thì đã vô dụng
Nghĩa là đã được đóng đinh thập tự, như Chúa Cả rồi
Chỉ còn tay phải để lau mồ hôi
Làm sao tự mình xoay sở
Với chú dế nhũi trên cái gạt tàn thuốc
Làm sao đốt cây quẹt
Khi đêm tới
Ôi đêm ơi là đêm
Một đêm đầy thông minh
Đầy cứu rỗi
October Arriving
I only have a measly ant
To think with today.
Others have pictures of saints,
Others have clouds in the sky.
The winter might be at the door,
For he's all alone
And in a hurry to hide.
Nevertheless, unable to decide
He retraces his steps
Several times and finds himself
On a huge blank wall
That has no window.
Dark masses of trees
Cast their mazes before him,
Only to erase them next
With a sly, sea-surging sound ..
Charles Simic
Tháng Muời tới
Tớ có con kiến nhảm nhí
Để suy tư, bữa nay
Những người khác có những hình thánh
Những người khác, những đám mây trên bầu trời
Mùa đông hẳn là chực sẵn, ngay
ngoài cửa
Thì lẽ dĩ nhiên, tất cả chỉ cho “ẻn”
Và, trong vội vã, để lẩn trốn
Tuy nhiên, khó có thể quyết định
Hắn lần những dấu chân của mình
Vài lần, và tìm thấy, chính hắn
Trên bức tường rộng trống trơn
Không cửa sổ
Khối đen cây lớn
Ném mê cung của
chúng, trước hắn
Chỉ để xóa đi,
liền đó
Bằng một tiếng
động, như biển dâng, kín đáo.
AN AMBUSH
None survived.
The platoon had forgotten
the fable of the patient fox, waiting
for the night's sudden
drop to zero.
A minute is all it takes
and the white lake is dotted in stars
already frozen red,
and the blown feathers of ducks.
Just their feet left
still standing there, webbed hard
into the trap-ice.
-Robin Robertson
NYRB Feb 11, 2010
Phục Kích
Chẳng ai sống sót
Tiểu đội quên ngụ ngôn con chồn
Kiên nhẫn đợi đêm,
Bất thần rớt xuống không độ
Một phút, là xong
Và giải ngân hà điểm những vì sao trắng
Đóng băng một màu đỏ
Và lông vịt bay tứ tung
Chưn vịt dính cứng vô bẫy băng
Số báo này có bài tưởng niệm Brodsky, đi rồi.
Cùng với bài của Anne Applebaum, đọc tiểu sử Koestler, Người hôm qua?
Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất của ông
January 2001
Archangelsk, cái lạnh mặn, những
con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc Cực của mặt trăng
vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.
Mặt trời rùng mình sau những
ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng Viễn Bắc lù tù
mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu hình đấu với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến Lạnh chẳng hề
chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con mèo bướng bỉnh,
đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải
Sau đó, là một cuộc tản bộ lầy
lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi nghe có những tiếng
giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ thật là dầy của đêm
đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức giấc, bổ choàng vào
trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.
Edward Hirsch.
Gõ Google, ra bài này,
cũng quá tuyệt, bèn chơi luôn, trình bản tiếng Mít sau:
A Partial History Of My Stupidity
By Edward Hirsch
Traffic was
heavy coming off the bridge,
and I took
the road to the right, the wrong one,
and got stuck
in the car for hours.
Most nights
I rushed out into the evening
without paying
attention to the trees,
whose names
I didn't know,
or the birds,
which flew heedlessly on.
I couldn't
relinquish my desires
or accept them,
and so I strolled along
like a tiger
that wanted to spring
but was still
afraid of the wildness within.
The iron bars
seemed invisible to others,
but I carried
a cage around inside me.
I cared too
much what other people thought
and made remarks
I shouldn't have made.
I was silent
when I should have spoken.
Forgive me,
philosophers,
I read the
Stoics but never understood them.
I felt that
I was living the wrong life,
spiritually
speaking,
while halfway
around the world
thousands of
people were being slaughtered,
some of them
by my countrymen.
So I walked
on—distracted, lost in thought—
and forgot
to attend to those who suffered
far away, nearby.
Forgive me,
faith, for never having any.
I did not believe
in God,
who eluded
me.
On poetry, piety and the pope
http://www.economist.com/blogs/prospero/2015/09/dorothy-day-and-wh-auden
IN HIS address to Congress last week, Pope Francis
named Dorothy Day, founder of the Catholic Worker Movement, as one of four
great Americans he admired. The other three were Abraham Lincoln, Martin
Luther King junior and Thomas Merton. Few people would have been more delighted
with this tribute to Day than a fellow New Yorker, W. H. Auden.
Poems October 12,
2015 Issue
The New Yorker
Breasts
By Erica Jong
I always thought
they were small—my breasts.
But they filled my baby’s mouth.
& my lover’s tongue
loves them,
& my memory is
filled with all
the pleasure they gave
over the years,
while my mother’s
100-year-old breasts
still hang
waiting.
For what?
For the tongue
of God?
For the spinning Fates
to release them
into the clouds
so she can remember
how to paint
again?
The sky awaits,
& earth itself.
She used to say,
we all
go back to earth
& become
beautiful tomatoes,
peas, carrots.
She was an
ecologist
before the term was invented.
O Mother
I love you
despite everything.
Peas, carrots,
cauliflower.
Even cabbage.
Vú
Tôi luôn nghĩ
Vú mình nhỏ
Nhưng nó đầy một miệng,
Thằng nhỏ
Đã, 1 lần liếm
Thằng bố,
Mê lắm.
Hồi ức của tôi thì chật cứng những khoái lạc
Mà hai bố con đem tới cho tôi bao năm tháng
Trong khi vú của má tui
Một trăm tuổi đời
Vưỡn treo tòng teng
Đợi
Đợi, gì chứ?
Lưỡi ông Trời
Những Kiếp này Kiếp khác
Để giải thoát chúng
Vô những đám mây
Để cho bà có thể nhớ
Làm sao lại sơn phết?
Trời đợi
& đất chính nó
Bà thường nói
Tất cả chúng ta thì đều trở lại với đất
& trở thành
những trái cà tô mát, đậu, cà rốt xinh đẹp
Bà là 1 nhà sinh thái học
Trước khi từ này được phịa ra
Ôi má ơi
Con thương má
Mặc dù mọi chuyện
Đậu, cà rốt
Cauliflower
Ngay cả bắp cải.
Minimum Wage
My mother and I are on the front porch lighting
each other’s cigarettes
as if we were on a ten-minute break from our jobs
at being a mother and son,
just ten minutes to steal a moment
of freedom before clocking back in,
before putting the aprons back on, the paper hats,
washing our hands twice and then standing
behind the counter again,
hoping for tips, hoping the customers
will be nice, will say some kind word, the cool
front yard before us and the dogs
in the back yard shitting on everything.
We are hunched over, two extras on the set of “The Night of the Hunter.”
I am pulling
a second cigarette out of the pack,
a swimmer rising from a pool of other swimmers.
Soon we will go back inside and sit
in the yellow kitchen and drink the rest of the coffee
and what is coming to kill us will pour milk into mine
and sugar into hers. Some kitchens
are full of mothers and sons with no mouths, no eyes,
and no hands, but our mouths are like the mouths of fire-
eaters and our eyes are like the million
eyes of flies. Our hands are like the hands of the living.
-Matthew Dickman
DUSKO NOVAKOVIC
[1948-]
Author of some dozen collections of poetry, Novakovic studied literature
in Belgrade and has worked over the years as an editor for some of the leading
Serbian literary magazines and newspapers. The poems translated here come
from his two recent books: Scatterbrain's Drawing (2002) and The Idiot and
His Teacher (2007).
The Kiosk Was Closed
I went along the avenue farther and farther
And down side streets and even farther than that,
Until I caught sight of you under a light pole,
O, thrown, half-burnt cigarette from a stranger's mouth!
Drawing a breath of your blazing heart
Has meant more to me since that day than any love poem.
Charles Simic dịch và giới thiệu, trong tuyển tập thơ Serbia, Ngựa Sáu
Cẳng, “The Horse has six legs”.
Bài thơ này, Gấu nhớ là đã giới thiệu rồi. Nhớ là có nhờ K hiệu đính
nữa, vậy mà tìm hoài không thấy.
Đành dịch lại.
DUSKO NOVAKOVIC
[1948-]
Author of some dozen collections of poetry, Novakovic studied literature
in Belgrade and has worked over the years as an editor for some of the leading
Serbian literary magazines and newspapers. The poems translated here come
from his two recent books: Scatterbrain's Drawing (2002) and The Idiot and
His Teacher (2007).
The Kiosk Was Closed
I went along the avenue farther and farther
And down side streets and even farther than that,
Until I caught sight of you under a light pole,
O, thrown, half-burnt cigarette from a stranger's mouth!
Drawing a breath of your blazing heart
Has meant more to me since that day than any love poem.
Charles Simic dịch và giới thiệu, trong tuyển tập thơ Serbia, Ngựa Sáu
Cẳng, “The Horse has six legs”.
Bài thơ này, Gấu nhớ là đã giới thiệu rồi. Nhớ là có nhờ K hiệu đính nữa,
vậy mà tìm hoài không thấy.
Đành dịch lại.
Bài ca buồn của Sonny
All I know about music is that not many people ever really
hear it. And even then, on the rare occasions when something opens within,
and the music enters, what we mainly hear, or hear corroborated, are personal,
private, vanishing evocations. But the man who creates the music is hearing
something else, is dealing with the roar rising from the void and imposing
order on it as it hits the air. What is evoked in him, then, is of another
order, more terrible because it has no words, and triumphant, too, for that
same reason. And his triumph, when he triumphs, is ours.
James Baldwin – Trích từ tác phẩm Sonny’s Blues (Bài Ca
Buồn của Sonny)
Tất cả những điều tôi hiểu biết về âm nhạc là không mấy người
thật sự nghe nhạc. Ngay cả những lúc thật hiếm hoi, khi lòng chúng ta mở
cửa, cho âm nhạc đi vào, những điều chủ yếu chúng ta nghe, hoặc nghe để
phụ họa, là những điều rất riêng tư, những ký ức đã và đang biến mất. Nhưng
người nhạc sĩ sáng tạo ra âm nhạc thì lại nghe cái gì đó rất khác, hắn phải
ứng phó với cái tiếng gầm rống đang dâng lên trong hố thẳm của tâm hồn và
thiết lập một thứ trật tự trên cái tiếng gầm rống ấy khi nó xuất hiện. Cái
đã trổi dậy bên trong hắn, lại nằm ở một trạng thái trật tự khác, càng đáng
khiếp hãi hơn vì nó không có lời nói, rồi cũng vì không có lời nói mà nó
thắng thế. Và sự thắng cuộc của chàng, khi chàng thật sự thắng, cũng là sự
thắng cuộc của chúng ta.
Tuyệt. Nhưng Blues dịch là buồn, có lẽ không nên.
Blues là Blues.
Mẩu trên, nếu Gấu dịch, chắc là có tí khác.
Hình như TTT có câu:
Blues không xanh mà Blues đen...
Tim rũ rượi
Regards
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tuỷ của hờn bắt
đầu ngày tháng
Giữa rừng không lối rừng mãi trống không
(…)
Vì blues không xanh, vì điệu blues đen
Trên màu da nức nở
(«Đen», Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957) (1)
Đọc entry, trên, nhân ghé tiệm sách, bèn quơ luôn 1 cuốn về Baldwin.
Note: Norfolk
The physical (or,
rather, metaphysical) attitude of the passenger, who is “sailing backwards
with banished time”, is reminiscent of Walter Benjamin's "angel of history":
the "storm [from Paradise] irresistibly propels him into the future to which
his back is turned, while the pile of debris before him grows skyward" (Illuminations,
trans. Harry Zohn, London: 1973 [p. 260]). The reason for the poem's description
of Norfolk as a Louisianan landscape is obscure....
Norfolk
Dong buồm ngược
Như một hành khách
Mà thời gian bị biếm,
Một quang cảnh Louisina
Được cư ngụ bởi những chủ cối xay gió vô hình
Nơi người Ai Cập
Trong chiếc thuyền sơn của mình
Dong buồm giữa những cánh đồng
Cung cách
thể chất (hay có thể nói, siêu hình) của một hành khách “du hành ngược lại….
với thời gian bị biếm”, làm nhớ đến “thiên thần lịch sử” của Walter Benjamin:
Trận bão [từ Thiên Đàng] đẩy anh ta, không làm sao cưỡng lại được về tương
lai, lưng anh ta quay lại, trong khi đống điêu tàn đổ nát trước mặt anh ta
cứ thể mà ùn mãi lên, tới tận ngọn đỉnh trời (Illuminations).
Eerie Effects of the
Hell Valley Wind on My Nerves
In the cathedral square
of a town he left
many years ago
the emigrant sits
reading the secret history
of Judge Dr. Daniel Paul Schreber
Events of war within
a life cracks
across the Order of the World
spreading from Cassiopeia
a diffuse pain reaching into
the upturned leaves on the trees
The black holes
of ghosts flying about
in the sky above
conceal as I know
li piu reconditi principii
della naturale filosofia
Come lacklustre times, you
in the midst of beauty
of obscenity my nights
will help you remember
a pale block of ice
slowly melting
The judge speaks
I am the stony guest
come from afar
and I think I am dead
Open these pages, he says,
and step smartly
into hell
76
Eerie Effects of the Hell Valley Wind on My Nerves ULW, H.
Title: the Hollentaler, translated here as Hell Valley Wind, is
an evening wind in Freiburg (where Sebald studied), blowing from east to west
through the Hollental and Dreisam Valley. In a different context, perhaps,
the word Hollental need not have been translated, but the poem requires
the reader's alertness to a notion of human hell-the world of Daniel Paul
Schreber. Schreber was a presiding judge in Dresden who was admitted to
an asylum at the height of his career and believed God was turning him into
a woman. Freud wrote on his case, as did C. G. Jung, Elias Canetti, Gilles
Deleuze, and Jacques Lacan. Schreber wrote accounts ( Memoirs of My Nervous
1l1ness) of his various periods of treatment in asylums.
In one, it is clear that some of his oppressors and the malevolent changes
they made in the world were linked to Cassiopeia. The phrase Order
of the World is a quotation from Daniel Paul Schreber's memoirs. Ii
piu reconditi principii della naturale filoscfia (the most secret principles
of natural philosophy): from Prodomo (1670) by Francesco Lana de Terzi
(1631-87), a Jesuit who proposed the idea of a vacuum airship and invented
an early form of Braille. In his memoirs, Schreber describes himself as a
stony guest who has returned from the distant past to a world grown unfamiliar.
Open ... into hell: English in the original text.
Bài ca buồn của Sonny
All I know about music is that not many people ever really
hear it. And even then, on the rare occasions when something opens within,
and the music enters, what we mainly hear, or hear corroborated, are personal,
private, vanishing evocations. But the man who creates the music is hearing
something else, is dealing with the roar rising from the void and imposing
order on it as it hits the air. What is evoked in him, then, is of another
order, more terrible because it has no words, and triumphant, too, for that
same reason. And his triumph, when he triumphs, is ours.
James Baldwin – Trích từ tác phẩm Sonny’s Blues (Bài Ca
Buồn của Sonny)
Tất cả những điều tôi hiểu biết về âm nhạc là không mấy người
thật sự nghe nhạc. Ngay cả những lúc thật hiếm hoi, khi lòng chúng ta mở
cửa, cho âm nhạc đi vào, những điều chủ yếu chúng ta nghe, hoặc nghe để
phụ họa, là những điều rất riêng tư, những ký ức đã và đang biến mất. Nhưng
người nhạc sĩ sáng tạo ra âm nhạc thì lại nghe cái gì đó rất khác, hắn phải
ứng phó với cái tiếng gầm rống đang dâng lên trong hố thẳm của tâm hồn và
thiết lập một thứ trật tự trên cái tiếng gầm rống ấy khi nó xuất hiện. Cái
đã trổi dậy bên trong hắn, lại nằm ở một trạng thái trật tự khác, càng đáng
khiếp hãi hơn vì nó không có lời nói, rồi cũng vì không có lời nói mà nó
thắng thế. Và sự thắng cuộc của chàng, khi chàng thật sự thắng, cũng là sự
thắng cuộc của chúng ta.
Tuyệt. Nhưng Blues dịch là buồn, có lẽ không nên.
Blues là Blues.
Mẩu trên, nếu Gấu dịch, chắc là có tí khác.
Hình như TTT có câu:
Blues không xanh mà Blues đen...
Tim rũ rượi
Regards
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tuỷ của hờn bắt
đầu ngày tháng
Giữa rừng không lối rừng mãi trống không
(…)
Vì blues không xanh, vì điệu blues đen
Trên màu da nức nở
(«Đen», Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957) (1)
Night, an alien city, I roamed
a street with no name.
Stone steps submerged me deeper
in otherness and thick spring.
A warm, small rain: birds sang,
guardedly, tenderly, from afar.
Ship sirens in the port
wailed farewell to the known earth.
In tenement windows, actors appeared,
from your dreams and my dreams: I knew
I was en route to the future, that lost
epoch-a pilgrim trekking to Rome.
Adam Zagajewski: Canvas
Cơn mưa nhỏ, ấm
Đêm, thành phố lạ,
Tôi lang thang con phố không tên
Bực đá nhấn tôi xuống sâu hơn nữa
Trong cái khác và mùa xuân dày đặc
Cơn mưa nhỏ, ấm: chim hót
Thận trọng, dịu dàng, xa xa
Tầu rúc còi ngoài cảng
Rền rĩ, than van, vĩnh biệt, tới một miền đất lạ
Ở nơi cửa sổ những căn phòng, nghệ sĩ xuất hiện
Từ giấc mơ của bạn, của tôi: Tôi biết
Tôi đang trên đường tới tương lai, cái thời đã mất -
Một cuộc hành hương tới La Mã.
OLD SONG
Do not seek too much fame,
but do not seek obscurity.
Be proud.
But do not remind the world of your deeds.
Excel when you must,
but do not excel the world.
Many heroes are not yet born,
many have already died.
To be alive to hear this song is a victory.
Traditional, West Africa
The Rag and the Bone Shop of the Heart
A Poetry Anthology
Robert Bly, James Hillman and Michael Meade editors
Một trang Tin Văn cũ
Đừng tìm kiếm danh vọng nhiều quá
Nhưng đừng tìm kiếm sự tối tăm.
Hãy hãnh diện
Nhưng cũng đừng nhắc nhở thế giới về những chiến công của bạn
Chơi trội, OK, nếu bạn phải chơi trội.
Nhưng đừng chơi trò nổi cộm với cả thế gian
Nhiều vị anh hùng chưa sinh ra
Nhiều người đã chết
Sống, và vô 1 trang TV cũ, đọc, thì đã là một chiến thắng khổng lồ rồi!
hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn
Đại Lục Kim Dung
1/4/13
ý nghĩa của đối thủ
nếu có viết chưởng, chưởng của
tôi sẽ rất bựa và sẽ có xen như thế này: hai cao thủ đấu với nhau đến hồi
kịch liệt, nhìn từ bên ngoài thì như hai thằng dở hơi ngồi đờ đẫn nhìn nhau
nhưng thật ra đã tới lúc nhúc nhích một li một tấc là có kẻ toi mạng, con
ruồi nào lỡ bay qua là trúng huyệt bách hội lăn quay thở dốc liền, trên đầu
mỗi đồng chí có một mảnh khói bốc lên lờ mờ; và như mọi cuộc oánh nhau, bu
lại xung quanh là rất đông cao thủ hạng bốn hạng năm của thiên hạ, chúng chỉ
trỏ xì xào, lại còn phân tích tích phân loạn cào cào, vừa nãy là chiêu Ngũ
Hành xào tỏi, bây giờ thì đang đấu Nguyên Khí sắn luộc vân vân và vân vân;
hai cao thủ trong vòng đấu bực mình lắm vì bọn chúng cứ lao xao điếc cả tai
và điếc thêm một thứ nữa, đến hồi không chịu nổi nữa, một người móc luôn
cứt mũi búng một đàn chỉ thần thông, một chú ở vòng ngoài bỗng ngã lăn, miệng
ú ớ, từ đó bị phế bỏ võ công vĩnh viễn, suốt đời mắc chứng viêm phế quản
chưởng của Kim Dung những bộ
lớn có rất nhiều điều đáng ngưỡng mộ, nhưng một ấn tượng rất lớn mà Kim Dung
để lại trong tôi là Tuyết Sơn Phi Hồ, đặc biệt là đoạn Kim Diện Phật Miêu
Nhân Phượng đấu với Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao trong Tuyết Sơn Phi Hồ này, Kim
Dung đẩy lên đến mức trác tuyệt quan niệm về đối thủ trong giang hồ
giang hồ lồng lộng (bờ sông trắng
hoa dương/chia ly buồn đứt ruột/giậm chân hát mà từ biệt... vạt áo xanh giang
hồ) sở dĩ kỳ thú là bởi có những cặp đối thủ; đối thủ tầm thường thì mong
giết được nhau, mong thắng được một chiêu, tiên thủ vi cường, dĩ bẩn trị
địch, mong nhanh hơn nó một sát na để xử lý xong nó rồi đi lên đỉnh đồi
đứng nhìn về xa xăm, áo choàng thẫm máu tung bay trong gió mùa hoang lạnh
cao thủ thượng thặng không có
cái tâm lý ấy; những gì tinh túy nhất của chưởng không dính đến chết chóc
(phim action của Hollywood ta luôn luôn thấy có mùi rẻ tiền là vì nhiều máu
quá), Morris cũng phải quyết định để anh lonesome cowboy không bao giờ bắn
chết người nữa thì Lucky Luke mới có cơ bước vào thế giới của sự vĩ đại
và bất tử
cao thủ như Miêu Nhân Phượng
và Hồ Nhất Đao coi cái sự gặp được nhau là một hạnh ngộ bất tuyệt trong đời,
đấu mãi với nhau thì nảy sinh lòng mến phục và trân trọng; tìm được đối thủ
xứng tầm cũng thú ngang với tìm được một tuyệt sắc giai nhân không sợ bị gọt
đầu bôi vôi mà đi theo mình kẻ lông mày cho mình, ngang tìm được một tri kỷ
đối ẩm luận đời quên ngày tháng
quý trọng đối thủ, Miêu Nhân
Phượng coi cái chết của Hồ Nhất Đao là nỗi bất hạnh lớn lao của đời mình;
vào giây phút ấy, Miêu Nhân Phượng hiểu rằng sẽ chẳng bao giờ mình còn tìm
được một ai như Hồ Nhất Đao nữa; đối thủ ở một mức nào đó là duy nhất, không
thể thay thế, như người bạn thân
ý nghĩa của đối thủ là khiến
cho ta thấy đời đáng sống, ngày ngày ta được đối thủ nâng lên một tầm mức
mới vì đối thủ bắt ta lúc nào cũng phải suy nghĩ để phá một chiêu, khiến ta
nghi hoặc, khiến ta hậm hực, khiến ta ngưỡng mộ trước tài năng xuất chúng,
trước khí độ hiên ngang, trước tấc lòng trượng phu, trước những quái đản
bất ngờ
và rất bực khi đối thủ của mình
bị mấy bọn cao thủ Tây Vực mặt giặc đến quấy nhiễu, để đối thủ không thể tập
trung vào cuộc đấu với ta; trong cuộc đấu giữa Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phượng,
có một đêm Miêu Nhân Phượng đã bỏ đi, sáng ra phi ngựa về vứt dưới chân Hồ
Nhất Đao một cái đầu người, là một kẻ thù của Hồ Nhất Đao, làm vậy là để
Hồ Nhất Đao đỡ phải bận tâm với những thứ vớ vẩn
những điều như thế là quý giá
(viết riêng tặng Mr. Tin Văn)
Blog NL
Quách Tường tiểu muội
QT là… nick
của Gấu Cái, khi viết cho 1 tờ báo địa phương, đúng bài viết vào dịp 30 Tháng
Tư 1975, năm đầu tiên qua Xứ Lạnh.
Sau Gấu chôm, đưa vô “Tự Truyện”, và là cái thư gửi Cô Út.
Bài viết của Huỳnh Ngọc Chiến, tuyệt, nhưng theo Gấu, chưa tới, chưa hết
được cái đẹp của "nhân vật" này.
Granta 100
Ta
sẽ nhớ mi vô cùng khi ta ngỏm
Đáng
yêu nhất của những nụ cuời
Mềm
mại nhất ở trên giường khi cả hai còn trẻ
Quách
Tường của ta ơi
Hãy
nhớ rằng khi ta ngỏm rồi
Mi vưỡn sống đời đời trong tim trong đầu của ta
V/v Khi ta đã ngỏm rồi
For how hard it is
to understand the landscape
as you pass in a train
from here to there
and mutely it
watches you vanish.
Căng, thật căng
Khi ngồi tầu suốt
Nhìn phong cảnh
Lặng, lặng ngắt
Nhìn Gấu biến mất
The intention is sealed
of preserved signs.
Come through rain
the address has smudged.
Suppose the "return"
at the end of the letter!
Sometimes, held to the light,
it reads: "of the soul."
Toan tính, tính rồi
Đóng khằn, khằn đóng
Thế rồi mưa tới
Làm mờ cảnh vật
Làm nhòa những chữ
“Trả lại người gửi”, return
Soi đèn
Đọc:
“Của linh hồn”, of the soul
W.G. Sebald: Across The Land and The Water
Note: Norfolk
The physical (or,
rather, metaphysical) attitude of the passenger, who is “sailing backwards
with banished time”, is reminiscent of Walter Benjamin's "angel of history":
the "storm [from Paradise] irresistibly propels him into the future to which
his back is turned, while the pile of debris before him grows skyward" (Illuminations,
trans. Harry Zohn, London: 1973 [p. 260]). The reason for the poem's description
of Norfolk as a Louisianan landscape is obscure....
Norfolk
Dong buồm ngược
Như một hành khách
Mà thời gian bị biếm,
Một quang cảnh Louisina
Được cư ngụ bởi những chủ cối xay gió vô hình
Nơi người Ai Cập
Trong chiếc thuyền sơn của mình
Dong buồm giữa những cánh đồng
Cung cách
thể chất (hay có thể nói, siêu hình) của một hành khách “du hành ngược lại….
với thời gian bị biếm”, làm nhớ đến “thiên thần lịch sử” của Walter Benjamin:
Trận bão [từ Thiên Đàng] đẩy anh ta, không làm sao cưỡng lại được về tương
lai, lưng anh ta quay lại, trong khi đống điêu tàn đổ nát trước mặt anh ta
cứ thể mà ùn mãi lên, tới tận ngọn đỉnh trời (Illuminations).
Whatever Happened
Whatever happened had already
happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish.
But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.
Adam Zagajewski
Bất Cứ Cái Chó Gì Xẩy Ra
Bất cứ cái chó gì xẩy ra thì
đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi.
Nhưng chúng ta phải sống,
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT thì thầm bên tai Gấu.
|