*



  Thơ Mỗi Ngày

RAINER MARIA RILKE

LEDA

Als ihn der Gott in seiner Not betrat,
erschrak er fast, den Schwan so schon zu finden;
er lieB sich ganz verwirrt in ihm verschwinden.
Schon aber trug ihn sein Betrug zur Tat,

bevor er noch des unerprobten Seins
Gefuhle prufte. Und die Aufgetane
erkannte schon den Kommenden im Schwane
und wuBte schon: er bat um Eins,

das sie, verwirrt in ihrem Widerstand,
nicht mehr verbergen konnte. Er kam nieder
und halsend durch die immer schwachre Hand

lieB sich der Gott in die Geliebte los.
Dann erst empfand er glucklich sein Gefieder
und wurde wirklich Schwan in ihrem SchooB.

LEDA

When the god in his great need entered it,
he was shocked almost to find the swan so beautiful;
he disappeared inside it still surprised.
But his deceit propelled him toward the deed

before the senses of that untried life
could be explored. And the unguarded woman
saw at once who was coming in the swan
and knew too well: he begged that thing of her

which she, confused in her resistance,
no longer could conceal. The god came down,
and, necking through her ever softer hand,

released himself into the one he loved.
Then only-with what joy!-he felt his feathers,
and became truly swan within her womb.

Translated by Edward Snow

LEDA

When the god, needing something, decided to become a
swan,
he was astounded how lovely the bird was;
he was dizzy as he disappeared into the swan.
But his deceiving act soon pulled him into the doing,

before he had a chance to test all the new feelings
inside the being. And the woman, open to him,
recognized the One Soon To Be Born
and she knew: what he asked for

was something which, confused in her defending, she
could no longer keep from him. He pressed closer
and pushing his neck through her less and less firm hand

let the god loose into the darling woman.
Then for the first time he found his feathers marvelous
and lying in her soft place he became a swan.

Translated by Robert Bly

LIMITS

Of all the streets that blur into the sunset,
There must be one (which, I am not sure)
That I by now have walked for the last time
Without guessing it, the pawn of that Someone

Who fixes in advance omnipotent laws,
Sets up a secret and unwavering scale
For all the shadows, dreams, and forms
Woven into the texture of this life.

If there is a limit to all things and a measure
And a last time and nothing more and forgetfulness,
Who will tell us to whom in this house
We without knowing it have said farewell?

Through the dawning window night withdraws
And among the stacked books which throw
Irregular shadows on the dim table,
There must be one which I will never read.

There is in the South more than one worn gate,
With its cement urns and planted cactus,
Which is already forbidden to my entry,
Inaccessible, as in a lithograph.

There is a door you have closed forever
And some mirror is expecting you in vain;
To you the crossroads seem wide open,
Yet watching you, four-faced, is a Janus.

There is among all your memories one
Which has now been lost beyond recall.
You will not be seen going down to that fountain
Neither by white sun nor by yellow moon.

You will never recapture what the Persian
Said in his language woven with birds and roses,
When, in the sunset, before the light disperses,
You wish to give words to unforgettable things.

And the steadily flowing Rhone and the lake,
All that vast yesterday over which today I bend?
They will be as lost as Carthage,
Scourged by the Romans with fire and salt.

At dawn I seem to hear the turbulent
Murmur of crowds milling and fading away;
They are all I have been loved by, forgotten by;
Space, time, and Borges now are leaving me.

[Alastair Reid]

J.L. Borges

Giới hạn

 

Trong tất cả những con phố nhạt nhòa dần vào hoàng hôn
Phải có một (tôi không chắc)
Vào lúc này tôi đang bước lần cuối,
Không đoán ra [mình là] con tốt của Ai Đó 

Kẻ thiết đặt trước những lề luật vô hạn
Sắp xếp một “gam” bí mật, vững vàng
Cho tất cả những cái bóng, những giấc mơ, và những hình thể
Dệt thành miếng vải là cuộc đời này

Nếu có một giới hạn cho tất cả những sự vật và một biện pháp
Và một lần cuối và rồi chẳng còn gì nữa, và sự quên lãng
Ai sẽ nói cho chúng ta về người nào, trong căn nhà này,
Làm sao chúng ta biết, đã nói lời vĩnh biệt?
 


  Thơ Mỗi Ngày

The Lights Are On Everywhere

The Emperor must not be told night is coming.
His armies are chasing shadows,
Arresting whippoorwills and hermit thrushes
And setting towns and villages on fire.

In the capital, they go around confiscating
Clocks and watches, burning heretics
And painting the sunrise above the rooftops
So we can wish each other good morning.

The rooster brought in chains is crowing,
The flowers in the garden have been forced to stay open,
And still yet dark stains spread over the palace floors
Which no amount of scrubbing will wipe away.
Charles Simic: New and selected poems

 

Ánh sáng thì ở mọi nơi

Sáu Dân, aka Víp Va Ka, aka Hồ Tôn Hiến phải không được bẩm báo đêm đang tới
Những binh đoàn của Người Vĩ Đại Học Lớp Một đang săn đuổi những cái bóng
Bắt giữ chim đợp muỗi, chim hét ẩn dật
Đốt thành phố và làng xóm

Ở Xề Gòn, chúng xục xạo khắp nơi
Tịch thu đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay, đốt sách,
thiêu dị giáo
Cho sơn mặt trời mọc phía bên trên những mái nhà
Nhờ vậy chúng ta có thể chào nhau, good morning.

Chú gà trống bị xiềng, được đem tới, đang gáy
Bông trong vườn hoa Tao Đàn bị ép, phải nở,
Tuy nhiên những vết thâm xì, loang lổ trên sàn dinh Độc Lập
Thì đếch làm sao kỳ cọ cho sạch, dù có đổ cả đống nước mắt
Ba mươi năm mới có ngày hôm nay
Vui sao nước mắt lại trào!

MY SHOES

Shoes, secret face of my inner life:
Two gaping toothless mouths,
Two partly decomposed animal skins
Smelling of mice nests.

My brother and sister who died at birth
Continuing their existence in you,
Guiding my life
Toward their incomprehensible innocence.

What use are books to me
When in you it is possible to read
The Gospel of my life on earth
And still beyond, of things to come?

I want to proclaim the religion
I have devised for your perfect humility
And the strange church I am building
With you as the altar.

Ascetic and maternal, you endure:

Kin to oxen, to Saints, to condemned men,
With your mute patience, forming
The only true likeness of myself.

Ðôi giầy của tôi  

Giầy, bộ mặt bí mật của cuộc đời bên trong của tôi :
Hai cái miệng không có răng, cách nhau một khoảng
Hai miếng da loài vật đã bị phân huỷ từng phần
Có mùi ổ chuột

Ông anh bà chị của tôi đã chết ngay khi ra đời
Vẫn tiếp tục sự hiện hữu ở trong mi
Hướng dẫn cuộc đời của tôi
Về một sự ngây thơ trong sạch không làm sao hiểu được của họ

Sách thì dùng làm gì đối với tôi?
Một khi mà, ở nơi mi, có thể đọc
Thánh Kinh của đời tôi ở trên mặt đất
Và, quá thế nữa, những điều chưa tới, chưa xẩy ra? 

Tôi muốn tuyên bố một tôn giáo
do tôi làm ra vì sự khiêm tốn tuyệt hảo của mi,
Và một ngôi nhà thờ lạ kỳ tôi đang xây cất
Với bạn, là bàn thờ

Khổ hạnh, và mẫu tử, bạn như thế, đời đời
Bà con với dưỡng khi, với Thánh Thần, để kết án con người
với sự kiên nhẫn câm nín của bạn, tạo thành
cái thực giống độc nhất với cái tôi của tôi
.

Stone

Go inside a stone
That would be my way.
Let somebody else become a dove
Or gnash with a tiger's tooth.
I am happy to be a stone.

From the outside the stone is a riddle:
No one knows how to answer it.
Yet within, it must be cool and quiet
Even though a cow steps on it full weight,
Even though a child throws it in a river;
The stone sinks, slow, unperturbed
To the river bottom
Where the fishes come to knock on it
And listen.

I have seen sparks fly out
When two stones are rubbed,
So perhaps it is not dark inside after all;
Perhaps there is a moon shining
From somewhere, as though behind a hill-
Just enough light to make out
The strange writings, the star charts
On the inner walls.

Đá

Vô trong cục đá
Đó là cách của tôi
Để kẻ khác trở thành bồ câu
Hay nghiến răng, với răng hổ.
Tôi hạnh phúc, là cục đá.

Từ bên ngoài, cục đá là 1 thai đố:
Đếch ai biết làm sao giải ra
Tuy nhiên, ở bên trong hẳn là mát mẻ và lặng lẽ
Ngay cả khi con bò đè cả cái thân xác của nó lên
Ngay cả khi một đứa bé quẳng nó xuống một con sông;
Cục đá chìm, chầm chậm, không âu lo, xao xuyến
Tới đáy sông
Nơi mấy chú cá bèn loay hoay làm quen
Gõ gõ lên nó,
Và lắng nghe.

Tôi đã nhìn thấy những tia lửa loé ra
Khi hai cục đá hôn nhau
Nếu thế, bên trong cực đá chưa chắc đã tối thui;
Có thể có một vừng trăng chiếu sáng
Từ đâu đó, như thể đằng sau một con đồi –
Đủ ánh sáng để làm ra những trang viết lạ, những biểu đồ của những vì sao
Trên những bức tuờng ở bên trong

Charles Simic

­


  Thơ Mỗi Ngày

Three brief images-one Chippewa, one Turkish, and one West African-move the focus of a man's attention from self to world.
Ba hình ảnh ngắn ngủi chuyển sự chú tâm của con người, từ nó tới thế giới.

SOMETIMES I GO ABOUT PITYING MYSELF

Sometimes I go about pitying myself,
and all the time
I am being carried on great winds across the sky.

Chippewa music
adapted from the translation by Frances Densmore

Đôi khi Gấu tự thương hại Gấu

Đôi khi Gấu tự thương hại Gấu
Và suốt thời gian đó thì
Gấu được những trận gió lớn chở đi tung tăng khắp thế gian!

UNITY

The horse's mind
Blends
So swiftly
Into the hay's mind

FAZIL HUSNU DAGLARCA
translated by Talat Sait Halman

Một mối

Tâm trí, thần hồn chú ngựa
Thì bèn quấn quýt với linh hồn cỏ khô

OLD SONG

Do not seek too much fame,
but do not seek obscurity.
Be proud.
But do not remind the world of your deeds.
Excel when you must,
but do not excel the world.
Many heroes are not yet born,
many have already died.
To be alive to hear this song is a victory.

Traditional, West Africa

The Rag and the Bone Shop of the Heart
A Poetry Anthology
Robert Bly, James Hillman and Michael Meade editors

Một trang Tin Văn cũ

Đừng tìm kiếm danh vọng nhiều quá
Nhưng đừng tìm kiếm sự tối tăm.
Hãy hãnh diện
Nhưng cũng đừng nhắc nhở thế giới về những chiến công của bạn
Chơi trội, OK, nếu bạn phải chơi trội.
Nhưng đừng chơi trò nổi cộm với cả thế gian
Nhiều vị anh hùng chưa sinh ra
Nhiều người đã chết
Sống, và vô 1 trang TV cũ, đọc, thì đã là một chiến thắng khổng lồ rồi!


To Laziness

Only you understood
How little time we are given,
Not enough to lift a finger.
The voices on the stairs,
Thoughts too quick to pursue,
What do they all matter?
When eternity beckons.

The heavy curtains drawn,
The newspapers unread.
The keys collecting dust.
The flies either sluggish or dead.
The bed like a slow boat,
With its one listless sail
Made of cigarette smoke.

When I did move at last,
The stores were closed.
Was it already Sunday?
The weddings and funerals were over.
The one or two white clouds left
Above the dark rooftops,
Not sure which way to go.

Charles Simic

Gửi Đại Lãn

Chỉ mi hiểu,
Đôi ta còn tí ti thì giờ
Chẳng đủ để nhấc ngón tay
Tiếng nói ở cầu thang
Ý nghĩ tư tưởng bỏ chạy, quá nhanh
Làm sao truy đuổi,
Nhưng để ý làm chó gì tất cả những chuyện đó
Khi vĩnh cửu vẫy tay gật đầu

Những bức màn nặng buông xuống
Những tờ nhật báo không đọc
Những chiếc chìa khoá thu gom bụi
Những con ruồi, hoặc lờ đờ, hoặc ngỏm
Cái giuờng thì giống như cái thuyền lừ khừ
Với cánh buồm thờ ơ
Làm bằng khói thuốc lá

Sau cùng khi Gấu bèn cố đi 1 đường cử động cái thân xác luời biếng của mình
Những cửa tiệm đã đóng cửa
Chủ Nhật rồi ư?
Cưới hỏi, ma chay thì cũng đã xong
Một, hay hai đám mây trắng còn lại
Trên mái nhà tối thui
Đếch biết nhắm hướng nào.


  Thơ Mỗi Ngày

SELF-PORTRAIT IN BED

For imaginary visitors, I had a chair
Made of cane I found in the trash.
There was a hole where its seat was
And its legs were wobbly
But it still gave a dignified appearance.

I myself never sat in it, though
With the help of a pillow one could do that
Carefully, with knees drawn together
The way she did once,
Leaning back to laugh at her discomfort.

The lamp on the night table
Did what it could to bestow
An air of mystery to the room.
There was a mirror, too, that made
Everything waver as in a fishbowl

If I happened to look that way,
Red-nosed, about to sneeze,
With a thick wool cap pulled over my ears,
Reading some Russian in bed,
Worrying about my soul, I'm sure.

Charles Simic

[From My Noiseless Entourage, 2005]

Chân Dung Tự Họa ở trên Giường

Với mấy đấng bạn quí, tưởng tượng
Gấu có cái ghế mây
Lấy từ thùng rác
Có cái lỗ, đúng ngay chỗ để bàn tọa
Mấy cái chân ghế lung lay như răng bà lão
Tuy nhiên, nhìn cái ghế, vưỡn thấy có tí phẩm giá của riêng nó

Gấu, chính Gấu, chẳng hề dám ngồi lên
Nhưng, với cái gối, thì chuyện ngồi có thể
Với tí cẩn trọng, tất nhiên
Hai đầu gối phải níu lấy nhau
Đúng là cách mà H/A đã từng, một lần
Em ngả đầu ra phía sau, cười
Che giấu sự mất thoải mái của mình

Cây đèn bàn ngủ
Làm cái điều phải làm
Nghĩa là
Ban cho căn phòng vẻ bí ẩn.
Một cái gương nữa chứ
Nó làm cho cảnh vật lung linh
Như trong chậu cá cảnh

Nếu nhìn theo viễn ảnh như thế đó
Mũi đỏ lòm, thèm xụt xịt vài cú
Với cái mũ len chùm kín cả tai
Gấu nằm trên giường
Đọc Dos,
Lơ tơ mơ về linh hồn của mình
Hẳn thế.

Car Graveyard

This is where all our joyrides ended:
Our fathers at the wheel, our mothers
With picnic baskets on their knees
As we sat in the back with our mouths open.

We were driving straight into the sunrise.
The country was flat. A city rose before us,
Its windows burning with the setting sun.
All that vanished as we quit the highway
And rolled down a dusky meadow
Strewn with beer cans and candy wrappers,
Till we came to a stop right here.

First the radio preacher lost his voice,
Then our four tires went flat.
The springs popped out of the upholstery
Like a nest of rattlesnakes
As we tried to remain calm.
Later that night we heard giggles
Out of a junked hearse-then, not a peep
Till the day of the Resurrection.

Charles Simic: New and selected poems

Bãi tha ma xe

Đó là nơi tất cả những chuyến dong chơi bằng xe của chúng tôi chấm dứt
Ông via thì ngồi ở tay lái
Bà via với cái rỏ picnic trên đầu gối
Chúng tôi ngồi ghế sau, miệng đứa nào cũng há thật to

Xe chúng tôi chạy thẳng vô ánh mặt trời
Miền quê trải dài, mềm thõng.
Một thành phố dựng lên ở đằng sau chúng tôi
Những cửa sổ đỏ rực trong mặt trời lặn
Tất cả biến mất khi xe chúng tôi rời xa lộ
Và chạy xuống một cánh đồng
Vỏ bia, giấy gói kẹo, vãi.
Sau cùng đậu ngay chỗ này

Đầu tiên là ông linh mục mất mẹ nó cái giọng ở trong cái đài
Rồi tới bánh xe xẹp
Những cái lò xo bật ra khỏi nệm ghế, như ổ rắn
Trong khi chúng tôi cố gắng im lặng
Ban đêm, sau đó, chúng tôi nghe những tiếng cười rúc rích
Từ chiếc xe tang cũ nát - rồi thì, không một tiếng chít chít
Cho đến ngày Phục Sinh.

Note: Hai bài thơ, đã sửa.

Tks & Sorry. NQT

  Thơ Mỗi Ngày

 

And Then I Think

I'm just a storefront dentist
Extracting a blackened tooth at midnight.

I chewed on many bitter truths, Doc,
My patient says after he spits the blood out

Still slumped over, gray-haired
And smelling of carrion like me.

Of course, I may be the only one here,
And this is a mirror trick I'm performing.

Even the few small crumpled bills
He leaves on the way out, I don't believe in.

I may pluck them with a pair of wet pincers
And count them, and then I may not.

Charles Simic: New and selected poems

Và rồi thì Gấu suy tư

Gấu chỉ là 1 tên thợ nhổ răng ở 1 lề đường Xề Gòn
Nhổ 1 cái răng đen thui vào lúc nửa đêm

“Tui nhai quá nhiều sự thực cay đắng, thưa Ngài Tu Bíp”
Người bịnh nói, sau khi khạc ra 1 đống máu

Thì cũng vưỡn cái tay tóc xám ngồi xụ một đống
Và ngửi có mùi xác chết, như…. Gấu

Lẽ dĩ nhiên, làm đếch gì có bịnh nhân nào
Chỉ mình Gấu, diễn trò, trước tấm gương

Ngay cả mớ tiền lẻ ông ta để lại
Gấu cũng đếch có tin

Gấu có thể lấy cái kẹp khều khều
Và đếm
Và rồi, Gấu có thể đếch làm như thế! 

ROBERT HASS

Robert Hass, like Jeffers, is a California poet. In this poem, an object (clay figurine) and a typical California landscape are given simultaneously.
Robert Hass, như Jeffers, là một nhà thơ Cali. Trong bài thơ dưới đây, pho tượng vì phu nhân, và phong cảnh Cali, thì cùng lúc, được trình ra, với độc giả Tin Văn.
Czeslaw Milosz: The Book of Luminous Things

[Note: To U, the figure of the lady, an California image, in this poem. GNV]

THE IMAGE

The child brought blue clay from the creek
and the woman made two figures: a lady and a deer.
At that season deer came down from the mountain
and fed quietly in the redwood canyons.
The woman and the child regarded the figure of the lady,
the crude roundnesses, the grace, the coloring like shadow.
They were not sure where she came from,
except the child's fetching and the woman's hands
and the lead-blue clay of the creek
where the deer sometimes showed themselves at sundown.
 

Ảnh Tượng

Đứa bé mang đất sét màu xanh từ thung lũng về
Và người đàn bà nặn thành hai bức tượng, một vị phu nhân và một con nai.
Vào mùa này, nai thường từ núi xuống
Và kiếm ăn lặng lẽ trong những hẻm núi với những cánh rừng màu đỏ
Người đàn bà và đứa bé nhìn bức tượng của vị phu nhân
Cái gì gì, khuôn trăng đầy đặn, một vầng trăng tròn thô thiển, ân sủng, màu như bóng…
Họ không chắc, vì phu nhân tới từ đâu,
Ngoại trừ vẻ say mê của đứa bé, và bàn tay của thiếu phụ
Và đất sét xanh màu chì của thung lũng
Nơi nai cao, “gót lẩn trong mù hoàng hôn”.


Wooden Church 
It's just a boarded-up shack with a steeple
Under the blazing summer sky
On a back road seldom traveled
Where the shadows of tall trees
Graze peacefully like a row of gallows,
And crows with no carrion in sight
Caw to each other of better days.

The congregation may still be at prayer.
Farm folk from flyspecked photos
Standing in rows with their heads bowed
As if listening to your approaching steps.
So slow they are, they must be asking themselves
How come we are here one minute
And in the very next gone forever? 

Try the locked door, then knock once.
The crows will stay out of sight.
High above you, there is the leaning spire
Still feeling the blow of the last storm.
And then the silence of the afternoon ...
Even the unbeliever must feel its force. 

Nhà thờ gỗ

Chỉ là một cái lều bịt ván với một cái gác chuông
Dưới bầu trời mùa hè, nắng chói chang
Trên con lộ đằng sau ít người lai vãng
Nơi những cái bóng của lũ cây cao
Sướt sượt vào nhau, hiền hòa, như một giẫy giá treo cổ
Và lũ quạ, do chẳng nhìn thấy 1 cái xác chết thối rữa
Bèn quạc quạc, hẹn nhau những ngày tươi đẹp hơn

Giáo đoàn hẳn là ở chỗ cầu nguyện
Giáo dân từ những bức hình nhỏ xíu
Đứng thành hàng, cúi đầu
Như lắng nghe bước chân của bạn tới gần,
Chậm chạp làm sao, họ hẳn phải hỏi lẫn nhau
Làm thế nào phút này, chúng ta ở đây
Và chưa đầy phút sau, thì đã thiên thu vĩnh biệt?

Thử lắc lắc cái cửa đóng, và một lần, thử gõ.
Lũ quạ thì vưỡn ngoài tầm nhìn.
Cao tít trên đầu bạn, là sợi dây thu lôi
Vưỡn nghe mùi sét đánh, của trận bão chót
Và rồi thì là cái im ắng của buổi xế trưa
Thiếu tiếng gáy điếng hồn của 1 chú gà trống…
Ngay kẻ vô đạo phải cảm thấy sức mạnh của nó!

Thơ Mỗi Ngày

Friday, August 15, 2014 9:52 AM

Kính thăm và kính chúc sức khoẻ nhà văn.
Tình cờ, đọc mấy bài thơ của JB, thấy mình dịch thầm trong đầu, giống giọng Ông quá, bèn, gửi lời kính thăm Ông để cảm ơn cái  "ảnh hưởng tốt » của TV.

NTP

Tks
Take Care

NQT


Car Graveyard

This is where all our joyrides ended:
Our fathers at the wheel, our mothers
With picnic baskets on their knees
As we sat in the back with our mouths open.

We were driving straight into the sunrise.
The country was flat. A city rose before us,
Its windows burning with the setting sun.
All that vanished as we quit the highway
And rolled down a dusky meadow
Strewn with beer cans and candy wrappers,
Till we came to a stop right here.

First the radio preacher lost his voice,
Then our four tires went flat.
The springs popped out of the upholstery
Like a nest of rattlesnakes
As we tried to remain calm.
Later that night we heard giggles
Out of a junked hearse-then, not a peep
Till the day of the Resurrection.

Charles Simic: New and selected poems

Bãi tha ma xe

Đó là nơi tất cả những chuyến dong chơi bằng xe của chúng tôi chấm dứt
Ông via thì ngồi ở tay lái
Bà via với cái rỏ picnic trên đầu gối
Chúng tôi ngồi ghế sau, miệng đứa nào cũng há thật to

Xe chúng tôi chạy thẳng vô ánh mặt trời
Miền quê trải dài, mềm thõng.
Một thành phố dựng lên ở đằng sau chúng tôi
Những cửa sổ đỏ rực trong mặt trời lặn
Tất cả biến mất khi xe chúng tôi rời xa lộ
Và chạy xuống một cánh đồng
Vỏ bia, giấy gói kẹo, vãi.
Sau cùng đậu ngay chỗ này

Đầu tiên là ông linh mục mất mẹ nó cái giọng ở trong cái đài
Rồi tới bánh xe xẹp
Những cái lò xo bật ra khỏi nệm ghế, như ổ rắn
Trong khi chúng tôi cố gắng im lặng
Ban đêm, sau đó, chúng tôi nghe những tiếng cười rúc rích
Từ chiếc xe tang cũ nát - rồi thì, không một tiếng chít chít
Cho đến ngày Phục Sinh.


W. S. MERWIN

 1927- 

The following poem inspires us to reflect on what seldom crosses our minds. After all (literally after all), such an anniversary awaits every one of us.

Bài thơ sau đây gợi hứng cho chúng ta, về cái điều hiếm chạy qua đầu chúng ta.
Nói cho cùng, "kỷ niệm ngày tôi chết" đâu bỏ quên, bất cứ ai?

Czeslaw Milosz 

FOR THE ANNIVERSARY OF MY DEATH 

Every year without knowing it I have passed the day
When the last fires will wave to me
And the silence will set out
Tireless traveler
Like the beam of a lightless star
Then I will no longer
Find myself in life as in a strange garment
Surprised at the earth
And the love of one woman
And the shamelessness of men
As today writing after three days of rain
Hearing the wren sing and the falling cease
And bowing not knowing to what

 
Kỷ niệm Cái Chết của tớ

Năm nào cũng vậy, đếch biết 1 tí gì hết về nó, tớ trải qua cái ngày
Khi những ngọn lửa cuối cùng sẽ vẫy vẫy tớ
Và im lặng sẽ thả ra
Kẻ lữ hành không mệt mỏi
Như ánh sao không còn sao ánh
Rồi thì tớ không còn thấy mình ở trong đời, như là 1 cái bọc lạ lùng
Ngạc nhiên với trái đất
Và tình yêu của một người đàn bà
Và sự đếch biết xấu hổ của đàn ông
Như hôm nay ngồi viết sau ba ngày mưa
Nghe chim hồng tước hót và tiếng rơi ngưng
Và cúi đầu không hiểu cúi đầu về cái gì

Note: Mấy bài thơ, quái làm sao, là đều nhắn nhủ gì GCC, trong khi chờ SN!

Cả cái message của Hải Âu nữa chớ:
We miss GCC!

Đùa cho dzui, Em nhắn Gấu, qua Quận Cam gặp Em & Bạn đi.
Sure, @ this end of this year!
Take Care

GNV


The Massacre of the Innocents

The poets of the Late Tang Dynasty
Could do nothing about it except to write:
"On the western hills the sun sets ...
Horses blown by the whirlwind tread the clouds." 

I could not help myself either. I felt joy
Even at the sight of a crow circling over me
As I stretched out on the grass
Alone now with the silence of the sky.

Only the wind making a slight rustle
As it turned the pages of the book by my side,
Back and forth, searching for something
For that bloody crow to read.

Charles Simic: A Wedding in Hell

Cuộc tàn sát những kẻ vô tội

Những nhà thơ Hậu Đường
Đâu có làm gì được, ngoài cái việc đi 1 đường Facebook, sau đây:
"Ở những ngọn đồi phía Tây, mặt trời lặn…
Những con ngựa bị gió thổi, dẫm lên những đám mây." 

Tớ cũng đếch làm gì được ở đây
Nhưng quái làm sao, tớ thấy vui
Ngay cả khi trên đầu tớ,
Một chú quạ bay vòng vòng.
Trong lúc tớ thả mình xuống lớp cỏ,
Một mình với cái im lặng của bầu trời

Chỉ có gió, rì rào nhè nhẹ
Lật những trang của cuốn sách ở bên tớ
Lật tới lật lui, như kiếm cái con khỉ gì
Cho con quạ máu me, đọc.

SELF-PORTRAIT IN BED

For imaginary visitors, I had a chair
Made of cane I found in the trash.
There was a hole where its seat was
And its legs were wobbly
But it still gave a dignified appearance.

I myself never sat in it, though
With the help of a pillow one could do that
Carefully, with knees drawn together
The way she did once,
Leaning back to laugh at her discomfort.

The lamp on the night table
Did what it could to bestow
An air of mystery to the room.
There was a mirror, too, that made
Everything waver as in a fishbowl

If I happened to look that way,
Red-nosed, about to sneeze,
With a thick wool cap pulled over my ears,
Reading some Russian in bed,
Worrying about my soul, I'm sure.

Charles Simic

[From My Noiseless Entourage, 2005]

Chân Dung Tự Họa ở trên Giường

Với mấy đấng bạn quí, tưởng tượng
Gấu có cái ghế mây
Lấy từ thùng rác
Có cái lỗ, đúng ngay chỗ để bàn tọa
Mấy cái chân ghế lung lay như răng bà lão
Tuy nhiên, nhìn cái ghế, vưỡn thấy có tí phẩm giá của riêng nó

Gấu, chính Gấu, chẳng hề dám ngồi lên
Nhưng, với cái gối, thì chuyện ngồi có thể
Với tí cẩn trọng, tất nhiên
Hai đầu gối phải níu lấy nhau
Đúng là cách mà H/A đã từng, một lần
Em ngả đầu ra phía sau, cười
Che giấu sự mất thoải mái của mình

Cây đèn bàn ngủ
Làm cái điều phải làm
Nghĩa là
Ban cho căn phòng vẻ bí ẩn.
Một cái gương nữa chứ
Nó làm cho cảnh vật lung linh
Như trong chậu cá cảnh

Nếu nhìn theo viễn ảnh như thế đó
Mũi đỏ lòm, thèm xụt xịt vài cú
Với cái mũ len chùm kín cả tai
Gấu nằm trên giường
Đọc Dos,
Lơ tơ mơ về linh hồn của mình
Hẳn thế.

Thơ Mỗi Ngày

THE BLACK SHIP

In his dream Cifar heard the shouts
and the conch hooting in the fog
at dawn. He looked at the ship
        motionless
        not rocking among the waves.

            -If you hear
            in the dark core
            of the night
            when the sea is high
            shouts asking
            the way to the harbor
                        come about hard
                        and get out of there.

Silhouetted on the spray
hull dark and rotted away
(Sailor! they shouted)
the rigging in tatters
swinging and the sails
black and in rags
                    (Sailor!)

Cifar stood up and clung to the mast.

            -If the moon
            shines on their faces
            with the long beards
            if they say to you
            -Sailor, where are we headed.
            If they beg you:
            -Sailor, show me
            the way to the harbor!
            come about hard
            and get out of there.

    A long time they have been sailing.
    Centuries they have been voyaging in the dream.

            They are your own questions
            lost in time. 

                                1980s, preceding poems are from
                                Cantos de Cifar

[Translated by W.S. Merwin]

Con tàu đen

Trong cơn mơ Cifar nghe những tiếng la hét
Và tiếng tù và nơi vùng sương mù
Vào lúc bình minh
Anh nhìn con tầu
chết sững giữa những con sóng

-Nếu mi nghe
Từ cõi sâu tối của đêm đen
Nơi biển cao
Những tiếng la hét yêu cầu chỉ đường về bến cảng
Hãy cố mà thoát ra khỏi nơi đó

Bóng rọi trên bụi nước
Một khối, tối, mục, rữa
[Thuỷ thủ, chúng la thét]
Buồm cột tơi tả
(Thuỷ thủ!)

Cifar đứng lên và bám vào cột buồm

-Nếu mặt trăng chiếu trên mặt họ
Râu tóc dài thòng
Nếu họ nói với mi:
-Thủy thủ, chúng ta đang hướng về nơi nào
Nếu họ năn nỉ mi:
Thuỷ thủ, chỉ cho chúng ta
Đường về cảng
Hãy cố ra khỏi nơi đó 

Họ dong buồm từ bao giờ, từ rất lâu
Hàng hàng thế kỷ họ dong buồm phiêu lưu trong giấc mơ

Họ là những câu hỏi của chính mi
Mất theo dòng thời gian

 

 

For the Very Soul of Me

At the close of a sweltering night,
I found him at the entrance
Of a bank building made of blue glass,
Crumpled on his side, naked,
Shielding his crotch with both hands,

The missing one, missed by no one,
As all the truly destitute are,
His rags rolled up into a pillow,
His mouth open as if he were dead,
Or recalling some debauchery.

Insomnia and the heat drove me out early,
Made me turn down one street
Instead of another and saw him
Stretched there, crusted with dirt,
His feet bruised and swollen.

The lone yellow cab idled at the light
With windows down, the sleepy driver
Threw him a glance, shook his head
And drove down the deserted avenue
The rising sun had made beautiful.

Charles Simic [from Night Pinic]

Cho linh hồn rất linh hồn của GCC

Vào một đêm ngột ngạt, cận sáng
Gấu kiếm thấy nó ở lối vô
Một tòa nhà ngân hàng làm bằng kiếng màu xanh
Méo mó, trần truồng
Hai tay che cái chạc

Kẻ thiếu nhớ chẳng ai thèm thiếu nhớ
Như mọi điều đáng thiếu nhớ
Mớ rẻ rách quần áo, xoắn lại làm cái gối
Miệng toác hoác như chết rồi
Hay nhớ lại một sa đọa, trụy lạc nào đó

Mất ngủ và cái nóng khiến Gấu mò ra đường sớm
Thay vì chọn con phố này, thì con phố kia
Và thế là, Gấu nhìn thấy nó, cái rất linh hồn tội nghiệp của Gấu Cà Chớn
Nằm 1 đống, bụi đường nghẹt họng
Chân thâm tím, sưng phồng

Cái tắc xi màu vàng, đơn độc, ngồi rồi, dưới ánh đèn
Cửa kính kéo xuống, anh tài xế buồn ngủ
Ném 1 cái nhìn, lắc 1 cái đầu
Rồi chạy xuống con phố hoang
Mặt trời lên, con phố mới đẹp làm sao.

Thơ Mỗi Ngày

Niu His Chi
Chinese
8th century

Where the mist has torn
The hills are the colors of spring
The sky is whitening
Not many stars are left
The fragment of moon is going out
But your face in the early light
Glitters
Now we must separate
After all the words
Nothing is eased
Turn your head I have something to add
You will remember
My skirt of green silk woven loosely
The new grass will remind you of it everywhere

1966
Translated by W.S. Merwin

Nơi sương mù tan
Những ngọn đồi có màu sắc của mùa xuân
Trời trắng dần
Không nhiều những ngôi sao rời bỏ
Một mẩu trăng ló ra
Nhưng khuôn mặt của anh trong ánh sáng sớm
Sáng rỡ
Lúc này đôi ta phải giã từ
Sau tất cả những lời
Chẳng gì dễ
Anh hãy nghiêng mái đầu để em có điều này thêm vô
Anh sẽ nhớ
Tà áo lụa mùa xanh của em trải ra

Cỏ non sẽ nhắc nhở anh, cái tà áo lụa của em,
Nhắc nhở mãi nó, ở mãi nơi nơi.


Liu Che
Chinese
140-87 B.C. 

Oh the sound of her silk sleeves
no longer
oh the dust deepening
in the jade courtyard
the vacant room cold
abandoned
the doors
double-barred and their bars
littered with fallen leaves
oh if anyone looks now
for the beauty
of that woman where can it be found
I feel my heart
to which rest will not come

1967

Translated by W.S. Merwin          

Ui, tiếng lụa tà áo em
Không còn nữa
Ôi
Bụi, thẳm sâu
Trong cái bình
Nơi sân nhà
Căn phòng trống, lạnh
Bỏ hoang
Cửa
Cài then hai lần
Lấp vùi lá rụng
Ui, giả như có ai đó tìm nhan sắc
Tìm nơi đâu
Tôi cảm thấy sự bình yên
Sẽ chẳng bao giờ tìm đến với trái tim của mình.

Adam Cast Forth

The Garden-was it real or was it dream?
Slow in the hazy light, I have been asking,
Almost as a comfort, if the past
Belonging to this now unhappy Adam
Was nothing but a magic fantasy
Of that God I dreamed. Now it is imprecise
In memory, that lucid paradise,
But I know it exists and will persist
Though not for me. The unforgiving earth
Is my affliction, and the incestuous wars
Of Cains and Abels and their progeny.
Nevertheless, it means much to have loved,
To have been happy, to have laid my hand on
The living Garden, even for one day.

-A.R.

J.L. Borges: Selected Poems, Penguin ed 

Was there a Garden, or was that a dream?
 Dazed in hazy light, I asked,
 almost for comfort, if this was the past
 that Adam, now cursed, had once redeemed? 

It was not a magic hoax or con
 of some god I dreamed.  It was the imprecise
 memory of a certain Paradise,
 one that lives and, I know, will live on … 

… but not for me.  This stubborn life
 is my punishment for the inbred strife
 of Cains and Abels and all in their sway. 

And yet, to be loved is something much,
 to have been happy, and to have touched
 the living Garden, if only for a day.

– Jorge Luis Borges 

Translated from Spanish by Paul Weinfield, © 2013

Gấu lẩn thẩn chờ SN 

Khu Vườn ư? Là thật, hay là ảo?
Ngất ngư trong ánh sáng nhạt nhòa,
Hầu như hài lòng
Gấu đi 1 đường tra hỏi.
Nếu đó là quá khứ, Gấu, bây giờ bị trù eỏ, của một ngày xưa
Khi còn là 1 thằng bé nhà quê, Bắc Kít,
Đã từng cứu chuộc?

Đếch phải cái giả thần kỳ, cà chớn
Của một Ông Giời mà Gấu đã từng mơ tưởng
Chỉ là hồi ức, chẳng chắc chắn, về một Thiên Đàng nào đó
Một thiên đàng hiện hữu, và Gấu biết, sẽ tiếp tục hiện hữu
Nhưng đếch phải cho Gấu.

Cái cuộc đời ương bướng này là hình phạt
Cho cái tội ác thằng anh Bắc Kít làm thịt thằng em Nam Kít
Cũng OK thôi, Gấu đang đợi, đếch cần Xin Lỗi, nhờ anh tí!

Tuy nhiên, được “Em” yêu là 1 điều gì hơn thế nhiều
Được hạnh phúc,
Được sờ vô em, nghĩa là,
Được sống trong Khu Vườn
Dù chỉ 1 ngày!


SEND ME A LEAF

Send me a leaf, but from a little tree
That grows no nearer your house
Than half an hour away. For then
You will have to walk, you will get strong and I
Shall thank you for the pretty leaf

- Bertolt Brecht

(Translated from the German, by David Constantine.)

The New Yorker, August 11 & 18, 2014

Gửi anh một cái lá

Gửi cho anh một cái lá, nhưng từ cái cây nhỏ
Mọc không gần nhà em
Cách cỡ chừng nửa giờ đường
Và như vậy, em sẽ phải đi một đường tản bộ
Em sẽ trở nên mạnh mẽ hơn
Và anh sẽ cám ơn em
Đã dành cho anh cái lá xinh đẹp đó

Hà, hà!

Portable Hell

Địa ngục bỏ túi

Charles Simic
*

Saul Friedlander
[Kafka]:
Le poète de la honte et de la culpabilité

Thi sĩ của sự tủi hổ và phạm tội

Kafka n'était pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait des métaphores et des associations inattendues, il racontait des histoires, il était poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles soient directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur, mais ces allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas une foi religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.

*

Mưa

Mưa rào. Giữa hai cửa sổ
Một con ruồi đập cánh hàng giờ đồng hồ
Trời nặng như mùa thu,
Trong căn phòng không làm sao thở được
Tôi thương Kafka
Ông chẳng bao giờ có dù
Ngồi trên giường áo khoác ướt đẫm
Mân mê chiếc mũ, ông nói:
Bữa nay Prague mới âm u làm sao


FORGETTING CLOUDS

The quiet morning has a few cloud friends
that are gone when I look for them again
in this one summer to which I have come
after everything that I remember
what can I call it before it has gone
it does not hear me and does not know me
it passes without seeing I am here
it is only me going my own way
there is no one else who can forget it

-W. S. Merwin

The New Yorker, April, 21, 2014

Quên Mây

Buổi sáng yên tĩnh có vài cụm mây bạn
Khi Gấu nhìn lại thì họ đi rồi
Trong một mùa hè mà Gấu tới
Sau khi mọi thứ mà Gấu nhớ
Điều Gấu gọi trước khi bỏ đi
Không nghe Gấu gọi mà cũng chẳng biết Gấu
Đi, chẳng thèm biết Gấu đang ở đây
Vậy là chỉ có nhõn một mình Gấu trên con đường của riêng Gấu
Chẳng có ai khác nữa có thể quên nó

RUTH

In memory of Ruth Buczynska

She survived the war in Tarnopol. In darkness and semi-darkness. In fear.
She was afraid of rats and heavy boots, loud conversations, screams.
She died just now, in darkness, in a hospital ward's white quiet.
She was a Jew. Sometimes she didn't know what it meant.
. It's simple and incomprehensible, like algebra.
At times she tried to work it through. The Gestapo knew exactly what it meant
to be a Jew. The great philosophical tradition helped,
definitions sharp as knives, direct as a Buddhist arrow.
She was beautiful. She should have died then, like the other men and women,
vanished without a trace, gone without elegies, like so many others,
like the air, but she lived a long time, in daylight, in the sun,
in the daily air, the oxygen of ordinary Krakow.
Sometimes she couldn't understand what beauty meant.
The mirror kept still, it didn't know the philosophical definitions.
She didn't forget those other times, but rarely
spoke of them. Once only she told this story:
her beloved cat wouldn't stay put in the ghetto, twice
it slipped back to the Aryan side at night. Her cat
didn't know who Jews were, what the Aryan side meant.
It didn't know, so it shot to the other side like an arrow.
Ruth was a lawyer and defended others. Maybe that was why she lived so long.
Because there are so many others, and they need defending.
Prosecutors multiply like flies, but the defenders are few.
She was a good person. She had a soul. We know what it means.

-Adam Zagajewski

(Translated from the Polish by Clare Cavanagh)

Ruth

Tưởng niệm Ruth Buczynska

Bà sống sót cuộc chiến ở Tarnopol. Trong bóng tối và chập choạng tối. Trong sợ hãi.
Bà sợ chuột, tiếng giày đinh, chuyện lớn tiếng, la thét.
Bà mới chết đây, trong bóng tối, trong cái yên tịnh màu trắng của một bịnh viện
Bà là một người Do Thái. Đôi khi bà không hiểu điều đó nghĩa là gì.
Nó giản dị, và không thể hiểu được, như môn đại số
Đôi khi, bà cố giải cho ra. Gestapo hiểu rất rõ Do Thái nghĩa là gì.
Truyền thống triết học lớn giúp, những định nghĩa sắc như dao, thẳng một lèo như mũi tên Phật Giáo.
Bà thì đẹp. Bà đúng ra thì đã chết rồi, khi đó, như những người đàn ông và đàn bà khác,
Biến mất không để lại dấu vết, không bi khúc, như rất nhiều người khác, như không khí,
Nhưng bà sống một cuộc đời dài, trong ánh sáng ban ngày, trong ánh sáng mặt trời, trong không khí hàng ngày, mỗi ngày, mọi ngày,
Trong khí trời của một thành phố Krakow bình thường.
Đôi khi bà không thể hiểu cái đẹp nghĩa là gì
Gương im, giữ như cũ, nó không hiểu những định nghĩa triết học
Bà không quên những thời kỳ khác đó, nhưng hiếm khi nhắc lại.
Chỉ có mỗi một lần, bà kể câu chuyện này:
Con mèo thân thương của bà không chịu ở trong ghetto,
Hai lần, nó chuồn trở về lại khu Aryan vào ban đêm.
Con mèo không hiểu những người Do Thái là những người nào, và Aryan nghĩa là gì.

 

VIA DEL TRITONE

In Rome, on the street of that name,
 I was walking alone in the sun
 In the noonday heat, when I saw a house
 With shutters closed, the sight of which
 Pained me so much, I could have
 Been born there and left inconsolably. 

The ochre walls, the battered old door
 I was tempted to push open and didn't,
 Knowing already the coolness of the entrance,
 The garden with a palm tree beyond,
 And the dark stairs on the left. 

Shutters closed to cool shadowy rooms
 With impossibly high ceilings,
 And here and there a watery mirror
 And my pale and contorted face
 To greet me and startle me again and again. 

"You found what you were looking for,"
 I expected someone to whisper.
 But there was no one, neither there
 Nor in the street, which was deserted
 In that monstrous heat that gives birth
 To false memories and tritons.

Charles Simic 

VIA DEL TRITONE

 

Ở Rome, trên con phố cũng có tên đó
 Tôi đi bộ một mình trong ánh mặt trời
 Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà
 Những tấm màn cửa thì đều đóng,
 Nhìn một phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể sinh ra tại căn nhà này,
 Và bị bỏ mặc, không người an ủi. 

Tường màu gạch son, cửa cũ, rệu rạo
 Tôi tính đẩy cửa, nhưng không làm
 Biết rõ cái lạnh lẽo sau cánh cửa, lối dẫn vào căn nhà,
 Căn vườn với 1 cây sồi quá nó,
 Và những cầu thang u tối ở phía trái. 

Rèm cửa đóng dẫn tới những căn phòng lờ mờ
Trần hơi bị thật là cao
 Và đâu đó, là một cái gương long lanh nước
 Và khuôn mặt của tôi nhợt nhạt, méo mó
 Ðón chào tôi, và làm tôi giật mình hoài 

"Mi kiếm ra cái mà mi tính kiếm?"
 Tôi uớc ao có ai đó thì thào
 Nhưng làm đếch gì có một ai
 Ðếch có ai, cả ở trên con phố hoang vắng
 Vào cái giờ nóng khùng điên
 Làm đẻ ra những hồi ức dởm
 Và những con quái vật nửa người nửa cá

One poem is unlike any I've ever read-if it had appeared in the lineup, I might not have recognized it as Simic's. "Via Del Tritone" juxtaposes no surreal images. It begins simply:

In Rome, on the street of that name,
 I was walking alone in the sun
 In the noonday heat, when I saw a house
 With shutters closed, the sight of which
 Pained me so much, I could have
 Been born there and left inconsolably.

Simic goes on to describe the interior, as he imagines it, a garden with a palm tree, dark stairs leading to cool rooms with high ceilings. "'You found what you were looking for,' / I expected someone to whisper." Never, in his previous work, has Simic expressed the pain of his exile in such a straightforward way. His outsider's status was always an advantage, teaching him that life was unpredictable and that anything might happen, as the antic careening of his poetry suggests. In this poem his pain and loss blossom like the most fragile of tea roses. He hasn't found what he was looking for. How can you reclaim a childhood that never was? Simic, unlike Nabokov, has no Eden to recall. His are "false memories," phantasms of heat. And as the war rages on in the place where his childhood should have been, salvage becomes less possible. The poet's cries flutter up from the page: "Help me to find what I've lost, / If it was ever, however briefly, mine." 

Lisa Sack: Charles the Great: Charles Simic’s A Wedding in Hell 

Bài thơ này thật khác với những bài thơ của Simic. Không có sự trộn lẫn những hình ảnh siêu thực.

 Via Del Tritone  mở ra, thật giản dị: 

Ở Rome, trên con phố cũng có tên đó
 Tôi đi bộ một mình trong ánh mặt trời
 Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà
 Những tấm màn cửa thì đều đóng,
 Nhìn một phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.

Sau đó, tác giả tiếp tục tả bên trong căn nhà, như ông tưởng tượng ra…Chưa bao giờ, trong những tác phẩm trước đó, Simic diễn tả nỗi đau lưu vong một cách thẳng thừng như ở đây. Cái vị thế kẻ ở ngoài lề luôn luôn là lợi thế, nó dạy ông rằng đời thì không thể tiên liệu trước được và chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Ở đây, nỗi đau, sự mất mát của ông nở rộ như những cánh trà hồng mảnh mai nhất. Ông làm sao kiếm thấy cái mà ông kiếm, một tuổi thơ chẳng hề có? Simic, không như Nabokov, chẳng hề có Thiên Ðàng để mà hồi nhớ. Chỉ là hồi nhớ dởm, do cái nóng khùng điên tạo ra. Và chiến tranh tàn khốc xẩy ra ở cái nơi đáng lý ra tuổi thơ xẩy ra, làm sao có cứu rỗi? Và tiếng la thét của nhà thơ vọng lên từ trang giấy:

 Hãy giúp tôi tìm cái mà tôi đã mất/Cho dù nhỏ nhoi, cho dù chốc lát, cái tí ti đã từng là của tôi. 

Đây có lẽ là bài thơ tuyệt vời nhất của Simic, với GCC. Không còn tí siêu thực, mà cái đau lưu vong mới ghê gớm làm sao.
Mi đừng đụng tới nó, không là nó biến mi thành lưu vong, là bỏ mẹ mi, như 1 lần ông cảnh cáo mưa gió Mẽo!

Wind

Touching me, you touch
The country that has exiled you.

 Gió

Mi sờ vô ta
Là mi sờ vô cái xứ sở đã biếm mi, đày mi,
Làm ngọn gió lưu vong

Charles Simic