*

 





Thơ Mỗi Ngày
BRONISLAW MAJ
1953-

An unrepeatable situation. Only this, and not another man, so this and not another leaf. Which means that one can practice a philosophical poetry not using the dry terms of philosophy.
Czeslaw Milosz

A LEAF

A leaf, one of the last, parts from a maple branch:
it is spinning in the transparent air of October, falls
on a heap of others, stops, fades. No one
admired its entrancing struggle with the wind,
followed its flight, no one will distinguish it now
as it lies among other leaves, no one saw
what I did. I am
the only one.

Translated from the Polish by Czeslaw Milosz and Robert Hass

Một hoàn cảnh không thể lập lại. Chỉ có cái này và không 1 người đàn ông khác, và cũng vậy, chỉ có cái này, và không 1 cái lá khác.
Điều này có nghĩa, người ta có thể thực tập một thứ thơ triết lý mà không dùng tới những từ khô khan của triết học.

Một cái lá

Một cái lá, một cái cuối cùng, rời cành thông
Nó quay vòng trong không khí trong suốt của Tháng Mười,
rớt xuống đống lá, ngưng, phai tàn đi.
Chẳng ai trầm trồ cơn chiến đấu ngoan cường chống cự gió,
theo rõi cú rơi ngoạn mục của nó,
chẳng ai sẽ phân biệt nó,
bây giờ, nằm giữa những cái lá khác,
chẳng ai nhìn thấy điều tôi làm,
Tôi là kẻ độc nhất.

ANNA SWIR
1909-1984

Poetry readings are not common in some countries. In others, among them Poland, they draw an audience that doesn't treat poetry as an aesthetic experience only.
Rather, in one way or another, such audiences bring to the event their multiple questions about life and death. This poem captures well the ignorance and helplessness of both the poet and her listeners.
Đọc thơ thì hơi bị hiếm ở vài xứ sở. Ở những xứ khác, trong có Ba Lan, thính giả kéo t
i không chỉ để nghe đọc thơ, như 1 kinh nghiệm thẩm mỹ, mà còn ưu tư về chuyện sống, chết, ba cái lăng nhăng khác nữa. Bài thơ dưới đây nắm bắt đúng cái sự ngỡ ngàng, vô tri, bất lực, giữa ngưi đọc, và người nghe, thơ.

POETRY READING

I'm curled into a ball
like a dog
that is cold.

Who will tell me
why I was born,
why this monstrosity
called life.

The telephone rings. I have to give
a poetry reading.

I enter.
A hundred people, a hundred pairs of eyes.
They look, they wait.
I know for what.
I am supposed to tell them
why they were born,
why there is
this monstrosity called life.

Đọc thơ

Lạnh,
Tôi cuộn người thành trái banh
Như giống chó thường làm 

Ai sẽ nói cho tôi biết
Tại sao tôi sinh ra
Tại sao cái quỉ ma này
gọi là cuộc đời

Chuông điện thoại
Tôi phải đi một đường đọc thơ
cho thính giả mê thơ

Tôi đi vô
Cả trăm người
Cả trăm cặp mắt
Họ nhìn
Họ đợi
Tôi biết họ đợi gì
Đợi tôi nói với họ
Tại sao họ sinh ra
Tại sao có cái quỉ ma gọi là cuộc đời

Translaled from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan

*

Ve knew the world backwards
and forwards ...

We knew the world backwards and forwards-
so small it fit in a handshake,
so easy it could be described in a smile,
as plain as the echoes of old truths in a prayer.

History did not greet us with triumphant fanfare-
it flung dirty sand in our eyes.
Ahead of us were distant roads leading nowhere,
poisoned wells, bitter bread.

The spoils of war is our knowledge of the world-
so large it fits in a handshake,
so hard it could be described in a smile,
as strange as the echoes of old truths in a prayer.

Wislawa Szymborska: Miracle Fair

Nhiều chuyện xẩy ra đúng là không nên xẩy ra
Chúng ta biết thế giới, lui, và tới

Chúng ta biết thế giới, lui, và tới
nhỏ đến nỗi trọn 1 cú bắt tay
dễ, cẩm như 1 nụ cười
trần trụi như những tiếng vọng của những sự thực cũ mèm, trong 1 lời cầu nguyện

Lịch sử đếch đón chúng ta, như Ngày Hội Lớn của Mít
Nó ném kít vào mặt chúng ta
Đằng trước chúng ta là ngón tay của Đức Thánh Trần:
Hãy ra biển!
Giếng tẩm độc, bánh mì chua xót

Nam Kít nhận họ, Bắc Kít nhận hàng
Đó là hiểu biết của chúng ta về thế giới
Quá lớn để mà trọn 1 cú bắt tay
Quá đau để mà diễn tả bằng 1 nụ cười
Quá lạ như những tiếng dội của sự thực cũ mèm của 1 lời cầu nguyện

LATE SEPTEMBER

The mail truck goes down the coast
Carrying a single letter.
At the end of a long pier
The bored seagull lifts a leg now and then
And forgets to put it down.
There is a menace in the air
Of tragedies in the making.

Last night you thought you heard television
In the house next door.
You were sure it was some new
Horror they were reporting,
So you went out to find out.
Barefoot, wearing just shorts.
It was only the sea sounding weary
After so many lifetimes
Of pretending to be rushing off somewhere
And never getting anywhere.

This morning, it felt like Sunday.
The heavens did their part
By casting no shadow along the boardwalk
Or the row of vacant cottages,
Among them a small church
With a dozen gray tombstones huddled close
As if they, too, had the shivers.

Charles Simic: The Voice at 3:00 AM 

Tháng Mười Cũ

Xe thư chạy xuống bờ biển
Với chỉ một lá thư
Ở cuối một bến tàu dài
Con hải âu chán đời, nhắc,
hết chân phải lại đến chân trái
Và quên bỏ xuống
Trong không khí có mùi đe dọa
Về những bi kịch đang thành hình

Đêm qua bạn nghĩ bạn có nghe tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin chắc
Về một ghê rợn mới
Họ đang báo cáo
Và thế là bạn bò ra đường để kiếm
Chân trần, quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là tiếng sóng biển
Ưu tư về không biết là bao nhiêu là đời
Cứ phải giả đò, từ đâu đổ xuống nơi đây
Và chẳng bao giờ đi bất cứ nơi đâu

Sáng nay, sao giống như Chủ Nhật
Ông Giời cà chớn chắc là cũng có góp phần
Trong cái việc, đếch đem một cái bóng râm nào
Đổ xuống hai bên hè đường
Hay là ở rặng những cái lều trống trơn
Trong số đó, là 1 ngôi nhà thờ nhỏ
Với trên chục cái bia mộ bằng đá
Xúm lại với nhau
Như thể, chúng, đôi lúc, cũng rùng mình.

CAFÉ DON QUIXOTE

Trees like country preachers
On their rostrums,
Their arms raised in blessing
Over the evening fields.
Every leaf now, every weed
Helping the night
Darken and quiet the world
For what's to come.

Birds of a feather, listen,
Pay attention to me.
I'm setting out astride my phantom Rozinante.
Down a winding road where crows vanish.
Imponderabilia, wherever you're hiding,
Hop in the saddle with me.

No two blades of grass, no two shadows
Whisper our names alike.
CAFÉ DON QUIXOTE in blood-red neon
Just now coming into view
In the vast, dark-clouded,
Storm-threatening West.

Charles Simic: The Voice at 3:00 AM

IN THE JUNK STORE

A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.

I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.

Charles Simic: The Little Something

Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành Hồ

Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!

Gấu lật lật 1 cái huy chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước Đứng Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!

Hà, hà!

Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn…. 

ETERNITY'S ORPHANS

One night you and I were walking.
The moon was so bright
We could see the path under the trees.
Then the clouds came and hid it
So we had to grope our way
Till we felt the sand under our bare feet,
And heard the pounding waves.

Do you remember telling me,
"Everything outside this moment is a lie"?
We were undressing in the dark
Right at the water's edge
When I slipped the watch off my wrist
And without being seen or saying
Anything in reply, I threw it into the sea.

Charles Simic

Những đứa trẻ mồ côi của vĩnh cửu

Một đêm em và tôi dạo bước
Trăng cao, sáng vằng vặc
Chúng tôi có thể nhìn thấy lối đi dưới cây
Và rồi mây tới và che mất
Thế là chúng tôi phải mò mẫm kiếm lối đi
Cho tới khi cảm thấy cát dưới chân trần
Và nghe tiếng sóng biển đập thình thịch

Em có nhớ là em biểu tôi
"Mọi cái chó gì bên ngoài khoảnh khắc này, thì đều là dối trá"?
Chúng mình lột trần truồng trong bóng tối
Ngay kế bên bờ nước
Trong khi tôi gỡ cái đồng hồ ra khỏi cổ tay
Và chẳng để ý em có nhìn tôi,
Hay nói cái gì để trả lời
Tôi ném cái đồng hồ xuống biển 

OCTOBER LIGHT  

That same light by which I saw her last
Made me close my eyes now in revery;
Remembering how she sat in the garden 

With a red shawl over her shoulders
And a small book in her lap,
Once in a long while looking up 

With the day's brightness on her face,
As if to appraise something of utmost seriousness
She has just read at least twice, 

With the sky clear and open to view;
Because the leaves had already fallen
And lay still around her two feet.

Charles Simic

 

Ánh Sáng Tháng Mười

Cũng ánh sáng này tôi nhìn nàng lần mới rồi
Bây giờ nó làm tôi nhắm mắt lại và mơ màng
Nhớ lại nàng ngồi trong khu vườn 

Khăn đỏ choàng trên vai
Cuốn sách nhỏ trên đùi
Nàng nhìn lên một lúc thật lâu 

Với ánh sáng ban ngày rạng rỡ trên khuôn mặt
Như thể để thẩm định một điều gì thật sự nghiêm trọng
Nàng vừa đọc ít nhất là hai lần, 

Bầu trời thì trong, mở ra để nhìn ngắm,
Bởi vì những chiếc lá đã rụng
Phủ quanh chân nàng.

CELLO 

Those who don't like it say it's
just a mutant violin
that's been kicked out of the chorus.
Not so.
The cello has many secrets,
but it never sobs,
just sings in its low voice.
Not everything turns into song though.
Sometimes you catch a murmur or a whisper:
I'm lonely,
I can't sleep.

Adam Zagajewski

Hồ Cầm 

Kẻ không thích, thì phán,
Ui dào chỉ là cái vĩ cầm chưa thành vĩ cầm
Bị dàn nhạc đá văng ra khỏi bản đồng ca.
Không phải vậy.
Hồ cầm có nhiều bí ẩn,
nhưng không bao giờ sụt sùi,
chỉ hát trong giọng trầm của nó.
Ðâu có phải mọi chuyện thì đều biến thành một bài ca.
Ðôi khi bạn bắt được một tiếng thì thầm, hay thỏ thẻ:
Anh Gấu ơi,
Ðêm nay, em cô đơn,
Em không thể ngủ được.

Robert Frost

Stopping By Woods on a Snowy Evening 

Whose woods these are I think I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow. 

My little horse must think it queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year. 

He gives his harness bells a shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.

The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep 

Tạm dịch:

Dừng ngựa bên rừng buổi chiều tuyết rụng

Rừng này của ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng. 

Ngựa của tôi chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm 

Nó bèn khẩy khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi. 

Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ 

Đây là bài thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có cái tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.

As to the metaphor, I should add that I now see that metaphor is a far more complicated thing than I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying, "the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more subtle way.
Think of Robert Frost. You of course remember the lines: 

For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep

If we take the last two lines, the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the poet is thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And miles to go before I sleep," the line becomes a  metaphor; for "miles," stands for "days," for "years," for a long stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death." Perhaps I am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the pleasure lies not in our translating "miles" into "years" and "sleep" into" death," but rather in feeling the implication.
Borges: This craft of verse 

Borges lèm bèm:
Về ẩn dụ, tôi có lẽ nên nói thêm là, nó rất ư “cà chớn”, rất rắc rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó không giản dị chỉ là so sánh sự vật này với sự vật khác - thí dụ, "mặt trăng thì như là... " - Không, nó “tế vi” hơn nhiều. 

For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep

Nếu lấy hai dòng đầu, thì nó là 1 câu phán của thi sĩ, về những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập lại, thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến thành "ngày", thành "năm", và dài dài mãi ra, và "ngủ", có nghĩa là, ngỏm củ tỏi!

Về già, đọc lại bài thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách dạy tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái tít!
Những lời hứa phải giữ!

Bài tiểu luận lấy làm tít cho cả cuốn, Về Khổ Đau và Lý Trí, On Grief and Reason, của Brodsky, là viết về [vinh danh] Robert Frost.

Brodsky viết:
Vào năm 1959, trong 1 bữa tiệc mừng sinh nhật lần thứ 85 của Frost, tại New York, nhà phê bình sắc sảo nhất, nổi cộm nhất thời đó, the most prominent literary critic at the time, Lionel Trilling, đứng dậy, tay cầm ly rượu có cẳng, goblet, phán, Robert Frost là nhà thơ khủng khiếp, a terrifying poet. Lẽ dĩ nhiên, có những tiếng ồn ào tiếp theo sau, nhưng "khủng khiếp" đúng là từ dành cho Frost:

Now, I want you to make the distinction here between terrifying and tragic. Tragedy, as you know, is always a “fait accompli”, whereas terror always has to do with anticipation, with man's recognition of his own negative potential-with his sense of what he is capable of. And it is the latter that was Frost's forte, not the former. In other words, his posture is radically different from the Continental tradition of the poet as tragic hero. And that difference alone makes him- for want of a better term-America.

Ui chao, đọc 1 phát, Gấu nhớ tới cái từ “văn chương khủng khiếp” của Gấu, ban cho Hoàng Đông Phương!

Between Two Worlds

Brodsky ventures, "American poetry is essentially Virgilian, which is to say contemplative."

Trong bài diễn văn Nobel, Brodsky lập lại câu hỏi của Adorno, "Làm sao một người có thể làm thơ sau Lò Thiêu?", và viết tiếp:
Một người nào quen thuộc với lịch sử Nga, có thể lập lại câu hỏi trên, bằng cách thay tên Auschwitz bằng 1 cái tên khác, và sự chứng thực, justification, còn bảnh hơn, even greater, Auschwitz, bởi vì con số những người chết trong trại tù Stalin vượt quá hơn nhiều, so với Lò Thiêu, hay, như nhà thơ Mẽo, Mark Strand, đã từng chặn họng, retorted, Adorno: “Làm sao một người có thể ăn trưa [sau Lò Thiêu]?”

Trong bất cứ trường hợp, thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về, thừa sức làm thứ thơ đó [that poetry].

Thơ ca Mít, nhất là đám Miền Nam sau 1975, đụng đúng cú này, và TTT trả lời, “đếch” làm được:
Làm sao làm thơ, coi như đếch có gì xẩy ra?

Thơ Mỗi Ngày

Poem of the week

Phượng Hoàng và Bồ Câu

IMPOSSIBLE

5414 S. BLACKSTONE, CHICAGO

It's so hard, trying to write, be it
at home, on a plane above the ocean,
over a black forest, in the evening stillness.
Always starting fresh, reaching
full speed and fifteen minutes later
giving up, in reluctant surrender.
I hope that you at least can hear me,
-since, as you know, the theoreticians remind us
insistently, almost daily, that we've missed
the point, as usual we've skipped
the deeper meaning, we've been reading
the wrong books, alas,
we've drawn the wrong conclusions.
They claim: poetry is fundamentally impossible,
a poem is a hall where faces dissolve
in a golden haze of spotlights, where the fierce
rumblings of an angry mob drown out
defenseless single voices.
So what then? Fine words perish quickly,
ordinary words rarely persuade.
All the evidence suggests silentium
claims only a handful of adherents.
Sometimes I envy the dead poets,
they no longer have "bad days," they don't know
"ennui," they've parted ways with "vacancy,"
"rhetoric," rain, low-pressure zones,
they've stopped following the "shrewd reviews,"
but they keep speaking to us.
Their doubts vanished with them,
their rapture lives.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

 

Bất khả

Căng quá, chuyện cố viết.
Ở nhà, trên máy bay, bay trên biển
Bên trên một khu rừng đen, trong tĩnh mịch buổi chiều.
Khởi đầu thật ngon cơm, đạt tốc độc tối đa, chỉ 15 phút sau là hết xí oắt!
Là thua, là miễn cưỡng đầu hàng.
Tớ hy vọng ít ra, bạn nghe ra tớ -
kể từ khi, bạn biết đấy, những lý thuyết gia kiên trì nhắc nhở chúng ta, hầu như hàng ngày,
chúng ta quên 1 điều, như chúng ta thường bỏ qua ý nghĩa sâu hơn, chúng ta đọc lầm sách, than ôi,
và chúng ta rút ra những kết luận nhảm.
Họ phán: thơ, cơ bản mà nói, bất khả,
Bài thơ là 1 sảnh đường, nơi những khuôn mặt tan loãng vào khối sương khói màu vàng của những điểm sáng,
nơi trong những tiếng ồn ào của một đám đông giận dữ, lòi ra vài giọng đơn lẻ bất lực.
Thế thì rồi sao? Những từ đẹp đẽ nhanh chóng tàn lụi
Những từ bình thường khó thuyết phục độc giả.
Tất cả bằng chứng đề xuất sự im lặng, silentium.
Đòi 1 dúm người tham dự.
Đôi khi tớ thèm những nhà thơ đã chết
Họ chẳng còn “những ngày xấu”
Họ không biết từ “buồn bực”
Họ xẻ ra những con đường với những từ “khoảng trống”,
“hùng biện”, mưa, những vùng áp thấp,
Họ mgưng không theo dõi những “bài điểm sách đanh đá”,
nhưng vẫn tiếp tục nói với chúng ta.
Những hồ nghi của họ, biến mất cùng với họ
còn lại là hứng khởi, niềm mê ly lịm người của họ.


CHUANG TZU
3rd-4th century B.C.
Masters of nonattachment, the Chinese Taoists would give first of all practical advice-advice of the Way, for such is the literal meaning of the word Tao, though it means much more and that is why it is untranslatable.

MAN IS BORN IN TAO

Fishes are born in water
Man is born in Tao.
If fishes, born in water,
Seek the deep shadow
Of pond and pool,
All their needs
Are satisfied.
If man, born in Tao,
Sinks into the deep shadow
Of non-action
To forget aggression and concern,
He lacks nothing
His life is secure.

Moral: "All the fish needs
Is to get lost in water.
All man needs is to get lost
In Tao."
Translated from the Chinese by Thomas Merton

CHUANG TZU
Thế kỷ 3- 4 Trước Dương Lịch

Sư phụ của không-vướng bận, những bậc Lão Gia Tầu ban cho chúng ta trước hết một chỉ dẫn thực tiễn - một chỉ dẫn về Đạo, và đó là nghĩa đen của từ này, Đạo, tuy nó nghĩa hơn thế nhiều và vì thế, không thể dịch được

Con người sinh ra trong Đạo

Con cá sinh trong nước
Con người sinh trong Đạo
Nếu cá, sinh trong nước,
Tìm bóng sâu
Của ao hồ
Tất cả những gì cá cần
Như thế là được thỏa mãn
Nếu người, sinh trong Đạo,
Tìm bóng sâu
Trong không-hành động
Để quên gây hấn và quan tâm
Nó chẳng thiếu gì
Đời nó được bảo đảm

Bài học đạo đức: “Tất cả những gì mà cá cần
Là tuyệt tích giang hồ trong nước
Tất cả những gì người cần
Là tuyệt tích giang hồ
Trong Đạo".


Non-acting is not the same as passivity. But energy alone is not everything, and sometimes, when we strive incessantly, we achieve an outcome just opposite to what was intended-we learn from the same Chuang Tzu,

THE NEED TO WIN

When an archer is shooting for nothing
He has all his skill.
If he shoots for a brass buckle
He is already nervous.
If he shoots for a prize of gold
He goes blind
Or sees two targets-
He is out of his mind!
His skill has not changed. But the prize
Divides him. He cares.
He thinks more of winning
Than of shooting-
And the need to win
Drains him of power.

Translated from the Chinese by Thomas Merton

Không-hành động thì không giống ù lì, thụ động. Nhưng sinh lực không thôi không phải là tất cả, và đôi khi, khi chúng ta cố đấm ăn sôi, chúng ta vớ được, cái đối ngược hẳn với cái mà chúng ta tính vớ!

Yêu cầu thắng

Khi 1 cung thủ bắn chẳng vì cái gì
Hắn là cao thủ
Nhưng nếu hắn nhắm bắn cái khóa đồng
Thì hắn đã nóng nảy.
Nếu hắn bắn, nhằm giật được giải thưởng bằng vàng
Hắn trở nên mù
Hay nhìn thấy hai cái đích –
Hắn trở thành khùng
Tài năng cao thủ của hắn, vưỡn thế
Nhưng giải thưởng làm hắn loạng quạng.
Hắn “care”
Hắn nghĩ đến thắng
Hơn là bắn –
Và chính cái yêu cầu thắng
Làm khô kiệt sức mạnh của hắn.

JELALUDDIN RUMI
1207-1273

Because the question of good and evil has been tormenting us since the moment we plucked a fruit from the tree of knowledge, perhaps it's worthwhile to remind ourselves that there have been people who didn't take to heart that pair of opposite notions. For them, as for Jelaluddin Rumi, nonattachment meant simply that you could lie down in a meadow.

Out beyond ideas of wrongdoing and rightdoing,
there is a field. I'll meet you there.

When the soul lies down in that grass,
the world is too full to talk about.
Ideas, language, even the phrase each other
doesn't make any sense.

Translated by Coleman Barks and John Mayne

Bởi vì vấn đề thiện và ác làm phiền chúng ta, đúng ngay thời điểm chơi trái táo từ cái cây tri thức, nhưng có lẽ chúng ta cũng nên biết, có những kẻ đếch thèm để ý gì đến cú xung đột đẫm máu giữa thiện và ác. Với họ, trong có thi sĩ Ru Mì trên đây, không-vướng bận, đếch thèm dây với thiện và ác, giản dị có nghĩa là, bạn có thể nằm dài ra, trên 1 cánh đồng cỏ

Vượt ra ngoài cuộc Hoa Sơn Luận Kiếm giữa thiện và ác
Có 1 cánh đồng cỏ. Mình sẽ gặp…  nữ thi sĩ ở đó nhe!

Khi linh hồn nằm ườn ra trên bãi cỏ
Thế giới thì tràn đầy, đếch cần lèm bèm gì nữa
Ý nghĩ, ngôn ngữ, ngay cả câu này, đoạn nọ,
đếch có nghĩa gì cả.

LI PO
701-762

Perhaps in this Chinese poem there is something similar to the poem by Rumi. Motionless sitting and meditating on a landscape leads to the disappearance of our separate existence, so we become the mountain we contemplate.

THE BIRDS HAVE VANISHED

The birds have vanished into the sky,
and now the last cloud drains away.
We sit together, the mountain and me,
until only the mountain remains.

Translated from the Chinese by Sam Hamill

Có lẽ trong bài thơ Tầu này, có gì xêm xêm với bài thơ của Ru Mì. Ngồi bất động trầm tư về phong cảnh dẫn tới sự biến mất của hiện hữu cách biệt, riêng lẻ của chúng ta, và thế là chúng ta biến thành trái núi mà chúng ta chiêm ngưỡng.

Chim biến mất

Chim biến mất vào nền trời
Và bây giờ cụm mây chót xa, cạn dần
Cả hai cùng ngồi, núi và tôi
Cho đến lúc, núi còn.


Đặt tay vô chỗ không thể đặt. MT
Bạn click vô chỗ không thể click, thì ra.... bài điểm sách:

Vagina: Một tiểu sử mới