|
Poems
on the
Underground
Thơ dán trên Xe Điện Ngầm [London]
Celia Celia
When I am
sad and weary
When I think
all hope has gone
When I walk
along High Holborn
I think of
you with nothing on
Adrian Mitchell
Celia Celia
Khi Gấu buồn và cà chớn
Khi thấy "all means nothing to me"
Khi Gấu đi lang thang ở PLT
Gấu nghĩ tới em, với, "chẳng nghĩ gì".
Her
Anxiety
Earth in beauty dressed
Awaits
returning spring.
All true
love must die,
Alter at the
best
Into some
lesser thing.
Prove that I lie.
Such body
lovers have,
Such
exacting breath,
That they
touch or sigh.
Every touch
they give,
Love is
nearer death.
Prove that I lie.
W. B. Yeats
Nàng xao xuyến
Trái đất mặc
thật đẹp
Đợi Mùa Xuân
trở lại
Mọi tình
yêu, thứ thiệt, thì phải ngỏm
Nhạt nhòa
đi, ở cái lúc đẹp nhất của nó
Biến thành
cái cà chớn hơn nhiều
Hãy chứng tỏ là Gấu nói
nhảm
Mọi thân thể
mà anh và em có, như thế đó
Mọi hơi thở
mà em rớn cong, và anh đợp ngay lấy, như thế đó
Mọi cú mò mẫm,
sờ soạng, mân mê mà chúng ta trao cho nhau
Tình yêu thì
là cái “xém một tí là chết”
Hãy chứng tỏ là Gấu nói
nhảm.
Wet Evening
in April
The birds
sang in the wet trees
And as I
listened to them it was a hundred years from now
And I was
dead and someone else was listening to them.
But I was
glad I had recorded for him
The
melancholy.
Patrick
Kavanagh
Note: Bài thơ trên, còn
thấy trong:
Lapham_Time
Chiều
Ướt, Tháng Tư
Chim
hót trên cành ướt
Và Gấu nghe chim hót, vào lúc, cách lúc này, một trăm năm.
Tất nhiên, Gấu thì ngỏm rồi, và một ai đó đang nghe chim hót
May cho người này là Gấu có ghi lại giùm cho anh ta hay chị ả
Nỗi buồn
Star
I returned
to you years later,
gray and
lovely city,
unchanging
city
buried in
the waters of the past.
I'm no
longer the student
of
philosophy, poetry, and curiosity,
I'm not the
young poet who wrote
too many
lines
and wandered
in the maze
of narrow
streets and illusions.
The
sovereign of clocks and shadows
has touched
my brow with his hand,
but still
I'm guided by
a star by
brightness
and only
brightness
can undo or
save me.
Adam
Zagajewski
Translated
by Clare Cavanagh
Bài thơ
trên, tả cảnh Gấu trở
về Hà Nội.
Gấu phóng dịch:
Ta trở
về với mi, nửa thế kỷ
sau,
Thành phố xám xịt, đáng yêu,
và chẳng có gì thay đổi
Chôn dưới những con nước của
những con hồ Bẩy Mẫu, Thuyền Cuông, Hồ Gươm, Hồ Tây
Ta đâu
còn là chàng sinh viên
của triết học, của thơ ca, và của tò mò
Cũng không còn là nhà thơ trẻ
viết rất nhiều dòng thơ
và lang
thang trong mê cung
của những con phố hẹp và của
những ảo tưởng
Chúa Cả Ngôi Cao, với những cái
đồng hồ và những cái bóng của nó,
Thò cánh tay xuống, chạm vào lông
mày của ta
Nhưng
ta vẫn được dẫn dắt bởi
một ngôi sao, bởi sự sáng ngời
Và chỉ sự sáng ngời
Là có thể làm lại, hay, cứu vớt
đời ta.
A Tune
A foolish
rhythm turns in my idle head
As a
wind-mill turns in the wind on an empty sky.
Why is it
when love, which men call deathless, is dead,
That memory,
men call fugitive, will not die?
Is love not
dead? Yet I hear that tune if I lie
Dreaming
awake in the night on my lonely bed,
And an old
thought turns with the old tune in my head
As a
wind-mill turns in the wind on an empty sky.
Arthur
Symons
Thơ
Mỗi Ngày
TO ONE NO
LONGER YOUNG
Already you
can see the tragic setting
And each
thing there in its appointed place;
The
broadsword and the ash destined for Dido,
The coin
prepared for Belisarius.
Why do you
go on searching in the furtive
Bronze of
Greek hexameters for war
When these
six feet of ground wait for you here,
The sudden
rush of blood, the yawning grave?
Here
watching you is the inscrutable glass
Which will
dream up and then forget the face
Of all your
dwindling days, your agony.
The last one
now draws in. It is the house
In which
your slow, brief evening comes to pass
And the
street front that you look at every day.
Alastair
Reid
J.L. Borges
Gửi Kẻ Đếch
Còn Trẻ Nữa
Mi có thể nhìn
thấy rồi đấy, cú dàn dựng bi thương
Vật nào chỗ đó
Gươm và tro dành
cho Dido
Đồng xu được
sửa soạn cho Belisarius.
Tại làm
sao
mà mi hăm he đốt cháy Trường Sơn,
Tìm những vần
thơ, thí dụ, đường ra trận mùa này đẹp lắm?
Khi bốn tấm
dài, hai tấm vắn,
Và vuông đất
đã sẵn sàng cho mi, ở đây?
Khi máu dồn,
mả đợi?
Chính là ở nơi
đây, ngắm nhìn mi, là những tấm gương bí ẩn
Chúng sẽ mơ,
mơ, và rồi quên mẹ khuôn mặt
Của những ngày
hèn mọn dần, nhạt nhòa mãi đi, nhỏ mãi ra, của mi
Cơn hấp hối
của mi
Khuôn mặt cuối
cùng bây giờ bèn lê vào
Đây là căn
nhà
Trong đó buổi
chiều chậm chạp, ngắn ngủi của mi sẽ tạm ghé qua
Và con phố đằng
trước mặt, mọi ngày, hàng ngày, mi nhìn.
Lạ, hiếm,
phong trần, tã: Vớ được tại tiệm sách cũ.
ROSE
Rose,
the unfading
rose beyond my verse-
rose that's
full and fragrant,
rose of the
black garden in the deep of night,
rose of any
garden and any night,
rose that's
born again by the art of alchemy
out of
tenuous ash,
rose of the
Persians and Ariosto,
rose that's
always by itself,
rose that's
always the rose of roses,
the young
Platonic flower,
the blind
and burning rose beyond my verse,
unattainable
rose.
[Norman
Thomas di Giovanni]
L.L. Borges
BHD
BHD,
Không héo tàn,
quá cả câu thơ của Gấu Cà Chớn
Tràn đầy, thơm
phức
Từ vườn sau
nhà, khu vườn đen, BHD, trong sâu thẳm của đêm
BHD của bất
cứ một khu vườn, bất cứ một đêm
BHD tái sinh,
phục sinh, sống hoài hoài… nhờ thuật luyện
kim, NO, nhờ những trang TV của GCC!
Từ tro than
giản dị
BHD của người
Ba Tư và Ariosto
BHD của BHD
Luôn luôn là
BHD, với chiếc răng khểnh
Bông hồng của
tất cả những bông hồng
Bông hồng của
chiêm ngưỡng và kính trọng, và trẻ măng
Bông hồng sáng
lòa, đỏ rực quá cả câu thơ của GCC
Bông hồng không
làm sao cầm quên trong tay.
Thơ
Mỗi Ngày
THE DAGGER
To Margarita
Bunge
A dagger
rests in a drawer.
It was
forged in Toledo at the end of the last
century.
Luis Melian Lafinur gave it to
my father,
who brought it from Uruguay.
Evaristo
Carriego once held it in his hand.
Whoever lays
eyes on it has to pick up the
dagger and
toy with it, as if he had always
been on the
lookout for it. The hand is
quick to
grip the waiting hilt, and the
powerful
obeying blade slides in and out
of the
sheath with a click.
This is not
what the dagger wants.
It is more
than a structure of metal; men
conceived it
and shaped it with a single end
in mind. It
is, in some eternal way, the
dagger that
last night knifed a man in
Tacuarembó
and the daggers that rained on
Caesar. It
wants to kill, it wants to shed
sudden
blood.
In a drawer
of my writing table, among draft
pages and
old letters, the dagger dreams
over and
over its simple tiger's dream. On
wielding it
the hand comes alive because
the metal
comes alive, sensing itself, each
time
handled, in touch with the killer for
whom it was
forged.
At times I
am sorry for it. Such power and
single-mindedness,
so impassive or innocent
its pride,
and the years slip by, unheeding.
[Norman
Thomas di Giovanni]
The Dagger
To Margarita
Bunge
A dagger
lies in a drawer
It was
forged in Toledo toward the end of last century.
Luis Meliann Lafinur gave it to my father,
who
brought it
from
Uruguay. Evaristo Carriego once handled it.
People
who
catch sight of it cannot resist playing with it,
almost as if
they had been looking for it for some time.
The hand
eagerly grasps the expectant hilt. The powerful,
Passive
blade slides neatly into the sheath.
The
dagger
itself is after something else.
It is
more
than a thing of metal. Men dreamed it up and fashioned it for
a very
precise purpose. In some eternal way, it is the
same dagger
that last night killed a man in Tacuarembó,
the same
daggers that did Caesar to death. Its will is
to kill, to
spill sudden blood.
In a
desk
drawer, among rough drafts and letters, the dagger
endessly
dreams its simple tiger's dream, and, grasping it,
the comes
alive because the metal comes alive, sensing
in very
touch the killer for whom it was wrought.
Sometimes it
moves me to pity. Such force, such purpose,
so passive,
so innocently proud, and the years go past,
uselessly
-A.R.
[Alastair Reid]
J.L. Borges
Con dao găm
Con dao găm nằm nghỉ trong ngăn kéo
Nó được rèn ở Toledo cuối thế kỷ vừa rồi. Luis Meliann
Lafinur cho cha tôi, và ông
mang về từ Uruguay.
Evaristo
Carriego có lần cầm nó trong tay.
Ai, bất cứ 1 ai, lỡ để mắt lên con dao găm, là bèn thèm cầm nó
lên, không làm sao cưỡng lại được. Cầm lên, chơi với nó, như thể người
đó được ông
Trời cho ra đời, là để tìm gặp con dao găm.
Cái tay thì bèn, nhanh như cắt, tóm
ngay lấy cán dao đang chờ, và cái lưỡi dao mới quyền uy làm sao, ngoan
ngoãn làm
sao, click một phát, ra, click một phát, vô lại vỏ.
Đó không phải điều con dao muốn.
Nó là 1 cái gì còn quá cả một cấu trúc kim loại: con người cảm
nhận nó, tạo hình dáng cho nó, với 1 mục đích, chỉ 1 mục đích, ở trong
đầu.
Trong một đường hướng thiên thu, vĩnh viễn, có thể nói như vậy, đây là
con dao đã
lấy mạng 1 tay ở
Tacuarembó đêm hôm vừa rồi; cũng vẫn những con dao găm này, như
mưa, dội
lên Caesar.
Nó muốn giết, nó muốn máu bất thần nhỏ xuống.
Trong ngăn kéo bàn viết của tôi, giữa những trang bản thảo,
những thư từ cũ kỹ, con dao găm mơ đi mơ lại, chỉ 1 giấc mơ, giấc mơ hổ
giản dị
của nó. Một khi cầm nó lên 1 phát, là bàn tay trở thành sống động,
chẳng khác gì
một con rắn độc thèm ra đòn Thần Long Bãi Vĩ!
Không chỉ bàn tay, mà cái chất
kim loại cũng trở thành sống động, nó cảm nhận ra nó, và, mỗi lần được
cầm lên, là bèn
muốn bắt tay tên giết người, tức cái tên đã rèn nó thành con dao găm.
Đôi lúc tôi
rất ư đau lòng vì con dao găm. Tôi thông cảm nó, như thông cảm tên đao
phủ thủ
HPNT gì gì đó!
Một quyền uy như thế, một đầu óc nhất mực như thế, trầm trọng như
thế, hay ngây thơ như thế, ấy là nói về sự kiêu ngạo của nó.
Và năm tháng cứ thế qua đi,
mới vô dụng làm sao.
22 Dec 2014
Anh Cu An, Vientiane
Tuesday,
December 23, 2014 5:44 AM
Mùa Giáng
sinh & Năm mới lại đến, kính chúc bác Gấu và gia đình bác nhiều
niềm vui, đầm
ấm, hạnh phúc.
Chúc trang
Tin văn, cùng với cõi văn của bác trẻ
mãi,
Kính!
D.V
Tkank you
Merry
Christmas and Happy New Year to you & family
Best Wishes
Best Regards
Take Care
NQT
Thư Texas
Monday,
December 22, 2014 8:44 AM
Kính gửi ông
Gấu,
Dám nói thẳng,
rõ và chỉ đích danh, cái ung nhọt của chế độ Cộng sản Việt chỉ có ông
Gấu !
Chúc ông
cùng gia đình bình an, hạnh phúc trong mùa lễ Giáng Sinh.
Độc giả TV
Trích Tin Văn:
“Những tên
chóp bu của chế độ VC đều vô văn hóa cả thì làm sao mà khá cho được!
Chế độ Ngụy
làm gì có 1 thằng ăn mày về văn hóa, bằng cấp, học vấn, kỹ năng làm bộ
trưởng,
thí dụ?”
Phúc đáp:
Đa tạ
Chúc bạn và
gia đình một mùa Giáng Sinh, một mùa Xuân mới, một năm mới an khang
hạnh phúc
Best Regards
NQT
Nhân tiện, xin chúc mừng Noel và Năm
Mới tới tất cả độc giả
TV, kèm tin vui:
Trang Tin Văn, vừa rồi, có tí trục trặc với server, với
Nestcape composer, Gấu đã tính đóng cửa tiệm, nhưng nay OK tất cả rồi,
bèn renew
domain name thêm 3 niên nữa, chắc là vừa. Nếu tới lúc đó, vưỡn chưa
chịu đi xa,
tính tiếp.
Trân trọng
NQT
Against
Winter
The truth is dark under your eyelids.
What are you going to do about it?
The birds are silent; there's no one to ask.
All day long you'll squint at the gray sky.
When the wind blows you'll shiver like straw.
A meek little lamb you grew your wool
Till they came after you with huge shears.
Flies hovered over your open mouth,
Then they, too, flew off like the leaves,
The bare branches reached after them in vain.
Winter coming. Like the last heroic
soldier
Of a defeated army, you'll stay at your post,
Head bared to the first snowflake.
Till a neighbor comes to yell at you,
You're crazier than the weather, Charlie.
Charles Simic: The Paris Review
Winter 1995
Note: 1995. Đây chắc là số The Paris
Review đầu tiên của Gấu!
Mua vì bài phỏng vấn Steiner.
Chống Đông
Sự thực thì
xám xịt dưới mi mắt của mi
Mi sẽ làm
gì với nó?
Chim chóc
nín thinh; không có ai để hỏi.
Suốt ngày
dài mi, lé xệch, ngó bầu trời xám xịt
Và khi gió
thổi, mi run như cọng rơm.
Con cừu nhỏ,
mi vỗ béo bộ lông của mi
Cho tới
bữa
họ tới với những cây kéo to tổ bố
Ruồi vần
vũ
trên cái miệng há hốc
Rồi chúng
cũng tơi tả như những chiếc lá
Những
cành cây trơ trụi, cố níu kéo, vô phương
Mùa Đông tới.
Như tên lính anh
dũng cuối cùng
Của một đạo quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng hơn cả thời tiết, Charlie. (2)
Note: Bài thơ này, sau, in trong tuyển tập Walking the Black Cat, và mới nhất,
trong New and Selected Poems.
Tết
2014
MR
COGITO CONSIDERS A RETURN
TO HIS NATIVE TOWN
If I went
back there
I would probably not find
a single shadow of my old home
nor the trees of childhood
nor a cross with an iron plaque
a bench on which I murmured incantations
nor a single thing that belongs to us
all that
survived
is a flagstone
with a chalk circle
I stand in the middle
on one leg
the moment before jumping
I cannot
grow up
though years pass
and planets and wars
clamor overhead
I stand in
the middle
still as a monument
on one leg
before a jump into finality
the chalk
circle rusts
like old blood
around it grow mounds
of ash
up to the arms
up to the mouth
Zbigniew
Herbert: The Collected Poems
1956-1998
Tết này Gấu tính về Xề Gòn
Nếu Gấu về
Hẳn là chẳng thể nào thấy lại được
Dù chỉ một cái bóng của căn nhà xưa
Không, những cái cây của thời mới nhớn
Cây thánh giá với tấm biển bằng sắt cũng không
Cái ghế dài nơi Gấu lầm bầm những câu thần chú lại càng không
Chẳng còn bất cứ chi thuộc về Gấu
Tất cả những gì sống sót
Là một phiến đá lát đường
Với cái vòng tròn phấn
Gấu đứng vô giữa vòng tròn
Lò cò một chân
Như tính nhẩy 1 phát
Gấu không làm sao trưởng thành
Dù bao nhiêu năm tháng đã trôi qua
Dù cuộc chiến khốn kiếp
[Bà DTH sửa lưng Gấu, ngu xuẩn mới đúng]
Gấu đứng giữa vòng tròn
Đứng sững, như tượng đài
Một chân
Trước khi làm 1 phát nhẩy vô vô cùng
Cái vòng phấn gỉ
Như máu cũ
Chung quanh nó mọc lên
Những đồi tro cốt
Ngập tới tay,
Tới mõm Gấu.
.....
Hay là Gấu có thể làm như Brodsky làm,
theo lời dụ khị của
Tolstaya, tuồn về xứ Mít, incognito:
-Giấu mặt?
Đột nhiên thi sĩ hết tức giận, và cũng bỏ lối nói chuyện
khôi hài. Ông chăm chú nghe.
-Thì cứ dán lên một bộ râu, một hàng ria mép, đại khái như vậy.
Cần nhất, đừng nói cho bất cứ một người nào. Và rồi ông sẽ dạo chơi
giữa phố,
giữa người, thảnh thơi và chẳng ai nhận ra ông. Nếu thích thú, ông có
thể gọi
điện thoại cho một người bạn từ một trạm công cộng, như thể ông từ Mỹ
gọi về.
Hoặc gõ cửa nhà bạn: "Tớ đây này, nhớ cậu quá!"
Giấu mặt, tuyệt vời thật!
Tuyệt vời thật! Nhưng quá trễ mất rồi!
Nói cho cùng, một trong những thành
tựu lớn lao của Brodsky,
như George Kline chỉ ra, là ông lao mình vào ngôn ngữ và văn chương của
xứ sở
chấp nhận ông. Ông đá đít, như VC đá đít tên K, con đường của hoài nhớ,
ân hận,
khóc lóc nỉ nôi, tự thương thân, cái gì gì bầy ngựa hoang bơ vơ, đây là
cái chọn
lựa chết người của đa số những nhà văn di dân, đặc biệt là những nhà
thơ:
Perhaps he could have
slipped into Russia unannounced, as the fiction writer Tatyana Tolstaya
suggests, in a novelistically transcribed interview:
"Do you know, Joseph, if you don't want to come back
with a lot of fanfare, no white horses and excited crowds, why don't
you just
go to Petersburg incognito?" [. . .] Here I was talking, joking, and
suddenly I noticed that he wasn't laughing [. .. ] He sat quietly, and
I felt
awkward, as if I were barging in where I wasn't invited. To dispel the
feeling,
I said in a pathetically hearty voice: "It's a wonderful idea, isn't
it?" He looked through me and murmured: "Wonderful. . . Wonderful ...
"
Wonderful, but too late. After all, one of Joseph's great
achievements, as George Kline has pointed out, had been to throw
himself into
the language and literature of his adopted country. He rejected the
path of
nostalgia, regret, self-pity,lamentation, the fatal choice (if one can
call it
that) of so many émigré writers, especially poets. And what now, when
he was no
longer technically an involuntary exile? He had refused to complain
about it,
just as he refused to complain about his treatment in Russia, or his
lack of a
formal education. On the contrary, he had valued exile to the arctic
region as
liberating. And the education in question was a Soviet one, though when
he said
that the "earlier you get off track the better", he may not have been
referring exclusively to the Soviet system.
Furthermore, his own generation, as he
acknowledged, was
what mattered to him. He kept up, to a remarkable extent, with what was
being
written by his younger contemporaries, but his real sympathies were
with those
of his own generation. Although, with the unanticipated collapse or
abdication
of the Soviet imperial power, he came to see many of his friends again,
he had
both intellectually and emotionally bade them" farewell"
(proshchaite), not "good-bye" (do svidanie, "see you again
"). In a sense, the reunions must have been posthumous affairs. So,
when
he was shown photos, taken shortly before his departure from the Soviet
Union,
he suddenly became serious, solemn, grim: "One's affinity is for the
generation to which one belongs ... Theirs is the tragedy ... " Not of
those who emigrated or, like himself, were given little choice other
than to
leave. And as for himself, well, he had exchanged oppression for
freedom and
all kinds of material advantage. He had no patience with talk of exile.
Perhaps
the dissolution of the Soviet State, its transformation, rather than
opening
the way for his return, simply confirmed his Americanness ...
Or rather, his New- Yorkerness. New York, as he put it,
"reduces you to a size". It is a gigantic impediment to gigantism.
And yet, at the same time, it is human. The scale of its monumentality
is
human. It was also a "Mondrian city". Who, familiar or besotted with
New York, does not know what he meant by that? The perpendicularity and
horizontality; windows, facades, facets ...
Anyway, it was his city; that is, he made it his. And he was
right about it. In this place, you were not greater than yourself; you
were
"reduced to a size" (curious that use of the indefinite article), the
right size, your own human size. It's not true that you were dwarfed by
those
canyons; they are clearly the product of human labour, an index to
human
industry. And strangely heartening, too, even now, nearly a century on
...
But now I am waxing sentimental. Thinking about the city
now, at age sixty-one, it seems to me not a bad place to die in. I
remember
being told by Ted Hughes, ten or twenty years ago already, that we had
reached
the age when the Indian princes abandoned their worldly concerns and
retired to
the forests. Perhaps New York is the equivalent for urban man? As if
one’s
death there would be less unbearably personal, with that crush of
people which
somehow leaves you uncrushed, so you feel, even in your isolation, part
of a
far greater organism, an organism in that it doesn't (quite)
self-destruct.
There's one positive effect being "reduced to a size". Joseph, having
been deprived of what, as a Jew, he possibly never quite possessed,
Russia,
having "quit the country that bore and nursed him" and having been
forgot - ten by so many - first you have to be known by so many -,
having
suffered catastrophic loss, however much he insisted that he had left
the worse
for the better, was now threatened with the early loss of his life.
Under these
circumstances, New York, perhaps, fitted the bill.
I am waiting for Joseph in Washington Square. It looked like
rain before, but it hasn't rained yet. I am watching the skateboarders,
the
jugglers, the children, the clochards, the mothers, the gangs of
youths. Nobody
pays any attention to me, and I suddenly feel blissfully
unselfconscious.
Joseph arrives late. He shuffles over, grinning wryly. He seems in no
hurry and
doesn't apologize. There is a stillness about him. Suddenly I feel, by
contrast, tense, anxious.
We stroll into the Village, towards one of his favourite
restaurants. And now it is raining or drizzling. He has to call Maria.
He uses
a street phone. At the same time, he conveys to me that nothing has
changed ...
Thơ
Mỗi Ngày
And Then I
Think
I'm just a
storefront dentist
Extracting a
blackened tooth at midnight.
I chewed on
many bitter truths, Doc,
My patient
says after he spits the blood out
Still
slumped over, gray-haired
And smelling
of carrion like me.
Of course, I
may be the only one here,
And this is
a mirror trick I'm performing.
Even the few
small crumpled bills
He leaves on
the way out, I don't believe in.
I may pluck
them with a pair of wet pincers
And count
them, and then I may not.
Charles
Simic: New and selected poems
Và rồi thì Gấu
suy tư
Gấu chỉ là 1
tên thợ nhổ răng ở 1 lề đường Xề Gòn
Nhổ 1 cái răng
đen thui vào lúc nửa đêm
“Tui nhai quá
nhiều sự thực cay đắng, thưa Ngài Tu Bíp”
Người bịnh nói,
sau khi khạc ra 1 đống máu
Thì cũng vưỡn
cái tay tóc xám ngồi xụ một đống
Và ngửi có mùi
xác chết, như…. Gấu
Lẽ dĩ nhiên,
làm đếch gì có bịnh nhân nào
Chỉ mình Gấu,
diễn trò, trước tấm gương
Ngay cả mớ
tiền lẻ ông ta để lại
Gấu cũng đếch
có tin
Gấu có thể lấy
cái kẹp khều khều
Và đếm
Và rồi, Gấu
có thể đếch làm như thế!
ROBERT HASS
Robert Hass,
like Jeffers, is a California poet. In this poem, an object (clay
figurine)
and a typical California landscape are given simultaneously.
Robert Hass,
như Jeffers, là một nhà thơ Cali. Trong bài thơ dưới đây, pho tượng vì
phu nhân, và phong cảnh Cali, thì cùng lúc, được trình ra, với độc giả
Tin
Văn.
Czeslaw
Milosz: The Book of Luminous Things
[Note: To U,
the figure of the lady, an California image, in this poem. GNV]
THE IMAGE
The child
brought blue clay from the creek
and the
woman made two figures: a lady and a deer.
At that
season deer came down from the mountain
and fed
quietly in the redwood canyons.
The woman and
the child regarded the figure of the lady,
the crude
roundnesses, the grace, the coloring like shadow.
They were
not sure where she came from,
except the
child's fetching and the woman's hands
and the
lead-blue clay of the creek
where the
deer sometimes showed themselves at sundown.
Ảnh Tượng
Đứa bé
mang đất
sét màu xanh từ thung lũng về
Và người đàn
bà nặn thành hai bức tượng, một vị phu nhân và một con nai.
Vào mùa này,
nai thường từ núi xuống
Và kiếm ăn lặng
lẽ trong những hẻm núi với những cánh rừng màu đỏ
Người đàn bà
và đứa bé nhìn bức tượng của vị phu nhân
Cái gì gì, khuôn
trăng đầy đặn, một vầng trăng tròn thô thiển, ân sủng, màu như bóng…
Họ không chắc,
vì phu nhân tới từ đâu,
Ngoại trừ vẻ
say mê của đứa bé, và bàn tay của thiếu phụ
Và đất sét
xanh màu chì của thung lũng
Nơi nai cao, “gót lẩn trong mù hoàng hôn”.
In the
Distance
Farewell,
you little street,
Good-bye,
you tranquil roof!
Father,
mother looked sadly as I left,
And my
beloved too.
Here, far,
far in the distance,
It's for my
home I long!
My
companions sing merrily,
But it is a
hollow song.
There will
be different cities
And
different girls to see!
Although
there are different girls,
There is
none for me.
Different
cities, different girls,
And I right
there without a sound!
Different
cities, different girls,
Oh how I'd
love to turn around.
Two weeks
later, he [Brod] received a piece of poetry from Jungborn. It was just
as
"pure," but in a very different way. It was a popular song that Kafka
had sung along to a few times without being able to get the melody
quite right.
It was called "In the Distance" and was about as old as Kafka
himself. This song, by Albert Graf von Schlippenbach, was folksy, which
is a
euphemism for trivial. Yet it cut Kafka to the quick. Just a few months
later,
he confessed to a woman that he was "in love" with this song. He sent
her a copy of the text but asked to have it back because he could not
do
without it; "pure emotion" had been rendered in perfect form in this
text. Without further
elaboration, he added, "And I can swear that the poem's sorrow is
genuine."
Reiner Stach: Kafka:
The Decisive Years
EPISODE
IN A LIBRARY
A blond girl
is bent over a poem. With a pencil sharp as a
lance she transfers words onto a white sheet of paper and translates
them into
lines, accents, caesuras. The fallen poet's lament now looks like a
salamander gnawed
by ants.
When we carried him off under fire, I believed his
still
warm body would be resurrected in the word. Now I see words dying, I
know that
there is no limit to decay. What will remain after us are fragments of
words
scattered on the black earth. Accent signs over nothingness and ash.
Zbigniew Herbert: Prose
Poems [The Collected Poems 1956-1998]
Thời
kỳ ở thư viện
Một nường
tóc vàng hoe cúi xuống một bài thơ. Với cây viết
chì nhọn hoắt như cây thương, em chuyển chữ lên tờ giấy trắng, và dịch
thành dòng,
âm tiết, ngưng nghỉ. Tiếng than van của nhà thơ nằm xuống như con kỳ
nhông bị đàn
kiến làm thịt.
Khi khiêng được nhà thơ ra khỏi lửa đạn, tớ nghĩ cái
thân thể
còn âm ấm của ông có thể tái sinh trong chữ. Bây giờ, tớ thấy chữ đang
chết. Tớ
biết cái sự phân rã thì làm sao biết ngưng nghỉ là gì. Cái còn lại là
mảnh miểng
tản mác trên mặt đất đen thui.
Âm tiết thánh thót trên hư vô và tro tàn.
They laughed
at me wanting you,
Said I was
reaching for the moon;
But oh, you
came through-
Now they'll
have to change their tune.
Lũ bạn học ngày nào, chúng
cười về cái chuyện anh thương em
Mi đúng là khùng, mi muốn khều mặt trăng
Nhưng bi giờ chúng ngỡ ngàng, và đổi giọng
It's the
wrong time and the wrong place,
Though your
face is charming, it's the wrong face
Không đúng thời và không
đúng chỗ
Mặc dù em tuyệt vời, nhưng bộ mặt này không dành cho mi.
Robert Hass: Now & Then
Thơ
Mỗi Ngày
from Ode to
Spain
Yes. The
facts speak.
They quietly
speak
the hard
facts of this war.
This sky at
night,
electric,
heavy,
that weighs
down the shoulders
with its
quiet gasping of terror,
the
dereliction of this house
through
which the blind air runs
and
paralysis inhabits;
the
sleepless solitude;
the murmur
of voices in the darkness;
this corpse
who screams on every corner,
who watches
over death-throes, makes them new;
this black
and mangled silence;
and these hard
impassive eyes
that wait
for death.
They are
living testimony. They speak.
Octavio Paz
Tôi trở lại
tận những tiếng nức nở trong thành phố thân yêu
Tận những hạch
của tuổi thơ, tận những đường gân nằm dưới da
Pétersburg!
[ ]
Em vẫn còn
giữ nguyên số điện thoại của tôi
Pétersburg!
Ta vẫn có sẵn
những địa chỉ trước đây
Nơi ta nhận
ra tiếng nói của những người đã chết
Source
Đoạn thơ trên,
trong bài thơ nổi tiếng của Osip Mandelstam, Gấu đã từng dịch, những
ngày mới ra hải ngoại, trong bài Nơi
Người Chết Mỉm Cười.
Có mấy chỗ, Thầy Đạo dịch trật.
I returned to my city,
familiar to tears,
to my childhood's tonsils and
varicose veins.
You have returned here-then swallow
the Leningrad
streetlamps' cod-liver oil.
Recognize now the day of December fog
when ominous street-tar is mixed with the yolk of egg.
Petersburg, I do not want to
die yet
I have your telephone numbers in my head.
Petersburg, I still have
addresses at which I will find the voice of the dead.
I live on a black stair, and into my temple
strikes the doorbell, torn out with flesh.
And all night long I await the dear guests,
and I jangle my fetters, the chains on the door.
[Osip Mandelstam, Selected Poems, translated by David
McDuff. Cambridge:
River Press, 1973, p.111]
Tôi trở lại thành phố của
tôi, thân quen với những dòng lệ,
với cơn đau thịt thừa trong cổ họng thuở ấu thơ,
và chứng chướng tĩnh mạch
Bạn đã trở về đây - vậy thì hãy nuốt
dầu đèn phố Leningrad
Hãy nhận ra bây giờ ngày tháng Chạp mù sương...
Petersburg, tôi chưa muốn chết
Tôi có số điện thoại của bạn ở trong đầu
Petersburg,
tôi vẫn có những địa chỉ, tại đó, tôi sẽ tìm ra tiếng nói của những
người đã chết...
( Osip Mandelstam, Leningrad ) (1)
Trên Văn Việt,
Nguyên Ngọc, cũng mắc lỗi này. Không ai nhớ thành phố ấu thơ của mình
tới tận
“những hạch thần kinh hồi nhỏ, những đường gân dưới da”, nếu đây không
phải những căn bịnh thời thơ ấu của người đó. Ai đã bị asthma, một căn
bịnh hồi nhỏ, lớn
lên là hết, thì đọc ra liền.
Hai bản tiếng Anh,
cũng có khác biệt.
I have your telephone
numbers in my head [trên]
Bản của Nobel.org:
While you're keeping my telephone
numbers alive.
GCC nghĩ câu trong bản của TV đúng
hơn.
Vì "you" ở đây là Leningrad. Là
bạn. Là Sài Gòn.
Tôi
vẫn nhớ những số phôn của bạn bè của Leningrad ở trong đầu của tôi, và
trong đó rất nhiều người đã chết.
Bởi thế mới có câu sau: Địa chỉ của họ, tôi cũng nhớ, và tôi sẽ tới đó,
để được nghe lại tiếng nói của những người đã chết.
GCC vẫn nhớ số phôn của BHD
[Saigon] ở trong đầu!
Bài thơ này, giá được 1 ông nhà văn VC
rành tiếng Nga, dịch
từ nguyên tác, thì mới vỡ ra hết những cái thắc mắc ở trên được.
Nơi người chết
mỉm cười
DOOMSDAY
It will be
when the trumpet sounds, as Saint John the
theologian
writes.
It was in
1757, according to Swedenborg.
It was in
Israel (when the she-wolf nailed the flesh of Christ
to the
cross) but not only then.
It happens
with every heartbeat.
There is no
moment that can't be the pit of Hell.
There is no
moment that can't be the water of Paradise.
There is no
moment that isn't a loaded gun.
At any
second you could be Cain or the Buddha, the mask or
the face.
At any
second Helen of Troy could reveal her love for you.
At any
second the rooster could have crowed three times.
At every
second the water clock lets fall the final drop.
-S.K.
J.L. Borges: Poems
of the Night
Tận Thế
Nó sẽ xẩy ra
khi tiếng kèn rú lên, như Saint John nhà thần học viết
Đó là vào năm
1757
[xém thì viết lộn thành 1975, hà hà!],
theo như Swedenborg.
Đó là ở
Israel, (khi nữ sói đóng đinh Chúa Ky Tô lên cây thập tự), nhưng không
chỉ khi đó.
Nó xẩy ra với
mọi cú tim đập
Chẳng có khoảnh
khắc nào mà không có thể gọi là “hố Địa Ngục”
Chẳng có khoảnh
khắc mà không thể gọi là “nước Thiên Đàng”
Chẳng có khoảnh
khắc nào mà không thể là “súng đã nạp đạn”
Bất cứ giây
khắc nào bạn cũng có thể là Cain hay Đức Phật, cái mặt nạ hay là bộ mặt.
Bất cứ giây
khắc nào Người Đẹp thành Troy cũng có thể bật mí Nàng yêu bạn.
Bất cứ giây
khắc nào thì con gà trống cũng có thể gáy ba phát.
Bất cứ giây
khắc nào thì cũng có thể, giọt nước cuối cùng của cái đồng hồ nước, rớt
xuống.
PARABLE
Some
fishermen pulled a bottle from the deep. It held a piece
of paper,
with these words: "Somebody save me! I'm here. The
ocean cast
me on this desert island. I am standing on the shore
waiting for
help. Hurry! I'm here!"
"There's
no date. I bet it's already too late anyway. It could
have been
floating for years," the first fisherman said.
"And he
doesn't say where. It's not even clear which ocean,"
the second
fisherman said.
"It's
not too late, or too far. The island Here is everywhere,"
the third
fisherman said.
They all
felt awkward. No one spoke. That's how it goes with
universal
truths.
Wistawa Symborska
Ngụ ngôn dành
cho cô bé Phương Uyên
Mấy tay
ngư
phủ kéo một cái chai từ đáy biển.
Trong có
mẩu giấy:
"Hãy cứu
tôi,
Mít ơi! Tôi ở đây nè! VC thẩy tôi xuống biển, sóng đánh tôi vô đảo xa,
đảo lạ.
Tôi đứng
ở bãi biển, đợi dân Mít kíu. Lẹ lên!”
“Chẳng
thấy
ghi ngày. Chắc là quá trễ rồi!”
Một đấng
ngư
phủ phán
“Cũng
chẳng
thấy ghi, ở đâu, đảo nào, biển nào”
Đấng thứ
nhì lắc đầu, lèm bèm.
"Chẳng
quá trễ,
chẳng quá xa. Đảo Đây Nè ở
mọi nơi, mọi thời."
Đấng thứ
ba
tuyên bố
Cả bọn
giật
nẩy mình, chưng hửng.
Đếch ai
lên tiếng.
Đó là
chuyện
xảy ra với sự thực phổ cập, muôn đời.
Note: Đây cũng là sự thực mà Bọ Lập tính chuyên chở!
TTY
Il ritorno d'Ulisse
Returning from a lengthy trip
he was astonished to find
he had strayed to a country
not his place of origin
For all his encounters in
scattered spots
with the black paper hearts of men
shot by the arquebuse
his bow-and-arrow story
did not happen
Then there was Penelope's
Castilian grandmother
blocking his entry at the garden gate
wordless and busy with embroidery
Sure, the grandchildren
are smiling in the background
apparently better disposed
towards foreigners
Their furtive hopes
still almost too small
for the naked eye
(But the idea is good
and the noise far away
even the building)
Sebald
Note: Bài thơ này làm nhớ một,
hai bài thơ trong Thơ Ở Đâu Xa,
tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít, về quê Bắc Kít
ngày
nào, và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ của TTY, Ta Về.
Ta Về
Trở về sau 1
chuyến dài dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc
khi thấy mình lạc vô 1 xứ sở
Đếch phải
nơi hắn sinh ra
Trong tất cả
những cú gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những
trái tim giấy đen của những người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại,
kéo cây cung thần sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra.
Và rồi thì
có bà ngoại Tây Bán Nhà của bà vợ Penelope của hắn
Bà chặn đường
đếch cho hắn đi qua cổng vườn
Đếch nói 1
tiếng, và tỏ ra bận rộn với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người
lính trận vượt Trường Sơn kíu nước, hà, hà!
Tất nhiên rồi,
chắc chắc là có lũ con nít
– không phải
lũ con nít nhếch nhác kéo nhau coi lũ tù Ngụy đi qua thôn nghèo –
chơi ở vườn
sau, chúng có vẻ rất tự nhiên, cười đùa với khách lạ
Những hy vọng
ẩn giấu của chúng
thì vẫn quá
nhỏ nhoi,
với con mắt
trần trụi
(Nhưng ý
nghĩ thì tốt
Và tiếng động
thì xa
mặc dù tòa
nhà)
Ba tập thơ,
của TTT, TTY, và của Sebald, lạ, là có cùng 1 air.
Với TTT, là
tìm lại vừa được thơ, vừa được cái chất thiền vốn là cốt lõi của thơ
ông, theo
nghĩa “bạo động của bạo động”, như Gấu có lần lèm bèm.
Thơ Tô Thùy
Yên, theo Gấu, có sự “gò”, theo nghĩa của cụm từ “tour de force”, của
Tẩy.
Cực hay, nhưng cũng cực… cực!
Cực giống
Sebald, ở chỗ, không có “footnotes”, là không làm sao nắm được. Thí dụ,
bài thơ
tặng TTT, trên.
Sebald, thì như 1 nhà phê
bình gọi
ông, kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, và ông cũng nghĩ về mình, đúng như
thế.
FEBRUARY 7 [1999]
George
Herbert
Love poems:
they are mostly about desire, especially unfulfilled desire. Either
about the
absent lover, like this well-known and anonymous poem, so simple and
memorable
it has survived since the fifteenth century:
Western
wind, when wilt thou blow?
The small
rain down can rain.
Christ, if
my love were in my arms
And I in my
bed again!
Or about
lost love, like this also well-known song lyric from the midtwentieth
century,
whose author is also, for all practical purposes, anonymous:
Well,
since
my baby left me,
I found a
new place to dwell.
It's down at
the end of Lonely Street
At
Heartbreak Hotel.
There is, of
course, the breezy approach of this lyricist who is not anonymous at
all:
So
good-bye,
dear, and amen.
Here's
hoping we meet now and then.
Well, it was
great fun,
It was just
one of those things.
One way or
another, as sung by Elvis Presley or written by Cole Porter, they are
mostly
about loss or absence. So when someone suggested I print a love poem, I
thought
that I would not look for a poem about wanting someone. Wanting
someone, I said
to myself, isn't the hard part, and love gets interesting after you've
been
through some hard parts. I didn't have a poem in mind when I started
browsing
anthologies, but I had an instinct. It was connected to my memory of a
passage
in Milan Kundera's The Book of
Laughter and Forgetting where he says, of his
heroine, that she traversed the memory of her dead husband's body as if
she
were an old geographer running his hands across a vellum map he had
made in his
youth of the known world. I picked up a book of seventeenth-century
poetry
because I thought John Donne might have what I want. And then my eyes
fell
unexpectedly on this poem. It's by the English priest, George Herbert.
It's a
religious poem, tender and surprising. It wasn't what I had in mind.
It's a
poem about love as a gift and a feast, and about the fact that it's
really
ourselves we have to overcome if ware going to get to it:
Love (III)
Love bade me
welcome: yet my soul drew back,
Guilty of
dust and sin.
But
quick-eyed Love, observing me grow slack
From my
first entrance in,
Drew nearer
to me, sweetly questioning
If I lacked
any thing.
"A
guest," I answered, "worthy to be here":
Love said,
"You shall be he."
"I, the
unkind, ungrateful? Ah, my dear,
I cannot
look on thee."
Love took my
hand, and smiling did reply,
"Who
made the eyes but I?"
"Truth,
Lord: but I have marred them; let my shame
Go where it
doth deserve."
"And
know you not," says Love, "who bore the blame?"
"My
dear, then I will serve."
"You
must sit down," says Love, "and taste my meat."
So I did sit
and eat.
Robert Hass: Now
& Then
Thơ tình, hầu
hết là về thèm, nhất là thứ, thèm mà không được “thỏa mãn”!
Hay là về người
yêu xa vắng, như bài thơ nổi tiếng vô danh dưới đây, thật đơn giản, dễ
nhớ nên
sống hoài, từ thế kỷ 15:
Khi gió Tây nổi
Mưa nhỏ sẽ
về
Chúa ơi, nếu
em lúc đó ở trong tay anh
Thì anh sẽ thấy
mình đang ở trên giường !
Hay là về tình
yêu đã mất, như bài hát thần sầu dưới đây, giữa thế kỷ 20, mà tác giả,
vô danh,
cho tiện:
OK, vậy là
em bỏ anh
Anh bèn tìm
một nơi khác để làm chuồng
Ngay cuối Phố Đơn Côi
Khách Sạn
Tim Vỡ
[Ui chao, bài
hát này, thì bèn làm Gấu nhớ ngay đến ông bạn quí Trúc Chi, người rất
sành về
những bài hát:
Where is
that street,
called lonely street,
where broken dreams
and memories
meet? (1)]
Haiku
Trên TV đã đi 1 đường giới
thiệu nhà thơ Đại Hàn, Ko Un, qua bài viết thần sầu, dài thòng của
Robert Hass, với tí tiếc nuối là, những nhà thơ Mít, do khiêm tốn quá,
nên chưa đấng nào khoe khoang, [chưa] có thằng mũi lõ viết về tao,
nhưng chúng
có đưa thơ của tao vô sách giáo khoa Mẽo rùi!
Có bài giới thiệu của TNH.
Nhưng, nè, Thầy TNH có giới thiệu nhà thơ Mít nào chưa, chăng, nhỉ?
Folk Songs
Sausage
makers of History,
The bloody
kind,
You all hail
from a village
Where the
dog barking at the moon
Is the only
poet.
•
O King
Oedipus, O Hamlet,
Fallen like
flies
In the pot
of cabbage soup,
No use
beating with your fists,
Or sticking
your tongues out .
•
Christ-faced
spider on the wall
Darkened by
evening shadows
I spent my
childhood on a cross
In a yard
full of weeds,
White
butterflies, and white chickens.
Charles
Simic
Đồng Ca
Những kẻ làm
xúc xích Lịch Sử
Thứ máu nhất
Tất cả các bạn quê cùng một làng
Nơi chó sủa trăng
Là tên thi sĩ
độc nhất
Ôi Oedipus, Ôi
Hamlet
Rớt như ruồi
Trên nồi xúp
Không cách
chi đập bằng cùi tay
Hay lè lưỡi
ra
Nhện mặt Chúa
trên tường
Tối thui đi
vì bóng đêm
Tớ trải qua
tuổi thơ của mình trên cây thập tự
Nơi khu vườn
đầy cỏ dại
Bướm trắng và
gà con trắng
War
The
trembling finger of a woman
Goes down
the list of casualties
On the
evening of the first snow.
The house is
cold and the list is long.
All our
names are included.
Charles
Simic
Chiến
Tranh
Ngón tay người đàn bà run
rẩy
Lần theo danh sách những tổn thất
Buổi chiều đầu mùa tuyết
Căn nhà thì lạnh, danh
sách thì dài
Tên của tất cả chúng ta
thì đều có ở trong đó.
THE TIGER
in memory of
George Oppen
In San
Francisco, that winter,
There was a
dark little store
Full of
sleepy Buddhas.
The
afternoon I walked in,
No one came
out to greet me.
I stood
among the sages
As if trying
to read their thoughts.
One was huge
and made of stone.
A few were
the size of a child's head
And had
stains the color of dried blood.
There were
some no bigger than mice,
And they
appeared to be listening.
"The
winds of March, black winds,
The gritty
winds," the dead poet wrote.
At sundown his
street was empty
Except for
my long shadow
Open before
me like scissors.
There was
his house where I told the story
Of the
Russian soldier,
The one who
looked Chinese.
He lay
wounded in my father's bed,
And I
brought him water and matches.
For that he
gave me a little tiger
Made of
ivory. Its mouth was open in anger,
But it had
no stripes left.
There was
the night when I colored
Its eyes
black, its tongue red.
My mother
held the lamp for me,
While
worrying about the kind of luck
This beast
might bring us.
The tiger in
my hand growled faindy
When we were
alone in the dark,
But when I
put my ear to the poet's door
That
afternoon, I heard nothing.
"The
winds of march, black winds,
The gritty
winds," he once wrote.
Charles
Simic
Ông Ba Mươi
Tưởng nhớ
George Oppen
Khóc đi Nguyễn,
Mùa này gió
biển thổi điên lên lục địa
TTT
Ở San
Francisco, mùa đông đó
Có một cửa
tiệm tối thui
Đầy những tượng
Phật thiu thiu ngủ.
Một buổi xế
trưa tôi bước vô
Chẳng ai bước
ra chào đón.
Tôi đứng giữa
những vị hiền giả
Như cố đọc
tư tưởng của họ.
Một đấng bự,
bằng đá
Một vài đấng
chỉ bằng cái đầu một đứa trẻ
Và có những
vệt máu khô
Có một vài đấng
chẳng lớn hơn con chuột nhắt
Và, ui chao,
họ đều như có vẻ đang lắng nghe!
“Những trận
gió tháng Ba, những trận gió đen,
Những trận
gió gan góc”, nhà thơ đã mất, viết.
Vào lúc trời
về chiều, con phố của ông trống rỗng
Nếu không
tính đến cái bóng dài thòng của tôi
Mở ra trước
mắt tôi như cây kéo
Có căn nhà của
ông, nơi tôi kể câu chuyện
Về người
lính Nga
Trông giống
như 1 anh Tẫu.
Anh ta nằm,
bị thương, trong cái giường của cha tôi
Và tôi mang
cho anh ta, nước và quẹt
Và anh ta
cho lại tôi một con hổ nhỏ
Bằng ngà. Miệng
nó mở ra, giận dữ
Nhưng mình
chẳng có sọc, vằn nào.
Có 1 đêm tôi
sơn con hổ
Mắt sơn đen,
lưỡi, đỏ.
Má tôi giúp
tôi, cầm cây đèn
Trong khi tần
ngần, không biết thứ may mắn nào
Con vật mang
lại cho chúng tôi.
Con hổ trong
tay tôi uể oải gầm gừ
Khi chúng
tôi trơ trọi trong bóng tối
Nhưng khi
tôi áp tai vô cửa phòng nhà thơ
Buổi chiều
hôm đó, tôi không nghe thấy gì.
“Gió Tháng
Ba, gió đen,
Gió gân guốc,”
nhà thơ, có lần viết.
Note: Gió Tháng Tư, còn
đen hơn nhiều!
IN THE JUNK
STORE
A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.
I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.
Charles Simic: The
Little Something
Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành Hồ
Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!
Gấu lật lật 1 cái huy
chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước Đứng
Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!
Hà, hà!
Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp
nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….
Haiku
A woman is
gathering
the ashes of
someone she loves
a violet
flowering close to her
Một người đàn bà thu gom tro than của một người thân thương của bà
Một bông hoa nở tím, ngay kế bên bà.
Collected
Haiku of Yosa Buson
Translated
by W.S. Merwin & Takako Lento
Note: Bài thơ haiku, trên,
làm GCC nhớ tới bài thơ của Thích Nhất Hạnh, rất nổi tiếng, trong thời
chiến tranh Mít, và hình như đã từng được PD phổ nhạc, dưới đây.
Lạ, là khi đặt hai bài thơ song song, thì 1 hình ảnh mới, bật ra, với
GCC, và nó lại làm GCC nhớ đến cái lần, thằng em trai, vô nhà bảo sanh
thăm thằng con trai lớn của Gấu, mới sinh, rồi đi luôn:
Liệu cái bông hoa màu tím, mớ tro than thu gom, là một?
Peace
They woke me
this morning
To tell me
my brother had been killed in battle.
Yet in the
garden, uncurling moist petals,
A new rose
blooms on the bush.
And I am
alive, can still breathe the fragrance of roses and
dung.
Eat, pray,
and sleep.
But when can
I break my long silence?
When can I
speak the unuttered words that are choking me?
-Nhat Hanh
Hòa
Bường
Người ta
đánh thức tôi
Để báo tin thằng em tôi tử trận
Ngoài vườn, một bông hoa mới nở....
|
|