|
Thơ Mỗi Ngày
BRONISLAW
MAJ
1953-
An unrepeatable
situation. Only this, and not another man, so this and not another
leaf. Which
means that one can practice a philosophical poetry not using the dry
terms of
philosophy.
Czeslaw
Milosz
A LEAF
A leaf, one
of the last, parts from a maple branch:
it is
spinning in the transparent air of October, falls
on a heap of
others, stops, fades. No one
admired its
entrancing struggle with the wind,
followed its
flight, no one will distinguish it now
as it lies
among other leaves, no one saw
what I did.
I am
the only
one.
Translated from the Polish
by Czeslaw
Milosz and Robert Hass
Một hoàn cảnh
không thể lập lại. Chỉ có cái này và không 1 người đàn ông khác, và
cũng vậy,
chỉ có cái này, và không 1 cái lá khác.
Điều này có nghĩa, người ta có thể thực
tập một thứ thơ triết lý mà không dùng tới những từ khô khan của triết
học.
Một cái lá
Một cái lá,
một cái cuối cùng, rời cành thông
Nó quay vòng
trong không khí trong suốt của Tháng Mười,
rớt xuống đống lá, ngưng, phai tàn đi.
Chẳng ai trầm trồ cơn chiến đấu ngoan cường chống cự gió,
theo rõi cú rơi ngoạn
mục của nó,
chẳng ai sẽ phân biệt nó,
bây giờ, nằm giữa những cái lá khác,
chẳng
ai nhìn thấy điều tôi làm,
Tôi là kẻ độc nhất.
ANNA SWIR
1909-1984
Poetry
readings are not common in some countries. In others, among them
Poland, they
draw an audience that doesn't treat poetry as an aesthetic experience
only.
Rather, in
one way or another, such audiences bring to the event their multiple
questions
about life and death. This poem captures well the ignorance and
helplessness of
both the poet and her listeners.
Đọc thơ thì hơi bị hiếm ở vài xứ sở. Ở những xứ khác, trong có Ba Lan,
thính giả kéo tới không chỉ để nghe đọc thơ, như 1 kinh nghiệm
thẩm mỹ, mà còn ưu tư về chuyện sống, chết, ba cái lăng nhăng khác nữa. Bài thơ dưới đây nắm bắt đúng cái sự
ngỡ ngàng, vô tri, bất lực, giữa
người đọc, và người nghe, thơ.
POETRY
READING
I'm curled
into a ball
like a dog
that is
cold.
Who will
tell me
why I was
born,
why this
monstrosity
called life.
The
telephone rings. I have to give
a poetry
reading.
I enter.
A hundred
people, a hundred pairs of eyes.
They look,
they wait.
I know for
what.
I am
supposed to tell them
why they
were born,
why there is
this
monstrosity called life.
Đọc thơ
Lạnh,
Tôi cuộn người
thành trái banh
Như giống chó
thường làm
Ai sẽ nói
cho tôi biết
Tại sao tôi
sinh ra
Tại sao cái
quỉ ma này
gọi là
cuộc đời
Chuông điện
thoại
Tôi phải đi
một đường đọc thơ
cho thính giả
mê thơ
Tôi đi vô
Cả trăm người
Cả trăm cặp
mắt
Họ nhìn
Họ đợi
Tôi biết họ
đợi gì
Đợi tôi nói
với họ
Tại sao họ
sinh ra
Tại sao có cái
quỉ ma gọi là cuộc đời
Translaled from the Polish
by Czeslaw
Milosz and Leonard Nathan
Ve knew the
world backwards
and forwards
...
We knew the
world backwards and forwards-
so small it
fit in a handshake,
so easy it
could be described in a smile,
as plain as
the echoes of old truths in a prayer.
History did
not greet us with triumphant fanfare-
it flung
dirty sand in our eyes.
Ahead of us
were distant roads leading nowhere,
poisoned
wells, bitter bread.
The spoils
of war is our knowledge of the world-
so large it
fits in a handshake,
so hard it
could be described in a smile,
as strange
as the echoes of old truths in a prayer.
Wislawa
Szymborska: Miracle Fair
Nhiều chuyện
xẩy ra đúng là không nên xẩy ra
Chúng ta biết
thế giới, lui, và tới
Chúng ta biết
thế giới, lui, và tới
nhỏ đến nỗi
trọn 1 cú bắt tay
dễ, cẩm như
1 nụ cười
trần trụi
như những tiếng vọng của những sự thực cũ mèm, trong 1 lời cầu nguyện
Lịch sử
đếch
đón chúng ta, như Ngày Hội Lớn của Mít
Nó ném kít
vào mặt chúng ta
Đằng trước
chúng ta là ngón tay của Đức Thánh Trần:
Hãy ra biển!
Giếng tẩm độc,
bánh mì chua xót
Nam Kít nhận
họ, Bắc Kít nhận hàng
Đó là hiểu
biết của chúng ta về thế giới
Quá lớn để
mà trọn 1 cú bắt tay
Quá đau để
mà diễn tả bằng 1 nụ cười
Quá lạ như những
tiếng dội của sự thực cũ mèm của 1 lời cầu nguyện
LATE
SEPTEMBER
The mail
truck goes down the coast
Carrying a
single letter.
At the end
of a long pier
The bored
seagull lifts a leg now and then
And forgets
to put it down.
There is a
menace in the air
Of tragedies
in the making.
Last night
you thought you heard television
In the house
next door.
You were
sure it was some new
Horror they
were reporting,
So you went
out to find out.
Barefoot,
wearing just shorts.
It was only
the sea sounding weary
After so
many lifetimes
Of
pretending to be rushing off somewhere
And never
getting anywhere.
This
morning, it felt like Sunday.
The heavens
did their part
By casting
no shadow along the boardwalk
Or the row
of vacant cottages,
Among them a
small church
With a dozen
gray tombstones huddled close
As if they,
too, had the shivers.
Charles
Simic: The Voice at 3:00 AM
Tháng Mười Cũ
Xe thư chạy
xuống bờ biển
Với chỉ một
lá thư
Ở cuối một bến
tàu dài
Con hải âu
chán đời, nhắc,
hết chân phải
lại đến chân trái
Và quên bỏ
xuống
Trong không
khí có mùi đe dọa
Về những bi
kịch đang thành hình
Đêm qua bạn
nghĩ bạn có nghe tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin
chắc
Về một ghê rợn
mới
Họ đang báo
cáo
Và thế là bạn
bò ra đường để kiếm
Chân trần,
quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là
tiếng sóng biển
Ưu tư về không
biết là bao nhiêu là đời
Cứ phải giả đò,
từ đâu đổ xuống nơi đây
Và chẳng bao
giờ đi bất cứ nơi đâu
Sáng nay,
sao giống như Chủ Nhật
Ông Giời cà
chớn chắc là cũng có góp phần
Trong cái việc,
đếch đem một cái bóng râm nào
Đổ xuống hai
bên hè đường
Hay là ở rặng
những cái lều trống trơn
Trong số đó,
là 1 ngôi nhà thờ nhỏ
Với trên chục
cái bia mộ bằng đá
Xúm lại với
nhau
Như thể, chúng,
đôi lúc, cũng rùng mình.
CAFÉ DON
QUIXOTE
Trees like
country preachers
On their
rostrums,
Their arms
raised in blessing
Over the
evening fields.
Every leaf
now, every weed
Helping the
night
Darken and
quiet the world
For what's
to come.
Birds of a
feather, listen,
Pay
attention to me.
I'm setting
out astride my phantom Rozinante.
Down a
winding road where crows vanish.
Imponderabilia,
wherever you're hiding,
Hop in the
saddle with me.
No two
blades of grass, no two shadows
Whisper our
names alike.
CAFÉ DON
QUIXOTE in blood-red neon
Just now
coming into view
In the vast,
dark-clouded,
Storm-threatening
West.
Charles
Simic: The Voice at 3:00 AM
IN THE JUNK
STORE
A small,
straw basket
Full of
medals
From good
old wars
No one
recalls.
I flipped
one over
To feel the
pin
That once
pierced
The hero's
swelling chest.
Charles
Simic: The Little Something
Tại Viện Bảo
Tàng Chiến Tranh Thành Hồ
Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những
huy chương
Của hai cuộc
chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít,
thứ thiệt nào, còn nhớ!
Gấu lật lật
1 cái huy chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi
đinh ghim
Đã 1 thời cắm
vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng
Núp
Của nhà văn truyền
kỳ Đất Nước Đứng Lên
Rồi Đất Nước
Nằm Xuống
Rồi Đất Nước
Đi Luôn!
Hà, hà!
Junk Store:
Tiệm bán ba đồ tạp nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….
ETERNITY'S
ORPHANS
One night
you and I were walking.
The moon was
so bright
We could see
the path under the trees.
Then the
clouds came and hid it
So we had to
grope our way
Till we felt
the sand under our bare feet,
And heard
the pounding waves.
Do you
remember telling me,
"Everything
outside this moment is a lie"?
We were
undressing in the dark
Right at the
water's edge
When I
slipped the watch off my wrist
And without
being seen or saying
Anything in
reply, I threw it into the sea.
Charles
Simic
Những đứa trẻ
mồ côi của vĩnh cửu
Một đêm em và
tôi dạo bước
Trăng cao, sáng vằng vặc
Chúng tôi có
thể nhìn thấy lối đi dưới cây
Và rồi mây tới
và che mất
Thế là chúng
tôi phải mò mẫm kiếm lối đi
Cho tới khi
cảm thấy cát dưới chân trần
Và nghe tiếng
sóng biển đập thình thịch
Em có nhớ là
em biểu tôi
"Mọi cái chó gì bên ngoài khoảnh khắc này, thì đều là dối trá"?
Chúng mình lột
trần truồng trong bóng tối
Ngay kế bên
bờ nước
Trong khi tôi
gỡ cái đồng hồ ra khỏi cổ tay
Và chẳng để ý
em có nhìn tôi,
Hay nói cái gì để trả lời
Tôi ném cái
đồng hồ xuống biển
OCTOBER
LIGHT
That same
light by which I saw her last
Made me
close my eyes now in revery;
Remembering
how she sat in the garden
With a red
shawl over her shoulders
And a small
book in her lap,
Once in a
long while looking up
With the
day's brightness on her face,
As if to
appraise something of utmost seriousness
She has just
read at least twice,
With the sky
clear and open to view;
Because the
leaves had already fallen
And lay
still around her two feet.
Charles
Simic
Ánh Sáng
Tháng Mười
Cũng ánh
sáng này tôi nhìn nàng lần mới rồi
Bây giờ nó
làm tôi nhắm mắt lại và mơ màng
Nhớ lại nàng
ngồi trong khu vườn
Khăn đỏ
choàng trên vai
Cuốn sách nhỏ
trên đùi
Nàng nhìn
lên một lúc thật lâu
Với ánh sáng
ban ngày rạng rỡ trên khuôn mặt
Như thể để
thẩm định một điều gì thật sự nghiêm trọng
Nàng vừa đọc
ít nhất là hai lần,
Bầu trời thì
trong, mở ra để nhìn ngắm,
Bởi vì những
chiếc lá đã rụng
Phủ quanh
chân nàng.
CELLO
Those who
don't like it say it's
just a
mutant violin
that's been
kicked out of the chorus.
Not so.
The cello
has many secrets,
but it never
sobs,
just sings
in its low voice.
Not
everything turns into song though.
Sometimes
you catch a murmur or a whisper:
I'm lonely,
I can't
sleep.
Adam
Zagajewski
Hồ Cầm
Kẻ không
thích, thì phán,
Ui dào chỉ
là cái vĩ cầm chưa thành vĩ cầm
Bị dàn nhạc
đá văng ra khỏi bản đồng ca.
Không phải vậy.
Hồ cầm có
nhiều bí ẩn,
nhưng không
bao giờ sụt sùi,
chỉ hát
trong giọng trầm của nó.
Ðâu có phải
mọi chuyện thì đều biến thành một bài ca.
Ðôi khi bạn
bắt được một tiếng thì thầm, hay thỏ thẻ:
Anh Gấu ơi,
Ðêm nay, em
cô đơn,
Em không thể
ngủ được.
Robert Frost
Stopping By
Woods on a Snowy Evening
Whose woods
these are I think I know.
His house is
in the village, though;
He will not
see me stopping here
To watch his
woods fill up with snow.
My little
horse must think it queer
To stop
without a farmhouse near
Between the
woods and frozen lake
The darkest
evening of the year.
He gives his
harness bells a shake
To ask if
there is some mistake.
The only other
sound's the sweep
Of easy wind
and downy flake.
The woods
are lovely, dark and deep,
But I have
promises to keep,
And miles to
go before I sleep,
And miles to
go before I sleep
Tạm dịch:
Dừng ngựa
bên rừng buổi chiều tuyết rụng
Rừng này của
ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở
trong làng
Làm sao ông
ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết
rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi
chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao
ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng
và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều
hôm cuối năm
Nó bèn khẩy
khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với
chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại
tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió
thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp,
tối, và sâu
Nhưng tôi
còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm
đường phải đi
Trước khi
lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Đây là bài
thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái Lan, cc 1990.
Trong 1
cuốn sách học tiếng Anh, có cái tít là Những lời hứa phải giữ, Promises
To Keep,
từ thơ Frost.
As to the
metaphor, I should add that I now see that metaphor is a far more
complicated
thing than I thought. It is not merely a comparing of one thing to
another-saying, "the moon is like ... ," and so on. No-it may be done
in a more subtle way.
Think of
Robert Frost. You of course remember the lines:
For I have
promises to keep
And miles to
go before I sleep
And miles to
go before I sleep
If we take
the last two lines, the first-"And miles to go before I sleep"-is a
statement: the poet is thinking of miles and of sleep. But when he
repeats it,
"And miles to go before I sleep," the line becomes a
metaphor; for "miles," stands for
"days," for "years," for a long stretch of time, while
"sleep" presumably stands for "death." Perhaps I am doing
no good for us by pointing this out. Perhaps the pleasure lies not in
our
translating "miles" into "years" and "sleep"
into" death," but rather in feeling the implication.
Borges: This
craft of verse
Borges lèm
bèm:
Về ẩn dụ,
tôi có lẽ nên nói thêm là, nó rất ư “cà chớn”, rất rắc rối, hơn là
thoạt đầu
tôi nghĩ. Nó không giản dị chỉ là so sánh sự vật này với sự vật khác -
thí dụ,
"mặt trăng thì như là... " - Không, nó “tế vi” hơn nhiều.
For I have
promises to keep
And miles to
go before I sleep
And miles to
go before I sleep
Nếu lấy hai
dòng đầu, thì nó là 1 câu phán của thi sĩ, về những "dặm đường", và
"ngủ". Nhưng khi ông lập lại, thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm"
biến thành "ngày", thành "năm", và dài dài mãi ra, và
"ngủ", có nghĩa là, ngỏm củ tỏi!
Về già, đọc
lại bài thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách dạy tiếng Anh,
lại lấy
dòng thơ của Frost làm cái tít!
Những lời hứa
phải giữ!
Bài tiểu luận
lấy làm tít cho cả cuốn, Về Khổ Đau và Lý Trí, On Grief
and Reason, của Brodsky, là viết về [vinh danh] Robert Frost.
Brodsky viết:
Vào năm
1959, trong 1 bữa tiệc mừng sinh nhật lần thứ 85 của Frost, tại New
York, nhà
phê bình sắc sảo nhất, nổi cộm nhất thời đó, the most prominent
literary critic
at the time, Lionel Trilling, đứng dậy, tay cầm ly rượu có cẳng,
goblet, phán,
Robert Frost là nhà thơ khủng khiếp, a terrifying poet. Lẽ dĩ nhiên, có
những
tiếng ồn ào tiếp theo sau, nhưng "khủng khiếp" đúng là từ dành cho
Frost:
Now, I want
you to make the distinction here between terrifying and tragic.
Tragedy, as you
know, is always a “fait accompli”,
whereas terror always has to do with
anticipation, with man's recognition of his own negative potential-with
his
sense of what he is capable of. And it is the latter that was Frost's
forte,
not the former. In other words, his posture is radically different from
the Continental
tradition of the poet as tragic hero. And that difference alone makes
him- for
want of a better term-America.
Ui chao, đọc
1 phát, Gấu nhớ tới cái từ “văn chương khủng khiếp” của Gấu, ban cho
Hoàng Đông
Phương!
Between Two
Worlds
Brodsky
ventures, "American poetry is essentially Virgilian, which is to say
contemplative."
Trong bài diễn
văn Nobel, Brodsky lập lại câu hỏi của Adorno, "Làm sao một
người có
thể làm thơ
sau Lò Thiêu?", và viết tiếp:
Một người nào
quen thuộc với lịch sử Nga, có thể lập lại câu hỏi trên, bằng cách thay
tên Auschwitz
bằng 1 cái tên khác, và sự chứng thực, justification, còn bảnh hơn,
even greater, Auschwitz, bởi vì
con số những người chết trong trại tù Stalin vượt quá hơn nhiều, so với
Lò Thiêu,
hay, như nhà thơ Mẽo, Mark Strand, đã từng chặn họng, retorted,
Adorno: “Làm sao một
người có
thể ăn trưa [sau Lò Thiêu]?”
Trong bất
cứ trường hợp,
thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về,
thừa sức làm
thứ thơ đó [that poetry].
Thơ ca Mít,
nhất là đám Miền Nam sau 1975, đụng đúng cú này, và TTT trả lời, “đếch”
làm được:
Làm sao làm
thơ, coi như đếch có gì xẩy ra?
Thơ Mỗi Ngày
Poem
of the week
Phượng
Hoàng
và Bồ
Câu
IMPOSSIBLE
5414 S.
BLACKSTONE, CHICAGO
It's so
hard, trying to write, be it
at home, on
a plane above the ocean,
over a black
forest, in the evening stillness.
Always
starting fresh, reaching
full speed
and fifteen minutes later
giving up,
in reluctant surrender.
I hope that
you at least can hear me,
-since, as
you know, the theoreticians remind us
insistently,
almost daily, that we've missed
the point,
as usual we've skipped
the deeper
meaning, we've been reading
the wrong
books, alas,
we've drawn
the wrong conclusions.
They claim:
poetry is fundamentally impossible,
a poem is a
hall where faces dissolve
in a golden
haze of spotlights, where the fierce
rumblings of
an angry mob drown out
defenseless
single voices.
So what
then? Fine words perish quickly,
ordinary
words rarely persuade.
All the
evidence suggests silentium
claims only
a handful of adherents.
Sometimes I
envy the dead poets,
they no
longer have "bad days," they don't know
"ennui,"
they've parted ways with "vacancy,"
"rhetoric,"
rain, low-pressure zones,
they've
stopped following the "shrewd reviews,"
but they
keep speaking to us.
Their doubts
vanished with them,
their
rapture lives.
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
Bất khả
Căng quá, chuyện cố viết.
Ở nhà, trên máy bay, bay trên biển
Bên trên một khu rừng đen, trong tĩnh mịch buổi chiều.
Khởi đầu thật ngon cơm, đạt tốc độc tối đa, chỉ 15 phút sau là hết xí
oắt!
Là thua, là miễn cưỡng đầu hàng.
Tớ hy vọng ít ra, bạn nghe ra tớ -
kể từ khi, bạn biết đấy, những lý thuyết gia kiên trì nhắc nhở chúng
ta, hầu
như hàng ngày,
chúng ta quên 1 điều, như chúng ta thường bỏ qua ý nghĩa sâu hơn, chúng
ta đọc
lầm sách, than ôi,
và chúng ta rút ra những kết luận nhảm.
Họ phán: thơ, cơ bản mà nói, bất khả,
Bài thơ là 1 sảnh đường, nơi những khuôn mặt tan loãng vào khối sương
khói màu
vàng của những điểm sáng,
nơi trong những tiếng ồn ào của một đám đông giận dữ,
lòi ra vài giọng đơn lẻ bất lực.
Thế thì rồi sao? Những từ đẹp đẽ nhanh chóng tàn lụi
Những từ bình thường khó thuyết phục độc giả.
Tất cả bằng chứng đề xuất sự im lặng, silentium.
Đòi 1 dúm người tham dự.
Đôi khi tớ
thèm những nhà thơ đã chết
Họ chẳng còn
“những ngày xấu”
Họ không biết
từ “buồn bực”
Họ xẻ ra những
con đường với những từ “khoảng trống”,
“hùng biện”, mưa, những vùng áp thấp,
Họ mgưng không
theo dõi những “bài điểm sách đanh đá”,
nhưng vẫn tiếp
tục nói với chúng ta.
Những hồ
nghi của họ, biến mất cùng với họ
còn
lại là hứng khởi, niềm mê ly lịm người của họ.
CHUANG TZU
3rd-4th
century B.C.
Masters of
nonattachment, the Chinese Taoists would give first of all practical
advice-advice
of the Way, for such is the literal meaning of the word Tao, though it
means
much more and that is why it is untranslatable.
MAN IS BORN
IN TAO
Fishes are
born in water
Man is born
in Tao.
If fishes,
born in water,
Seek the
deep shadow
Of pond and
pool,
All their
needs
Are
satisfied.
If man, born
in Tao,
Sinks into
the deep shadow
Of
non-action
To forget
aggression and concern,
He lacks
nothing
His life is
secure.
Moral:
"All the fish needs
Is to get
lost in water.
All man
needs is to get lost
In
Tao."
Translated from the
Chinese by Thomas
Merton
CHUANG TZU
Thế kỷ 3- 4 Trước Dương Lịch
Sư phụ của không-vướng bận,
những bậc Lão Gia Tầu ban cho chúng ta
trước hết một chỉ dẫn thực tiễn - một chỉ dẫn về Đạo, và đó là nghĩa
đen của từ
này, Đạo, tuy nó nghĩa hơn thế nhiều và vì
thế, không thể dịch được
Con
người sinh ra trong Đạo
Con cá sinh trong nước
Con người sinh trong Đạo
Nếu cá, sinh trong nước,
Tìm bóng sâu
Của ao hồ
Tất cả những gì cá cần
Như thế là được thỏa mãn
Nếu người, sinh trong Đạo,
Tìm bóng sâu
Trong không-hành động
Để quên gây hấn và quan tâm
Nó chẳng thiếu gì
Đời nó được bảo đảm
Bài học đạo đức: “Tất cả những
gì mà cá
cần
Là tuyệt tích giang hồ trong nước
Tất cả những gì người cần
Là tuyệt tích giang hồ
Trong Đạo".
Non-acting
is not the same as passivity. But energy alone is not everything, and
sometimes,
when we strive incessantly, we achieve an outcome just opposite to what
was
intended-we learn from the same Chuang Tzu,
THE NEED TO
WIN
When an
archer is shooting for nothing
He has all
his skill.
If he shoots
for a brass buckle
He is
already nervous.
If he shoots
for a prize of gold
He goes
blind
Or sees two
targets-
He is out of
his mind!
His skill
has not changed. But the prize
Divides him.
He cares.
He thinks
more of winning
Than of
shooting-
And the need
to win
Drains him
of power.
Translated from the
Chinese by Thomas
Merton
Không-hành động
thì không giống ù lì, thụ động. Nhưng sinh lực không thôi không phải là
tất cả,
và đôi khi, khi chúng ta cố đấm ăn sôi, chúng ta vớ được, cái đối ngược
hẳn với
cái mà chúng ta tính vớ!
Yêu cầu thắng
Khi 1 cung
thủ bắn chẳng vì cái gì
Hắn là cao
thủ
Nhưng nếu hắn
nhắm bắn cái khóa đồng
Thì hắn đã nóng
nảy.
Nếu hắn bắn,
nhằm giật được giải thưởng bằng vàng
Hắn trở nên
mù
Hay nhìn thấy
hai cái đích –
Hắn trở thành
khùng
Tài năng cao
thủ của hắn, vưỡn thế
Nhưng giải
thưởng làm hắn loạng quạng.
Hắn “care”
Hắn nghĩ đến
thắng
Hơn là bắn –
Và chính cái
yêu cầu thắng
Làm khô kiệt
sức mạnh của hắn.
JELALUDDIN
RUMI
1207-1273
Because the
question of good and evil has been tormenting us since the moment we
plucked a
fruit from the tree of knowledge, perhaps it's worthwhile to remind
ourselves
that there have been people who didn't take to heart that pair of
opposite notions.
For them, as for Jelaluddin Rumi, nonattachment meant simply that you
could lie
down in a meadow.
Out beyond
ideas of wrongdoing and rightdoing,
there is a field. I'll meet you there.
When the
soul lies down in that grass,
the world is
too full to talk about.
Ideas,
language, even the phrase each other
doesn't make
any sense.
Translated by Coleman
Barks and John
Mayne
Bởi vì vấn đề
thiện và ác làm phiền chúng ta, đúng ngay thời điểm chơi trái táo từ
cái cây
tri thức, nhưng có lẽ chúng ta cũng nên biết, có những kẻ
đếch thèm
để ý gì đến cú xung đột đẫm máu giữa thiện và ác. Với họ, trong có thi
sĩ Ru Mì
trên đây, không-vướng bận, đếch thèm dây với thiện và ác, giản dị có
nghĩa là,
bạn có thể nằm dài ra, trên 1 cánh đồng cỏ
Vượt ra ngoài
cuộc Hoa Sơn Luận Kiếm giữa thiện và ác
Có 1 cánh đồng
cỏ. Mình sẽ gặp… nữ thi sĩ ở đó nhe!
Khi linh hồn
nằm ườn ra trên bãi cỏ
Thế giới thì
tràn đầy, đếch cần lèm bèm gì nữa
Ý nghĩ, ngôn
ngữ, ngay cả câu này, đoạn nọ,
đếch có nghĩa
gì cả.
LI PO
701-762
Perhaps in
this Chinese poem there is something similar to the poem by Rumi.
Motionless
sitting and meditating on a landscape leads to the disappearance of our
separate
existence, so we become the mountain we contemplate.
THE BIRDS HAVE VANISHED
The birds
have vanished into the sky,
and now the
last cloud drains away.
We sit
together, the mountain and me,
until only
the mountain remains.
Translated from the
Chinese by Sam
Hamill
Có lẽ trong
bài thơ Tầu này, có gì xêm xêm với bài thơ của Ru Mì. Ngồi bất động
trầm tư về
phong cảnh dẫn tới sự biến mất của hiện hữu cách biệt, riêng lẻ của
chúng ta, và
thế là chúng ta biến thành trái núi mà chúng ta chiêm ngưỡng.
Chim biến mất
Chim biến mất
vào nền trời
Và bây giờ cụm
mây chót xa, cạn dần
Cả hai cùng
ngồi, núi và tôi
Cho đến lúc, núi còn.
Đặt
tay vô chỗ không thể đặt. MT
Bạn click vô chỗ không thể click, thì ra.... bài điểm sách:
Vagina: Một tiểu sử mới
|
|