Thơ
Mỗi Ngày
RAINER MARIA
RILKE
LEDA
Als ihn der
Gott in seiner Not betrat,
erschrak er
fast, den Schwan so schon zu finden;
er lieB sich
ganz verwirrt in ihm verschwinden.
Schon aber
trug ihn sein Betrug zur Tat,
bevor er
noch des unerprobten Seins
Gefuhle prufte.
Und die Aufgetane
erkannte
schon den Kommenden im Schwane
und wuBte
schon: er bat um Eins,
das sie,
verwirrt in ihrem Widerstand,
nicht mehr
verbergen konnte. Er kam nieder
und halsend
durch die immer schwachre Hand
lieB sich
der Gott in die Geliebte los.
Dann erst
empfand er glucklich sein Gefieder
und wurde
wirklich Schwan in ihrem SchooB.
LEDA
When the god
in his great need entered it,
he was
shocked almost to find the swan so beautiful;
he
disappeared inside it still surprised.
But his
deceit propelled him toward the deed
before the
senses of that untried life
could be
explored. And the unguarded woman
saw at once
who was coming in the swan
and knew too
well: he begged that thing of her
which she,
confused in her resistance,
no longer
could conceal. The god came down,
and, necking
through her ever softer hand,
released
himself into the one he loved.
Then
only-with what joy!-he felt his feathers,
and became
truly swan within her womb.
Translated
by Edward Snow
LEDA
When the
god, needing something, decided to become a
swan,
he was
astounded how lovely the bird was;
he was dizzy
as he disappeared into the swan.
But his deceiving
act soon pulled him into the doing,
before he
had a chance to test all the new feelings
inside the
being. And the woman, open to him,
recognized
the One Soon To Be Born
and she
knew: what he asked for
was
something which, confused in her defending, she
could no
longer keep from him. He pressed closer
and pushing
his neck through her less and less firm hand
let the god
loose into the darling woman.
Then for the
first time he found his feathers marvelous
and lying in
her soft place he became a swan.
Translated
by Robert Bly
LIMITS
Of all the
streets that blur into the sunset,
There must
be one (which, I am not sure)
That I by
now have walked for the last time
Without
guessing it, the pawn of that Someone
Who fixes in
advance omnipotent laws,
Sets up a
secret and unwavering scale
For all the
shadows, dreams, and forms
Woven into
the texture of this life.
If there is
a limit to all things and a measure
And a last
time and nothing more and forgetfulness,
Who will
tell us to whom in this house
We without
knowing it have said farewell?
Through the
dawning window night withdraws
And among
the stacked books which throw
Irregular
shadows on the dim table,
There must
be one which I will never read.
There is in
the South more than one worn gate,
With its
cement urns and planted cactus,
Which is
already forbidden to my entry,
Inaccessible,
as in a lithograph.
There is a
door you have closed forever
And some
mirror is expecting you in vain;
To you the
crossroads seem wide open,
Yet watching
you, four-faced, is a Janus.
There is
among all your memories one
Which has
now been lost beyond recall.
You will not
be seen going down to that fountain
Neither by
white sun nor by yellow moon.
You will
never recapture what the Persian
Said in his
language woven with birds and roses,
When, in the
sunset, before the light disperses,
You wish to
give words to unforgettable things.
And the
steadily flowing Rhone and the lake,
All that
vast yesterday over which today I bend?
They will be
as lost as Carthage,
Scourged by
the Romans with fire and salt.
At dawn I
seem to hear the turbulent
Murmur of
crowds milling and fading away;
They are all
I have been loved by, forgotten by;
Space, time,
and Borges now are leaving me.
[Alastair Reid]
J.L. Borges
Giới hạn
Trong tất cả
những con phố nhạt nhòa dần vào hoàng hôn
Phải có một
(tôi không chắc)
Vào lúc này
tôi đang bước lần cuối,
Không đoán
ra [mình là] con tốt của Ai Đó
Kẻ thiết đặt
trước những lề luật vô hạn
Sắp xếp một “gam”
bí mật, vững vàng
Cho tất cả
những cái bóng, những giấc mơ, và những hình thể
Dệt thành miếng
vải là cuộc đời này
Nếu có một
giới hạn cho tất cả những sự vật và một biện pháp
Và một lần
cuối và rồi chẳng còn gì nữa, và sự quên lãng
Ai sẽ nói cho chúng
ta về người nào, trong căn nhà này,
Làm sao chúng
ta biết, đã nói lời vĩnh biệt?
Thơ
Mỗi Ngày
The Lights
Are On Everywhere
The Emperor
must not be told night is coming.
His armies
are chasing shadows,
Arresting
whippoorwills and hermit thrushes
And setting
towns and villages on fire.
In the
capital, they go around confiscating
Clocks and
watches, burning heretics
And painting
the sunrise above the rooftops
So we can
wish each other good morning.
The rooster
brought in chains is crowing,
The flowers
in the garden have been forced to stay open,
And still
yet dark stains spread over the palace floors
Which no
amount of scrubbing will wipe away.
Charles
Simic: New and selected poems
Ánh sáng thì
ở mọi nơi
Sáu Dân, aka Víp Va Ka,
aka Hồ Tôn Hiến phải không được bẩm báo đêm đang tới
Những binh đoàn
của Người Vĩ Đại Học Lớp Một đang săn đuổi những cái bóng
Bắt giữ chim
đợp muỗi, chim hét ẩn dật
Đốt thành
phố và làng xóm
Ở Xề Gòn, chúng xục xạo
khắp nơi
Tịch thu đồng
hồ treo tường, đồng hồ đeo tay, đốt sách, thiêu dị giáo
Cho sơn mặt
trời mọc phía bên trên những mái nhà
Nhờ vậy chúng
ta có thể chào nhau, good morning.
Chú gà trống
bị xiềng, được đem tới, đang gáy
Bông trong vườn
hoa Tao Đàn bị ép, phải nở,
Tuy nhiên những
vết thâm xì, loang lổ trên sàn dinh Độc Lập
Thì đếch làm
sao kỳ cọ cho sạch, dù có đổ cả đống nước mắt
Ba mươi năm
mới có ngày hôm nay
Vui
sao nước
mắt lại trào!
MY SHOES
Shoes, secret face of my
inner life:
Two gaping toothless mouths,
Two partly decomposed animal skins
Smelling of mice nests.
My brother and sister who
died at birth
Continuing their existence in you,
Guiding my life
Toward their incomprehensible innocence.
What use are books to me
When in you it is possible to read
The Gospel of my life on earth
And still beyond, of things to come?
I want to proclaim the
religion
I have devised for your perfect humility
And the strange church I am building
With you as the altar.
Ascetic and maternal, you
endure:
Kin to oxen, to Saints, to
condemned men,
With your mute patience, forming
The only true likeness of myself.
Ðôi giầy của tôi
Giầy, bộ mặt bí mật của
cuộc đời bên trong của tôi :
Hai cái miệng không có răng, cách nhau một khoảng
Hai miếng da loài vật đã bị phân huỷ từng phần
Có mùi ổ chuột
Ông anh bà chị của tôi đã
chết ngay khi ra đời
Vẫn tiếp tục sự hiện hữu ở trong mi
Hướng dẫn cuộc đời của tôi
Về một sự ngây thơ trong sạch không làm sao hiểu được của họ
Sách thì dùng làm gì đối
với tôi?
Một khi mà, ở nơi mi, có thể đọc
Thánh Kinh của đời tôi ở trên mặt đất
Và, quá thế nữa, những điều chưa tới, chưa xẩy ra?
Tôi muốn tuyên bố một tôn
giáo
do tôi làm ra vì sự khiêm tốn tuyệt hảo của mi,
Và một ngôi nhà thờ lạ kỳ tôi đang xây cất
Với bạn, là bàn thờ
Khổ hạnh, và mẫu tử, bạn
như thế, đời đời
Bà con với dưỡng khi, với Thánh Thần, để kết án con người
với sự kiên nhẫn câm nín của bạn, tạo thành
cái thực giống độc nhất với cái tôi của tôi.
Stone
Go inside a
stone
That would
be my way.
Let somebody
else become a dove
Or gnash
with a tiger's tooth.
I am happy
to be a stone.
From the
outside the stone is a riddle:
No one knows
how to answer it.
Yet within,
it must be cool and quiet
Even though
a cow steps on it full weight,
Even though
a child throws it in a river;
The stone
sinks, slow, unperturbed
To the river
bottom
Where the
fishes come to knock on it
And listen.
I have seen
sparks fly out
When two
stones are rubbed,
So perhaps
it is not dark inside after all;
Perhaps
there is a moon shining
From
somewhere, as though behind a hill-
Just enough
light to make out
The strange
writings, the star charts
On the inner
walls.
Đá
Vô trong cục
đá
Đó là cách của
tôi
Để kẻ khác
trở thành bồ câu
Hay nghiến răng,
với răng hổ.
Tôi hạnh phúc,
là cục đá.
Từ bên ngoài, cục đá là 1
thai đố:
Đếch ai biết
làm sao giải ra
Tuy nhiên, ở
bên trong hẳn là mát mẻ và lặng lẽ
Ngay cả khi
con bò đè cả cái thân xác của nó lên
Ngay cả khi
một đứa bé quẳng nó xuống một con sông;
Cục đá chìm,
chầm chậm, không âu lo, xao xuyến
Tới đáy sông
Nơi mấy chú
cá bèn loay hoay làm quen
Gõ gõ lên nó,
Và lắng nghe.
Tôi đã nhìn
thấy những tia lửa loé ra
Khi hai cục đá
hôn nhau
Nếu thế, bên
trong cực đá chưa chắc đã tối thui;
Có thể có một
vừng trăng chiếu sáng
Từ đâu đó, như
thể đằng sau một con đồi –
Đủ ánh sáng để
làm ra những trang viết lạ, những biểu đồ của những vì sao
Trên những bức
tuờng ở bên trong
Charles
Simic
Thơ
Mỗi Ngày
Three brief
images-one Chippewa, one Turkish, and one West African-move the
focus of a man's attention from self to world.
Ba hình ảnh ngắn ngủi chuyển sự chú tâm của con người, từ nó tới thế
giới.
SOMETIMES I
GO ABOUT PITYING MYSELF
Sometimes I
go about pitying myself,
and all the
time
I am being
carried on great winds across the sky.
Chippewa
music
adapted from
the translation by Frances Densmore
Đôi khi Gấu
tự thương hại Gấu
Đôi khi Gấu
tự thương hại Gấu
Và suốt thời
gian đó thì
Gấu được những trận gió lớn chở đi tung tăng khắp thế gian!
UNITY
The horse's
mind
Blends
So swiftly
Into the
hay's mind
FAZIL HUSNU
DAGLARCA
translated
by Talat Sait Halman
Một mối
Tâm trí, thần
hồn chú ngựa
Thì bèn quấn
quýt với linh hồn cỏ khô
OLD SONG
Do not seek
too much fame,
but do not
seek obscurity.
Be proud.
But do not
remind the world of your deeds.
Excel when
you must,
but do not
excel the world.
Many heroes
are not yet born,
many have
already died.
To be alive
to hear this song is a victory.
Traditional,
West Africa
The Rag and the Bone Shop
of the
Heart
A Poetry
Anthology
Robert Bly,
James Hillman and Michael Meade editors
Một trang
Tin Văn cũ
Đừng tìm kiếm
danh vọng nhiều quá
Nhưng đừng tìm
kiếm sự tối tăm.
Hãy hãnh diện
Nhưng cũng đừng
nhắc nhở thế giới về những chiến công của bạn
Chơi trội,
OK, nếu bạn phải chơi trội.
Nhưng đừng
chơi trò nổi cộm với cả thế gian
Nhiều vị anh
hùng chưa sinh ra
Nhiều người đã
chết
Sống, và vô
1 trang TV cũ, đọc, thì đã là một chiến thắng khổng lồ rồi!
To Laziness
Only you
understood
How little
time we are given,
Not enough
to lift a finger.
The voices
on the stairs,
Thoughts too
quick to pursue,
What do they
all matter?
When
eternity beckons.
The heavy
curtains drawn,
The
newspapers unread.
The keys
collecting dust.
The flies
either sluggish or dead.
The bed like
a slow boat,
With its one
listless sail
Made of
cigarette smoke.
When I did
move at last,
The stores
were closed.
Was it
already Sunday?
The weddings
and funerals were over.
The one or
two white clouds left
Above the
dark rooftops,
Not sure
which way to go.
Charles
Simic
Gửi Đại Lãn
Chỉ mi hiểu,
Đôi ta còn tí
ti thì giờ
Chẳng đủ để
nhấc ngón tay
Tiếng nói ở
cầu thang
Ý nghĩ tư tưởng
bỏ chạy, quá nhanh
Làm sao truy
đuổi,
Nhưng để ý làm
chó gì tất cả những chuyện đó
Khi vĩnh cửu
vẫy tay gật đầu
Những bức màn
nặng buông xuống
Những tờ nhật
báo không đọc
Những chiếc
chìa khoá thu gom bụi
Những con ruồi,
hoặc lờ đờ, hoặc ngỏm
Cái giuờng
thì giống như cái thuyền lừ khừ
Với cánh buồm
thờ ơ
Làm bằng khói
thuốc lá
Sau cùng khi
Gấu bèn cố đi 1 đường cử động cái thân xác luời biếng của mình
Những cửa tiệm
đã đóng cửa
Chủ Nhật rồi
ư?
Cưới hỏi, ma
chay thì cũng đã xong
Một, hay hai
đám mây trắng còn lại
Trên mái nhà
tối thui
Đếch biết nhắm
hướng nào.
Thơ
Mỗi Ngày
SELF-PORTRAIT IN BED
For imaginary visitors, I
had a chair
Made of cane I found in the trash.
There was a hole where its seat was
And its legs were wobbly
But it still gave a dignified appearance.
I myself never sat in it,
though
With the help of a pillow one could do that
Carefully, with knees drawn together
The way she did once,
Leaning back to laugh at her discomfort.
The lamp on the night table
Did what it could to bestow
An air of mystery to the room.
There was a mirror, too, that made
Everything waver as in a fishbowl
If I happened to look that
way,
Red-nosed, about to sneeze,
With a thick wool cap pulled over my ears,
Reading some Russian in bed,
Worrying about my soul, I'm sure.
Charles Simic
[From My Noiseless
Entourage, 2005]
Chân Dung Tự Họa ở trên Giường
Với mấy đấng bạn quí,
tưởng tượng
Gấu có cái ghế mây
Lấy từ thùng rác
Có cái lỗ, đúng ngay chỗ để bàn tọa
Mấy cái chân ghế lung lay như răng bà lão
Tuy nhiên, nhìn cái ghế, vưỡn thấy có tí phẩm giá của riêng nó
Gấu, chính Gấu, chẳng hề
dám ngồi lên
Nhưng, với cái gối, thì chuyện ngồi có thể
Với tí cẩn trọng, tất nhiên
Hai đầu gối phải níu lấy nhau
Đúng là cách mà H/A đã từng, một lần
Em ngả đầu ra phía sau, cười
Che giấu sự mất thoải mái của mình
Cây đèn bàn ngủ
Làm cái điều phải làm
Nghĩa là
Ban cho căn phòng vẻ bí ẩn.
Một cái gương nữa chứ
Nó làm cho cảnh vật lung linh
Như trong chậu cá cảnh
Nếu nhìn
theo viễn ảnh như
thế đó
Mũi đỏ
lòm, thèm xụt xịt vài cú
Với cái
mũ len chùm kín cả tai
Gấu nằm
trên giường
Đọc Dos,
Lơ tơ mơ
về linh hồn của mình
Hẳn thế.
Car
Graveyard
This is
where all our joyrides ended:
Our fathers
at the wheel, our mothers
With picnic
baskets on their knees
As we sat in
the back with our mouths open.
We were
driving straight into the sunrise.
The country
was flat. A city rose before us,
Its windows
burning with the setting sun.
All that
vanished as we quit the highway
And rolled
down a dusky meadow
Strewn with
beer cans and candy wrappers,
Till we came
to a stop right here.
First the
radio preacher lost his voice,
Then our
four tires went flat.
The springs
popped out of the upholstery
Like a nest
of rattlesnakes
As we tried
to remain calm.
Later that
night we heard giggles
Out of a
junked hearse-then, not a peep
Till the day
of the Resurrection.
Charles
Simic: New and selected poems
Bãi tha ma
xe
Đó là nơi tất
cả những chuyến dong chơi bằng xe của chúng tôi chấm dứt
Ông via thì
ngồi ở tay lái
Bà via với cái
rỏ picnic trên đầu gối
Chúng tôi ngồi
ghế sau, miệng đứa nào cũng há thật to
Xe chúng tôi
chạy thẳng vô ánh mặt trời
Miền quê trải dài, mềm thõng.
Một thành phố dựng lên ở đằng
sau chúng tôi
Những cửa sổ đỏ rực trong mặt trời lặn
Tất cả biến mất khi xe chúng tôi rời xa lộ
Và chạy xuống một cánh đồng
Vỏ bia, giấy gói kẹo, vãi.
Sau cùng đậu ngay chỗ này
Đầu tiên là ông linh mục
mất mẹ nó cái giọng ở trong cái đài
Rồi tới bánh xe xẹp
Những cái lò xo bật ra khỏi nệm ghế, như ổ rắn
Trong khi chúng tôi cố gắng im lặng
Ban đêm, sau đó, chúng tôi nghe những tiếng cười rúc rích
Từ chiếc xe tang cũ nát - rồi thì, không một tiếng chít chít
Cho đến ngày Phục Sinh.
Note: Hai bài thơ, đã sửa.
Tks &
Sorry. NQT
Thơ
Mỗi Ngày
And Then I
Think
I'm just a
storefront dentist
Extracting a
blackened tooth at midnight.
I chewed on
many bitter truths, Doc,
My patient
says after he spits the blood out
Still
slumped over, gray-haired
And smelling
of carrion like me.
Of course, I
may be the only one here,
And this is
a mirror trick I'm performing.
Even the few
small crumpled bills
He leaves on
the way out, I don't believe in.
I may pluck
them with a pair of wet pincers
And count
them, and then I may not.
Charles
Simic: New and selected poems
Và rồi thì Gấu
suy tư
Gấu chỉ là 1
tên thợ nhổ răng ở 1 lề đường Xề Gòn
Nhổ 1 cái răng
đen thui vào lúc nửa đêm
“Tui nhai quá
nhiều sự thực cay đắng, thưa Ngài Tu Bíp”
Người bịnh nói,
sau khi khạc ra 1 đống máu
Thì cũng vưỡn
cái tay tóc xám ngồi xụ một đống
Và ngửi có mùi
xác chết, như…. Gấu
Lẽ dĩ nhiên,
làm đếch gì có bịnh nhân nào
Chỉ mình Gấu,
diễn trò, trước tấm gương
Ngay cả mớ
tiền lẻ ông ta để lại
Gấu cũng đếch
có tin
Gấu có thể lấy
cái kẹp khều khều
Và đếm
Và rồi, Gấu
có thể đếch làm như thế!
ROBERT HASS
Robert Hass,
like Jeffers, is a California poet. In this poem, an object (clay
figurine)
and a typical California landscape are given simultaneously.
Robert Hass,
như Jeffers, là một nhà thơ Cali. Trong bài thơ dưới đây, pho tượng vì
phu nhân, và phong cảnh Cali, thì cùng lúc, được trình ra, với độc giả
Tin
Văn.
Czeslaw
Milosz: The Book of Luminous Things
[Note: To U,
the figure of the lady, an California image, in this poem. GNV]
THE IMAGE
The child
brought blue clay from the creek
and the
woman made two figures: a lady and a deer.
At that
season deer came down from the mountain
and fed
quietly in the redwood canyons.
The woman and
the child regarded the figure of the lady,
the crude
roundnesses, the grace, the coloring like shadow.
They were
not sure where she came from,
except the
child's fetching and the woman's hands
and the
lead-blue clay of the creek
where the
deer sometimes showed themselves at sundown.
Ảnh Tượng
Đứa bé mang đất
sét màu xanh từ thung lũng về
Và người đàn
bà nặn thành hai bức tượng, một vị phu nhân và một con nai.
Vào mùa này,
nai thường từ núi xuống
Và kiếm ăn lặng
lẽ trong những hẻm núi với những cánh rừng màu đỏ
Người đàn bà
và đứa bé nhìn bức tượng của vị phu nhân
Cái gì gì, khuôn
trăng đầy đặn, một vầng trăng tròn thô thiển, ân sủng, màu như bóng…
Họ không chắc,
vì phu nhân tới từ đâu,
Ngoại trừ vẻ
say mê của đứa bé, và bàn tay của thiếu phụ
Và đất sét
xanh màu chì của thung lũng
Nơi nai cao, “gót lẩn trong mù hoàng hôn”.
Wooden
Church
It's just a
boarded-up shack with a steeple
Under the
blazing summer sky
On a back
road seldom traveled
Where the
shadows of tall trees
Graze
peacefully like a row of gallows,
And crows
with no carrion in sight
Caw to
each
other of better days.
The
congregation may still be at prayer.
Farm folk
from flyspecked photos
Standing in
rows with their heads bowed
As if
listening to your approaching steps.
So slow they
are, they must be asking themselves
How come we
are here one minute
And in the
very next gone forever?
Try the
locked door, then knock once.
The crows
will stay out of sight.
High above
you, there is the leaning spire
Still
feeling the blow of the last storm.
And then the
silence of the afternoon ...
Even the
unbeliever must feel its force.
Nhà thờ gỗ
Chỉ là một
cái lều bịt ván với một cái gác chuông
Dưới bầu trời
mùa hè, nắng chói chang
Trên con lộ
đằng sau ít người lai vãng
Nơi những
cái bóng của lũ cây cao
Sướt sượt
vào nhau, hiền hòa, như một giẫy giá treo cổ
Và lũ quạ,
do chẳng nhìn thấy 1 cái xác chết thối rữa
Bèn quạc quạc,
hẹn nhau những ngày tươi đẹp hơn
Giáo đoàn hẳn
là ở chỗ cầu nguyện
Giáo dân
từ
những bức hình nhỏ xíu
Đứng
thành
hàng, cúi đầu
Như lắng
nghe bước chân của bạn tới gần,
Chậm chạp
làm sao, họ hẳn phải hỏi lẫn nhau
Làm thế
nào
phút này, chúng ta ở đây
Và chưa
đầy
phút sau, thì đã thiên thu vĩnh biệt?
Thử lắc lắc
cái cửa đóng, và một lần, thử gõ.
Lũ quạ thì
vưỡn ngoài tầm nhìn.
Cao tít trên
đầu bạn, là sợi dây thu lôi
Vưỡn nghe mùi sét đánh, của trận bão chót
Và rồi thì
là cái im ắng của buổi xế trưa
Thiếu tiếng
gáy điếng hồn của 1 chú gà trống…
Ngay kẻ
vô đạo phải cảm thấy sức mạnh của nó!
Thơ
Mỗi Ngày
Friday,
August 15, 2014 9:52 AM
Kính thăm và
kính chúc sức khoẻ nhà văn.
Tình cờ, đọc
mấy bài thơ của JB, thấy mình dịch thầm trong đầu, giống giọng Ông quá,
bèn, gửi
lời kính thăm Ông để cảm ơn cái "ảnh
hưởng tốt » của TV.
NTP
Tks
Take Care
NQT
Car
Graveyard
This is
where all our joyrides ended:
Our fathers
at the wheel, our mothers
With picnic
baskets on their knees
As we sat in
the back with our mouths open.
We were
driving straight into the sunrise.
The country
was flat. A city rose before us,
Its windows
burning with the setting sun.
All that
vanished as we quit the highway
And rolled
down a dusky meadow
Strewn with
beer cans and candy wrappers,
Till we came
to a stop right here.
First the
radio preacher lost his voice,
Then our
four tires went flat.
The springs
popped out of the upholstery
Like a nest
of rattlesnakes
As we tried
to remain calm.
Later that
night we heard giggles
Out of a
junked hearse-then, not a peep
Till the day
of the Resurrection.
Charles
Simic: New and selected poems
Bãi tha ma
xe
Đó là nơi tất
cả những chuyến dong chơi bằng xe của chúng tôi chấm dứt
Ông via thì
ngồi ở tay lái
Bà via với cái
rỏ picnic trên đầu gối
Chúng tôi ngồi
ghế sau, miệng đứa nào cũng há thật to
Xe chúng tôi
chạy thẳng vô ánh mặt trời
Miền quê trải dài, mềm thõng.
Một thành phố dựng lên ở đằng
sau chúng tôi
Những cửa sổ đỏ rực trong mặt trời lặn
Tất cả biến mất khi xe chúng tôi rời xa lộ
Và chạy xuống một cánh đồng
Vỏ bia, giấy gói kẹo, vãi.
Sau cùng đậu ngay chỗ này
Đầu tiên là ông linh mục
mất mẹ nó cái giọng ở trong cái đài
Rồi tới bánh xe xẹp
Những cái lò xo bật ra khỏi nệm ghế, như ổ rắn
Trong khi chúng tôi cố gắng im lặng
Ban đêm, sau đó, chúng tôi nghe những tiếng cười rúc rích
Từ chiếc xe tang cũ nát - rồi thì, không một tiếng chít chít
Cho đến ngày Phục Sinh.
W. S. MERWIN
1927-
The
following poem inspires us to reflect on what seldom crosses our minds.
After
all (literally after all), such an anniversary awaits every one of us.
Bài thơ sau đây
gợi hứng
cho chúng ta, về cái
điều hiếm chạy qua đầu chúng ta.
Nói cho cùng, "kỷ niệm
ngày tôi chết"
đâu bỏ quên, bất cứ ai?
Czeslaw Milosz
FOR THE
ANNIVERSARY OF MY DEATH
Every year
without knowing it I have passed the day
When the last fires will wave to me
And the silence will set out
Tireless traveler
Like the beam of a lightless star
Then I will no longer
Find myself in life as in a strange garment
Surprised at the earth
And the love of one woman
And the shamelessness of men
As today writing after three days of rain
Hearing the wren sing and the falling cease
And bowing not knowing to what
Kỷ niệm Cái
Chết của tớ
Năm nào cũng
vậy, đếch biết 1 tí gì hết về nó, tớ trải qua cái ngày
Khi những
ngọn lửa cuối cùng sẽ vẫy vẫy tớ
Và im lặng
sẽ thả ra
Kẻ lữ hành
không mệt mỏi
Như ánh sao không còn sao ánh
Rồi thì tớ
không còn thấy mình ở trong đời, như là 1 cái bọc lạ lùng
Ngạc nhiên
với trái đất
Và tình yêu
của một người đàn bà
Và sự đếch
biết xấu hổ của đàn ông
Như hôm
nay ngồi viết sau ba ngày mưa
Nghe chim
hồng tước hót và tiếng rơi ngưng
Và cúi đầu
không hiểu cúi đầu về cái gì
Note:
Mấy bài thơ, quái làm sao, là đều nhắn nhủ gì GCC, trong khi chờ SN!
Cả cái message của Hải Âu nữa chớ:
We miss GCC!
Đùa
cho dzui, Em nhắn Gấu, qua Quận Cam gặp Em & Bạn đi.
Sure,
@ this end of this year!
Take
Care
GNV
The Massacre
of the Innocents
The poets of
the Late Tang Dynasty
Could do nothing about it except to write:
"On the western hills the sun sets ...
Horses blown by the whirlwind tread the
clouds."
I could not
help myself either. I felt joy
Even at the sight of a crow circling over me
As I stretched out on the grass
Alone now with the silence of the sky.
Only the
wind making a slight rustle
As it turned the pages of the book by my side,
Back and forth, searching for something
For that bloody crow to read.
Charles
Simic: A Wedding in Hell
Cuộc tàn sát
những kẻ vô tội
Những nhà
thơ Hậu Đường
Đâu có làm
gì được, ngoài cái việc đi 1 đường Facebook, sau đây:
"Ở những
ngọn đồi phía Tây, mặt trời lặn…
Những con ngựa
bị gió thổi, dẫm lên những đám mây."
Tớ cũng đếch
làm gì được ở đây
Nhưng quái làm sao, tớ thấy vui
Ngay cả khi trên đầu tớ,
Một chú quạ
bay vòng vòng.
Trong lúc tớ thả mình xuống lớp cỏ,
Một mình với
cái im lặng của bầu trời
Chỉ có gió, rì rào nhè nhẹ
Lật những
trang của cuốn sách ở bên tớ
Lật tới lật
lui, như kiếm cái con khỉ gì
Cho con quạ
máu me, đọc.
SELF-PORTRAIT IN BED
For imaginary visitors, I
had a chair
Made of cane I found in the trash.
There was a hole where its seat was
And its legs were wobbly
But it still gave a dignified appearance.
I myself never sat in it,
though
With the help of a pillow one could do that
Carefully, with knees drawn together
The way she did once,
Leaning back to laugh at her discomfort.
The lamp on the night table
Did what it could to bestow
An air of mystery to the room.
There was a mirror, too, that made
Everything waver as in a fishbowl
If I happened to look that
way,
Red-nosed, about to sneeze,
With a thick wool cap pulled over my ears,
Reading some Russian in bed,
Worrying about my soul, I'm sure.
Charles Simic
[From My Noiseless
Entourage, 2005]
Chân Dung Tự Họa ở trên Giường
Với mấy đấng bạn quí,
tưởng tượng
Gấu có cái ghế mây
Lấy từ thùng rác
Có cái lỗ, đúng ngay chỗ để bàn tọa
Mấy cái chân ghế lung lay như răng bà lão
Tuy nhiên, nhìn cái ghế, vưỡn thấy có tí phẩm giá của riêng nó
Gấu, chính Gấu, chẳng hề
dám ngồi lên
Nhưng, với cái gối, thì chuyện ngồi có thể
Với tí cẩn trọng, tất nhiên
Hai đầu gối phải níu lấy nhau
Đúng là cách mà H/A đã từng, một lần
Em ngả đầu ra phía sau, cười
Che giấu sự mất thoải mái của mình
Cây đèn bàn ngủ
Làm cái điều phải làm
Nghĩa là
Ban cho căn phòng vẻ bí ẩn.
Một cái gương nữa chứ
Nó làm cho cảnh vật lung linh
Như trong chậu cá cảnh
Nếu nhìn theo viễn ảnh như
thế đó
Mũi đỏ
lòm, thèm xụt xịt vài cú
Với cái
mũ len chùm kín cả tai
Gấu nằm
trên giường
Đọc Dos,
Lơ tơ mơ
về linh hồn của mình
Hẳn thế.
Thơ
Mỗi Ngày
THE BLACK
SHIP
In his dream
Cifar heard the shouts
and the
conch hooting in the fog
at dawn. He
looked at the ship
motionless
not rocking
among the waves.
-If you hear
in the dark
core
of the night
when the sea
is high
shouts
asking
the way to
the harbor
come about
hard
and get out
of there.
Silhouetted
on the spray
hull dark
and rotted away
(Sailor!
they shouted)
the rigging
in tatters
swinging and
the sails
black and in
rags
(Sailor!)
Cifar stood
up and clung to the mast.
-If the moon
shines on
their faces
with the
long beards
if they say
to you
-Sailor,
where are we headed.
If they beg
you:
-Sailor,
show me
the way to
the harbor!
come about
hard
and get out
of there.
A long
time
they have been sailing.
Centuries
they have been voyaging in the dream.
They are
your own questions
lost in
time.
1980s, preceding
poems are from
Cantos de
Cifar
[Translated
by W.S. Merwin]
Con tàu đen
Trong cơn mơ
Cifar nghe những tiếng la hét
Và tiếng tù
và nơi vùng sương mù
Vào lúc bình
minh
Anh nhìn con
tầu
chết sững giữa những con sóng
-Nếu mi nghe
Từ cõi sâu tối
của đêm đen
Nơi biển cao
Những tiếng
la hét yêu cầu chỉ đường về bến cảng
Hãy cố mà
thoát ra khỏi nơi đó
Bóng rọi trên
bụi nước
Một khối, tối,
mục, rữa
[Thuỷ thủ,
chúng la thét]
Buồm cột tơi
tả
(Thuỷ thủ!)
Cifar đứng lên
và bám vào cột buồm
-Nếu mặt trăng
chiếu trên mặt họ
Râu tóc dài
thòng
Nếu họ nói với
mi:
-Thủy thủ,
chúng ta đang hướng về nơi nào
Nếu họ năn nỉ
mi:
Thuỷ thủ, chỉ
cho chúng ta
Đường về cảng
Hãy cố ra khỏi
nơi đó
Họ dong buồm
từ bao giờ, từ rất lâu
Hàng hàng thế
kỷ họ dong buồm phiêu lưu trong giấc mơ
Họ là những
câu hỏi của chính mi
Mất theo dòng
thời gian
For the Very Soul of Me
At the close of a
sweltering night,
I found him at the entrance
Of a bank building made of blue glass,
Crumpled on his side, naked,
Shielding his crotch with both hands,
The missing one, missed by
no one,
As all the truly destitute are,
His rags rolled up into a pillow,
His mouth open as if he were dead,
Or recalling some debauchery.
Insomnia and the heat
drove me out early,
Made me turn down one street
Instead of another and saw him
Stretched there, crusted with dirt,
His feet bruised and swollen.
The lone yellow cab idled
at the light
With windows down, the sleepy driver
Threw him a glance, shook his head
And drove down the deserted avenue
The rising sun had made beautiful.
Charles Simic [from Night
Pinic]
Cho linh hồn rất linh hồn của GCC
Vào một đêm ngột ngạt, cận
sáng
Gấu kiếm thấy nó ở lối vô
Một tòa nhà ngân hàng làm bằng kiếng màu xanh
Méo mó, trần truồng
Hai tay che cái chạc
Kẻ thiếu nhớ chẳng ai thèm
thiếu nhớ
Như mọi điều đáng thiếu nhớ
Mớ rẻ rách quần áo, xoắn lại làm cái gối
Miệng toác hoác như chết rồi
Hay nhớ lại một sa đọa, trụy lạc nào đó
Mất ngủ và cái nóng khiến
Gấu mò ra đường sớm
Thay vì chọn con phố này, thì con phố kia
Và thế là, Gấu nhìn thấy nó, cái rất linh hồn tội nghiệp của Gấu Cà Chớn
Nằm 1 đống, bụi đường nghẹt họng
Chân thâm tím, sưng phồng
Cái tắc xi màu vàng, đơn
độc, ngồi rồi, dưới ánh đèn
Cửa kính kéo xuống, anh tài xế buồn ngủ
Ném 1 cái nhìn, lắc 1 cái đầu
Rồi chạy xuống con phố hoang
Mặt trời lên, con phố mới đẹp làm sao.
Thơ
Mỗi Ngày
Niu His Chi
Chinese
8th
century
Where the
mist has torn
The hills
are the colors of spring
The sky is
whitening
Not many
stars are left
The fragment
of moon is going out
But your
face in the early light
Glitters
Now we must
separate
After all
the words
Nothing is
eased
Turn your
head I have something to add
You will
remember
My skirt of
green silk woven loosely
The new
grass will remind you of it everywhere
1966
Translated by
W.S. Merwin
Nơi sương mù tan
Những ngọn đồi có màu sắc của mùa xuân
Trời trắng dần
Không nhiều những ngôi sao rời bỏ
Một mẩu trăng ló ra
Nhưng khuôn mặt của anh trong ánh sáng sớm
Sáng rỡ
Lúc này đôi ta phải giã từ
Sau tất cả những lời
Chẳng gì dễ
Anh hãy nghiêng mái đầu để em có điều này thêm vô
Anh sẽ nhớ
Tà áo lụa mùa xanh của em trải ra
Cỏ
non sẽ nhắc nhở anh, cái tà áo lụa của em,
Nhắc nhở mãi nó, ở mãi nơi nơi.
Liu Che
Chinese
140-87 B.C.
Oh the sound
of her silk sleeves
no longer
oh the dust
deepening
in the jade
courtyard
the vacant
room cold
abandoned
the doors
double-barred
and their bars
littered
with fallen leaves
oh if anyone
looks now
for the
beauty
of that
woman where can it be found
I feel my
heart
to which
rest will not come
1967
Translated by
W.S. Merwin
Ui, tiếng lụa
tà áo em
Không còn nữa
Ôi
Bụi, thẳm sâu
Trong cái bình
Nơi sân nhà
Căn phòng trống,
lạnh
Bỏ hoang
Cửa
Cài then hai
lần
Lấp vùi lá rụng
Ui, giả như
có ai đó tìm nhan sắc
Tìm nơi đâu
Tôi cảm thấy
sự bình yên
Sẽ chẳng bao
giờ tìm đến với trái tim của mình.
Adam Cast
Forth
The
Garden-was it real or was it dream?
Slow in the
hazy light, I have been asking,
Almost as a
comfort, if the past
Belonging to
this now unhappy Adam
Was nothing
but a magic fantasy
Of that God
I dreamed. Now it is imprecise
In memory,
that lucid paradise,
But I know
it exists and will persist
Though not
for me. The unforgiving earth
Is my
affliction, and the incestuous wars
Of Cains and
Abels and their progeny.
Nevertheless,
it means much to have loved,
To have been
happy, to have laid my hand on
The living
Garden, even for one day.
-A.R.
J.L. Borges:
Selected Poems, Penguin ed
Was there a
Garden, or was that a dream?
Dazed in hazy light, I asked,
almost for comfort, if this was
the past
that Adam, now cursed, had once
redeemed?
It was not a
magic hoax or con
of some god I dreamed. It was the imprecise
memory of a certain Paradise,
one that lives and, I know,
will live on …
… but not
for me. This stubborn life
is my punishment for the inbred
strife
of Cains and Abels and all in
their sway.
And yet, to
be loved is something much,
to have been happy, and to have
touched
the living Garden, if only for
a day.
– Jorge Luis
Borges
Translated
from Spanish by Paul Weinfield, © 2013
Gấu lẩn thẩn chờ SN
Khu Vườn ư? Là thật, hay là ảo?
Ngất ngư trong ánh sáng nhạt nhòa,
Hầu như hài lòng
Gấu đi 1 đường tra hỏi.
Nếu đó là quá khứ, Gấu, bây giờ bị trù eỏ,
của một ngày xưa
Khi còn là 1 thằng bé nhà quê, Bắc Kít,
Đã từng cứu chuộc?
Đếch phải cái giả thần kỳ, cà chớn
Của một Ông Giời mà Gấu đã từng mơ tưởng
Chỉ là hồi ức, chẳng chắc chắn, về một Thiên Đàng nào đó
Một thiên đàng hiện hữu, và Gấu biết, sẽ tiếp tục hiện hữu
Nhưng đếch phải cho Gấu.
Cái cuộc đời ương bướng
này là hình phạt
Cho cái tội
ác thằng
anh Bắc Kít làm thịt thằng em Nam Kít
Cũng OK thôi, Gấu đang đợi, đếch cần Xin
Lỗi, nhờ anh tí!
Tuy
nhiên, được “Em” yêu là 1 điều gì hơn thế nhiều
Được hạnh phúc,
Được sờ vô em, nghĩa là,
Được sống trong Khu Vườn
Dù chỉ 1 ngày!
SEND ME A
LEAF
Send me a
leaf, but from a little tree
That grows
no nearer your house
Than half an
hour away. For then
You will
have to walk, you will get strong and I
Shall thank
you for the pretty leaf
- Bertolt
Brecht
(Translated
from the German, by David Constantine.)
The New
Yorker, August 11 & 18, 2014
Gửi anh một
cái lá
Gửi cho anh
một cái lá, nhưng từ cái cây nhỏ
Mọc không gần
nhà em
Cách cỡ chừng
nửa giờ đường
Và như vậy,
em sẽ phải đi một đường tản bộ
Em sẽ trở nên
mạnh mẽ hơn
Và anh sẽ cám
ơn em
Đã dành cho anh cái lá xinh đẹp đó
Hà, hà!
Saul
Friedlander
[Kafka]:
Le
poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự
tủi hổ và phạm tội
Kafka n'était
pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait
des métaphores
et des associations inattendues, il racontait
des histoires, il était
poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles
soient
directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur,
mais ces
allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas
une foi
religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.
Mưa
Mưa rào. Giữa hai cửa sổ
Một con ruồi đập cánh hàng giờ đồng hồ
Trời nặng như mùa thu,
Trong căn phòng không làm sao thở được
Tôi thương Kafka
Ông chẳng bao giờ có dù
Ngồi trên giường áo khoác ướt đẫm
Mân mê chiếc mũ, ông nói:
Bữa nay Prague mới âm u làm sao
FORGETTING
CLOUDS
The quiet
morning has a few cloud friends
that are
gone when I look for them again
in this one
summer to which I have come
after
everything that I remember
what can I
call it before it has gone
it does not
hear me and does not know me
it passes
without seeing I am here
it is only
me going my own way
there is no
one else who can forget it
-W. S.
Merwin
The New
Yorker, April, 21, 2014
Quên Mây
Buổi sáng yên
tĩnh có vài cụm mây bạn
Khi Gấu nhìn
lại thì họ đi rồi
Trong một mùa
hè mà Gấu tới
Sau khi mọi
thứ mà Gấu nhớ
Điều Gấu gọi
trước khi bỏ đi
Không nghe Gấu
gọi mà cũng chẳng biết Gấu
Đi, chẳng thèm
biết Gấu đang ở đây
Vậy là chỉ có
nhõn một mình Gấu trên con đường của riêng Gấu
Chẳng có ai
khác nữa có thể quên nó
RUTH
In memory of Ruth
Buczynska
She survived
the war in Tarnopol. In darkness and semi-darkness. In fear.
She was
afraid of rats and heavy boots, loud conversations, screams.
She died
just now, in darkness, in a hospital ward's white quiet.
She was a
Jew. Sometimes she didn't know what it meant.
. It's
simple and incomprehensible, like algebra.
At times she
tried to work it through. The Gestapo knew exactly what it meant
to be a Jew.
The great philosophical tradition helped,
definitions
sharp as knives, direct as a Buddhist arrow.
She was
beautiful. She should have died then, like the other men and women,
vanished
without a trace, gone without elegies, like so many others,
like the
air, but she lived a long time, in daylight, in the sun,
in the daily
air, the oxygen of ordinary Krakow.
Sometimes
she couldn't understand what beauty meant.
The mirror
kept still, it didn't know the philosophical definitions.
She didn't
forget those other times, but rarely
spoke of
them. Once only she told this story:
her beloved
cat wouldn't stay put in the ghetto, twice
it slipped
back to the Aryan side at night. Her cat
didn't know
who Jews were, what the Aryan side meant.
It didn't
know, so it shot to the other side like an arrow.
Ruth was a
lawyer and defended others. Maybe that was why she lived so long.
Because
there are so many others, and they need defending.
Prosecutors
multiply like flies, but the defenders are few.
She was a
good person. She had a soul. We know what it means.
-Adam
Zagajewski
(Translated
from the Polish by Clare Cavanagh)
Ruth
Tưởng
niệm Ruth Buczynska
Bà sống sót
cuộc chiến ở Tarnopol.
Trong
bóng tối và chập choạng tối. Trong sợ hãi.
Bà sợ chuột,
tiếng giày đinh, chuyện lớn tiếng, la thét.
Bà mới chết đây,
trong bóng tối, trong cái yên tịnh màu trắng của một bịnh viện
Bà là một người
Do Thái. Đôi khi bà không hiểu điều đó nghĩa là gì.
Nó giản
dị, và không thể hiểu được, như môn đại số
Đôi khi, bà cố giải cho ra. Gestapo hiểu rất rõ Do Thái nghĩa là
gì.
Truyền
thống triết học lớn giúp, những định nghĩa sắc như dao, thẳng một lèo
như
mũi tên
Phật Giáo.
Bà thì đẹp.
Bà đúng ra thì đã chết rồi, khi đó, như những người đàn ông và đàn bà
khác,
Biến
mất không để lại dấu vết, không bi khúc, như rất nhiều người khác, như
không khí,
Nhưng bà sống một cuộc đời dài, trong ánh sáng ban ngày, trong ánh sáng
mặt trời,
trong không khí hàng ngày, mỗi ngày, mọi ngày,
Trong khí trời của một
thành phố
Krakow bình thường.
Đôi khi bà
không thể hiểu cái đẹp nghĩa là gì
Gương im, giữ
như cũ, nó không hiểu những định nghĩa triết học
Bà không quên
những thời kỳ khác đó, nhưng hiếm khi nhắc lại.
Chỉ có mỗi một lần, bà
kể câu
chuyện này:
Con
mèo thân thương của
bà không chịu ở trong ghetto,
Hai lần, nó chuồn trở về lại khu Aryan
vào ban đêm.
Con mèo không hiểu những người Do Thái là những người nào, và Aryan
nghĩa là gì.
VIA DEL
TRITONE
In Rome, on
the street of that name,
I was walking alone in the sun
In the noonday heat, when I saw
a house
With shutters closed, the sight
of which
Pained me so much, I could have
Been born there and left
inconsolably.
The ochre
walls, the battered old door
I was tempted to push open and
didn't,
Knowing already the coolness of
the entrance,
The garden with a palm tree
beyond,
And the dark stairs on the left.
Shutters
closed to cool shadowy rooms
With impossibly high ceilings,
And here and there a watery
mirror
And my pale and contorted face
To greet me and startle me
again and again.
"You
found what you were looking for,"
I expected someone to whisper.
But there was no one, neither
there
Nor in the street, which was
deserted
In that monstrous heat that
gives birth
To false memories and tritons.
Charles
Simic
VIA DEL
TRITONE
Ở Rome, trên
con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một mình trong ánh
mặt trời
Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy
một căn nhà
Những tấm màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát, là tôi cảm thấy
quặn đau thốn dế
Mình có thể
sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.
Tường màu gạch
son, cửa cũ, rệu rạo
Tôi tính đẩy cửa, nhưng không
làm
Biết rõ cái lạnh lẽo sau cánh
cửa, lối dẫn vào
căn nhà,
Căn vườn với 1 cây sồi quá nó,
Và những cầu thang u tối ở phía
trái.
Rèm cửa đóng
dẫn tới những căn phòng lờ mờ
Trần hơi bị
thật là cao
Và đâu đó, là một cái gương
long lanh nước
Và khuôn mặt của tôi nhợt nhạt,
méo mó
Ðón chào tôi, và làm tôi giật
mình hoài
"Mi kiếm
ra cái mà mi tính kiếm?"
Tôi uớc ao có ai đó thì thào
Nhưng làm đếch gì có một ai
Ðếch có ai, cả ở trên con phố
hoang vắng
Vào cái giờ nóng khùng điên
Làm đẻ ra những hồi ức dởm
Và những con quái vật nửa người
nửa cá
One poem is
unlike any I've ever read-if it had appeared in the lineup, I might not
have
recognized it as Simic's. "Via Del Tritone" juxtaposes no surreal
images. It begins simply:
In Rome, on
the street of that name,
I was walking alone in the sun
In the noonday heat, when I saw
a house
With shutters closed, the sight
of which
Pained me so much, I could have
Been born there and left
inconsolably.
Simic goes
on to describe the interior, as he imagines it, a garden with a palm
tree, dark
stairs leading to cool rooms with high ceilings. "'You found what you
were
looking for,' / I expected someone to whisper." Never, in his previous
work, has Simic expressed the pain of his exile in such a
straightforward way.
His outsider's status was always an advantage, teaching him that life
was
unpredictable and that anything might happen, as the antic careening of
his
poetry suggests. In this poem his pain and loss blossom like the most
fragile
of tea roses. He hasn't found what he was looking for. How can you
reclaim a
childhood that never was? Simic, unlike Nabokov, has no Eden to recall.
His are
"false memories," phantasms of heat. And as the war rages on in the
place where his childhood should have been, salvage becomes less
possible. The
poet's cries flutter up from the page: "Help me to find what I've lost,
/
If it was ever, however briefly, mine."
Lisa Sack: Charles the Great:
Charles Simic’s A Wedding in Hell
Bài thơ này
thật khác với những bài thơ của Simic. Không có sự trộn lẫn những hình
ảnh siêu
thực.
Via Del Tritone mở ra, thật giản dị:
Ở Rome, trên
con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một mình trong ánh
mặt trời
Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy
một căn nhà
Những tấm màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát, là tôi cảm thấy
quặn đau thốn dế
Mình có thể
sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.
Sau đó, tác
giả tiếp tục tả bên trong căn nhà, như ông tưởng tượng ra…Chưa bao giờ,
trong
những tác phẩm trước đó, Simic diễn tả nỗi đau lưu vong một cách thẳng
thừng
như ở đây. Cái vị thế kẻ ở ngoài lề luôn luôn là lợi thế, nó dạy ông
rằng đời
thì không thể tiên liệu trước được và chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Ở
đây, nỗi
đau, sự mất mát của ông nở rộ như những cánh trà hồng mảnh mai nhất.
Ông làm
sao kiếm thấy cái mà ông kiếm, một tuổi thơ chẳng hề có? Simic, không
như
Nabokov, chẳng hề có Thiên Ðàng để mà hồi nhớ. Chỉ là hồi nhớ dởm, do
cái nóng
khùng điên tạo ra. Và chiến tranh tàn khốc xẩy ra ở cái nơi đáng lý ra
tuổi thơ
xẩy ra, làm sao có cứu rỗi? Và tiếng la thét của nhà thơ vọng lên từ
trang giấy:
Hãy
giúp tôi tìm cái mà tôi đã mất/Cho dù nhỏ
nhoi, cho dù chốc lát, cái tí ti đã từng là của tôi.
Đây có lẽ là
bài thơ tuyệt vời nhất của Simic, với GCC. Không còn tí siêu thực, mà
cái đau lưu
vong mới ghê gớm làm sao.
Mi đừng đụng tới nó, không là nó biến mi thành lưu
vong, là bỏ mẹ mi, như 1 lần ông cảnh cáo mưa gió Mẽo!
Wind
Touching me,
you touch
The country that has exiled you.
Gió
Mi sờ vô ta
Là mi sờ vô cái xứ sở đã biếm mi, đày mi,
Làm ngọn gió lưu vong
Charles
Simic