*




Cái Tốt vs Cái Ky Tô!

Christianity has been stigmatised "as a redoubt of ignorance", as has the word "liberal…as if generosity were culpable".
Tinh thần Ky Tô bị bêu rếu như “đồn nhỏ, ga xép của sự ngu dốt", như thể "rộng luợng là phạm tội"!

*

*

&

Star of
the Nativity

In the cold season, in a locality accustomed to heat more than
to cold, to horizontality more than to a mountain,
a child was born in a cave in order to save the world;
it blew as only in deserts in winter it blows, athwart. 

To Him, all things seemed enormous: His mother's breast, the steam
out of the ox's nostrils, Caspar, Balthazar, Melchior-the team
of Magi, their presents heaped by the door, ajar.
He was but a dot, and a dot was the star. 

Keenly, without blinking, through pallid, stray
clouds, upon the child in the manger, from far away-
from the depth of the universe, from its opposite end-
the star was looking into the cave. And that was the Father's stare.

                                                                                December 1987 

Joseph Brodsky: So Forth 

Đêm Thánh Vô Cùng

 
Vào một mùa lạnh, tại một miền đất quen với nóng nhiều hơn là lạnh
quen với đồng bằng hơn là núi non,
một đứa bé sinh ra trong một hang cỏ, để cứu vớt thế giới ;
gió thổi như nó chỉ thổi ở trong những sa mạc vào mùa đông, từ bên này qua tới bên kia.

Với Cậu Bé, mọi thứ, mọi vật có vẻ như thật lớn lao: vú mẹ, làn hơi từ
mũi con bò, Caspar, Caspar, Balthazar, Melchior – toán Magi, những quà tặng của họ thì chồng ở bên cửa, hé mở.
Cậu Bé chỉ như một điểm và một điểm là ngôi sao.

Hào hứng, không chớp mắt, qua những
đám mây xanh xao, lạc lõng, ở phía bên trên đứa bé ở trong máng cỏ, xa thật xa -
từ chốn sâu thẳm của vũ trụ, từ phía tận cùng đối nghịch -
ngôi sao chăm chú nhìn vào trong hang. Và đó là cái nhìn của Vì Cha (1)

Rough Outline

The famous torturer takes a walk
Whom does he see standing there in the snow
A pretty girl in a wedding dress
What are you doing out there all alone in the cold 

You're the famous torturer much feared
I beg you to spare my love
Who is in your darkest prison cell
I wish to marry him etc. 

I will not give back your bridegroom
He must be tortured tonight
By me personally
You can come along and help him lament his fate 

She remained where she was
The night was cold and very long
Down by the slaughterhouse a, dog-like creature howled
Then the snow started to fall again

Charles Simic
 

Nan Đề

Tên tra tấn nổi tiếng làm 1 cú tản bộ
Ai đứng ngoài tuyết kia?
Một cô gái đẹp trong chiếc áo cưới
Làm sao mà đứng giữa trời tuyết một mình cô em?

Ông là tên tra tấn nổi tiếng và ai cũng rất sợ
Tôi năn nỉ ông tha cho người yêu của tôi
Đang nằm trong phòng giam âm u
Tôi mong được kết hôn với anh ta, vân vân và vân vân

Ta sẽ không trả lại chú rể cho cô bé đâu
Tối nay nó sẽ bị tra tấn
Cô có thể tới coi
Và giúp anh ta than thở số phận của mình

Cô gái đứng đó, nơi cô đứng đó
Đêm thì lạnh và thật là dài
Ở bên dưới phố, Phượng Trong Thành Nội,
kế bên căn nhà đ
ồ tể
một con vật giống như 1 con chó sói
tru lên.
Và tuyết lại bắt đầu đổ xuống

LINDENS

 
So much sweetness-
the city's been anesthetized;
a skinny boy, who barely
takes up space on earth,
and a dog,
and I, a soldier in an unseen war,
and a river I love.
The lindens bloom.

Đoan

Ngọt quá –
Thành phố lịm đi
Một đứa trẻ gầy gò, vừa mới ló ra với đời
Và một con chó
Và tôi, một tên lính trong 1 cuộc chiến không nhìn thấy
Và 1 con sông mà tôi yêu
Đoan nở rộ

SEPARATION


I read almost with envy my contemporaries' verse:
divorces, partings, wrenching separations; anguish, new beginnings, minor deaths;
letters read and burned, burning, reading, fire, culture,
anger and despair-the very stuff of potent poems;
stern verdicts, mocking laughter of the lofty moralists,
then finally the triumph of the all-enduring self.

And for us? No elegies, no sonnets about parting,
 a poem's screen won't rise between us,
apt metaphors can't sever us,
the only separation that we don't escape is sleep,
sleep's deep cave, where we descend alone
-and I must keep in mind that the hand
I'm clasping then is made of dreams.

 Xa cách

Tôi đọc mà phát thèm thơ những người cùng thời:
Ly dị, bỏ đi, đau đớn mỗi người một ngả
Nhức nhối, khởi đầu mới, chết lãng xẹt;
Thư đọc, và đốt, cháy, đang đọc, lửa, văn hóa
giận dữ và chán chường - bảnh nhất thì cũng chỉ tới cỡ đó, thứ thơ ca mãnh liệt;
những lời tuyên án nghiêm khắc, cái cười chế nhạo của mấy đấng đạo đức kiêu căng
Và sau cùng là sự chiến thắng của cái tôi to tổ bố, vừa dai vừa dài vừa dở như hạch.

Và cho chúng ta ư? Không bi khúc, ai điếu, không trường đình, đoản đình tiễn biệt
Màn hình bài thơ không hiện ra giữa chúng ta
ẩn dụ oách hay không oách chẳng thể phục vụ chúng ta.
Cú chia cách độc nhất mà chúng ta không thể trốn thoát là… ngủ.
Cái hang sâu hoắm của giấc ngủ, nơi chúng ta xuống, một mình -
Và luôn tỉnh táo, ghi vô trong đầu, cái bàn tay
[Ở trong rạp xi nê, bữa trước khi đi trình diện
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung]
Cái bàn tay mà Gấu cầm bữa đó,
thì làm bằng những giấc mộng.

Date: Sun, 12 Sep 2010 16:48:26 -0700

Dear GNV,

How have you been? I hope you enjoy your vacation and take care.
Bac Gau oi, dung lien luy nhieu voi cay viet khac.
Enjoy your works, your life and family.
Your readers and your family need you and are more important.
Soon,

H/A

Take Care.
Merry Christmas to U and Family

Dec, 25, 2011

NQT

A Song

I wish you were here, dear,
I wish you were here.
I wish you sat on the sofa
and I sat near.
The handkerchief could be yours,
the tear could be mine, chin-bound.
Though it could be, of course,
the other way around.

I wish you were here, dear,
I wish you were here.
I wish we were in my car,
and you'd shift the gear.
We'd find ourselves elsewhere,
on an unknown shore.
Or else we'd repair
to where we've been before.

I wish you were here, dear,
I wish you were here.
I wish I knew no astronomy
when stars appear,
when the moon skims the water
that sighs and shifts in its slumber.
I wish it were still a quarter
to dial your number.

I wish you were here, dear,
in this hemisphere,
as I sit on the porch
sipping a beer.
It's evening, the sun is setting;
boys shout and gulls are crying.
What's the point of forgetting
if it's followed by dying?

                            1989
Brodsky: So Forth

Anh mong có em ở đây
Trên nửa trái cầu này
Khi anh ngồi bên thềm
Nhấm nháp ly bia.

Đó là một buổi chiều, mặt trời đi ngủ rồi.
Con nít la hét và hải âu, khóc.
Ích chi đâu, quên em
Nếu sau đó, ngỏm?


THE YOUNG NIGHT

And now the lustral waters of night absolve me
from the many colors and the many forms.
In the garden, birds and stars exalt
the longed-for return of the ancient norms
of sleep and shadow. Darkness is sealing
the mirrors which copy the fiction of things.
Goethe said it best: everything near becomes far.
Those four words capture the entire twilight.
In the garden, roses cease to be roses;
they wish to be the Rose.
                                            -C.M.

J.L Borges: Poems of the Night

Đêm Trẻ

Và bây giờ những con nước rửa tội của đêm giải phóng Gấu
Ra khỏi rất nhiều màu sắc, hình dạng
Ngoài vuờn, chim và sao ca ngợi
Sự trở lại hằng mong đợi
Của những chuẩn mực xa xưa
Về Ngủ Nghê và Bóng Tối.
Đêm Đen đang đóng khằn những tấm gương,
Chúng sao chép giả tưởng sự vật
Goethe chẳng đã thật cực bảnh, khi phán:

Mọi chuyện gần trở thành xa.
Chỉ nội dúm từ đó thâu đoạt trọn hoàng hôn
Trong vườn, những bông hồng ngưng là những bông hồng;
Chúng muốn trở thành BHD


Thơ Mỗi Ngày

*

by CM, London

Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường

CM @ London

Mỗi bài thơ là một khó. Thường xuyên, dòng đầu là quà tặng, tôi không biết, của Giời hay của khả năng bí hiểm mà người ta gọi là hứng khởi. Thí dụ bài Sun Stone, Đá Mặt Trời, của tôi: Tôi viết ba muơi dòng đầu, như có một người nào đó âm thầm đọc cho tôi chép. Tôi ngạc nhiên thấy thơ cứ thế tuôn trào, chúng như ở thật xa, mà cũng như thật gần, như ở ngay trong lồng ngực. Bất thình lình, ngưng! Tôi đọc lại, thấy chẳng phải sửa chữa gì hết. Nhưng đó chỉ là đoạn mở. Và tôi chẳng làm sao tiếp tục. Vài ngày sau, tôi khởi sự tiếp, không phải theo kiểu thụ động, mà là cố đẩy những dòng về hướng này, hướng nọ, và tôi viết thêm được ba muơi, hoặc bốn mươi dòng nữa. Tôi ngưng. Vài ngày sau, lại trở lại với nó. Bằng cách dị mọ như vậy, tôi khám phá ra trọn giọng điệu của bài thơ, và nó hướng về đâu. Nó giống như một cách điểm lại đời mình, một sự tái sinh của kinh nghiệm, nỗi quan hoài, những thất bại, những ám ảnh của tôi. Tôi nhận ra tôi đang sống khúc cuối tuổi trẻ của mình, và bài thơ, cùng lúc, vừa là một tận cùng, vừa là một bắt đầu.
Octavio Paz (1)

THIS DAY

wind knows what love is
the summer day flashing royal colors
a lone fisherman surveys
the world's wound
a struck bell swells
people strolling in the afternoon
please join the year's implications

someone bends toward a piano
someone carries a ladder past
sleepiness has been postponed a few minutes
only a few minutes
the sun researches shadow
and drinking water from a bright mirror
I see the enemy within

an oil tanker
the tenor's song enrages the sea
at three in the morning I open a tin can

setting some fish on fire

Bei Dao: The ROSE of TIME

Edited by Eliot Weinberger

[Note: To DV: Làm ơn dịch bài trên. Tks. NQT]

Hi bác G,

D.V mới đọc bản dịch bài "This day"  từ bản Anh ngữ của bác, có những chỗ sáng sủa và "bảnh" hơn như "cơn buồn ngủ bị cưỡng lại vài phút"...
Chữ "cưỡng lại" thực sự đúng và hay hơn.
Riêng câu cuối "Đưa mấy con cá lên giàn hỏa" quả là có một khoảng cách, nếu so với nguyên tác của Bei Dao.

Kính,

D.V

Re: “cưỡng lại”. Bản tiếng Anh dùng từ “postponed", như bản tiếng Việt của bạn, “bị đẩy lui”. Nhưng Gấu thấy từ "cưỡng" của Mít, quá đắc địa ở đây!

Tks. Take Care, and Merry Christmas to all there.

NQT

Ngày này

Gió biết rõ tình yêu
Ngày hè lấp lánh sắc màu vương giả
Người câu cá cô độc đang đo lường
vết thương của mặt đất
Chuông ngân vang đang trương nở
Người rảo bước sau ngọ
Xin hãy thêm vô hàm nghĩa của tháng năm này 

Có người cúi mình xuống dương cầm
Có người vác thang đi qua
Cơn buồn ngủ bị đẩy lùi mấy phút
Chỉ là mấy phút
Mặt trời đang coi xét chiếc bóng
Tôi uống nước từ tấm gương sáng
Nhìn thấy kẻ địch của lòng mình 

Tiếng hát của một giọng nam cao
Giống tàu chở dầu chọc giận biển lớn
Tôi mở lon đồ hộp lúc ba giờ sáng
Để những con cá tỏa ánh rạng ngời.

From my iFone

Gửi bác bản tạm dịch bài “This day” của Bei Dao. Chúc bác vui luôn.
D.V

Tks
Many Tks. Take Care. GNV.
Gấu sẽ đi 1 đường dịch, từ bản tiếng Anh, sau.
Có tí khác biệt, giữa hai bản dịch, tiếng Việt của DV và tiếng Anh, của Eilot Weinberger.

[Trong Now & Then, Robert Hass, trong 1 bài viết về Rilke, đã đưa ra chừng 10 bản dịch, tiếng Anh, của 1 bài thơ của Rilke. Bài này thú lắm, cho thấy, dịch thơ, theo GCC, càng có nhiều bản dịch, càng tốt, và đừng bao giờ sợ sai ý của nguyên tác. Borges sửa thơ của chính ông hoài. Thành ra, tờ TLS khuyên, tốt nhất, bạn nên học tiếng Tây Ban Nha, để có nhiều bản dịch, của 1 bài thơ, của chính Borges, do Borges sửa đi sửa lại!]

Ngày này

Gió biết tình yêu là gì
Ngày hạ, sắc màu vương giả lấp lánh
Một ông câu trơ trọi
Đo vết thương của thế giới
Chuông ngân vang rền rĩ,
Người tản bộ sau ngọ

Làm ơn nhập vào những hàm ngụ của năm

Một người nào đó cúi xuống chiếc dương cầm
Một người nào đó vác thang qua
Cơn buồn ngủ bị cưỡng lại vài phút
Chỉ vài phút
Mặt trời kiếm cái bóng
Uống nước từ gương sáng,
Tôi nhìn thấy kẻ nội thù

Một chiếc tàu chở dầu
Tiếng hát giọng nam cao chọc giận biển
Ba giờ sáng tôi mở lon thiếc
Đưa mấy chú cá lên giàn hỏa.



Thơ Mỗi Ngày

*

Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường

CM @ London


Octavio Paz

The Other 

He invented a face for himself.
                                            Behind it
he lived died and was reborn
many times.
                 His face now
has the wrinkles from that face.
His wrinkles have no face.

Kẻ Kia

Hắn phịa ra 1 bộ mặt cho chính hắn
Đằng sau nó
Hắn sống chết và tái sinh nhiều lần
Mặt của hắn bây giờ có nhiều vết nhăn từ bộ mặt đó
Những vết nhăn của hắn không có bộ mặt
 

Epitaph for an Old Woman

They buried her in the family tomb
and in the depths the dust
of what was once her husband trembled

Bia mộ cho một người đàn bà già

Họ chôn bà trong ngôi mộ gia đình
Và ở duới sâu, bụi
vốn xưa là chồng bà
rùng mình.

Octavio Paz's Poems, Edited and translated by Eliot Weinberger

*

Bei Dao

WE

lost souls and scattered spirits
holding lanterns chase spring

scars shimmer, cups revolve
light's being created
look at that enchanting moment
a thief steals into a post office
letters cry out

nails o nails
the lyrics never change
firewood huddles together
searching for an audience to listen

searching for the heart of winter
river's end
a boatman awaiting boundless twilight
there must be someone to rewrite love

Chúng ta

những linh hồn mất, những tinh anh lạc
cầm đèn rượt mùa xuân

những vết sẹo sáng mờ mờ, nhưng cái ly xoay xoay
ánh sáng được tái tạo
hãy nhìn cái khoảnh khắc thần sầu đó
một tên trộm chui vô bưu điện
những lá thư khóc toáng lên

tay em, móng nhọn, ôi móng nhọn
những bản nhạc vàng, nhạc sến chẳng hề thay đổi
pháo bông xúm lại
kiếm một diễn đàn lắng nghe

kiếm trái tim mùa đông
cuối sông
một anh chèo thuyền đợi cõi mộng mị vô bờ bến

Ở đó phải có 1 tên nào đó viết lại tình yêu

THIS DAY

wind knows what love is
the summer day flashing royal colors
a lone fisherman surveys
the world's wound
a struck bell swells
people strolling in the afternoon
please join the year's implications

someone bends toward a piano
someone carries a ladder past
sleepiness has been postponed a few minutes
only a few minutes
the sun researches shadow
and drinking water from a bright mirror
I see the enemy within

an oil tanker
the tenor's song enrages the sea
at three in the morning I open a tin can

setting some fish on fire

Bei Dao: The ROSE of TIME

Edited by Eliot Weinberger

[Note: To DV: Làm ơn dịch bài trên. Tks. NQT]

Ngày này

Gió biết rõ tình yêu
Ngày hè lấp lánh sắc màu vương giả
Người câu cá cô độc đang đo lường
vết thương của mặt đất
Chuông ngân vang đang trương nở
Người rảo bước sau ngọ
Xin hãy thêm vô hàm nghĩa của tháng năm này 

Có người cúi mình xuống dương cầm
Có người vác thang đi qua
Cơn buồn ngủ bị đẩy lùi mấy phút
Chỉ là mấy phút
Mặt trời đang coi xét chiếc bóng
Tôi uống nước từ tấm gương sáng
Nhìn thấy kẻ địch của lòng mình 

Tiếng hát của một giọng nam cao
Giống tàu chở dầu chọc giận biển lớn
Tôi mở lon đồ hộp lúc ba giờ sáng
Để những con cá tỏa ánh rạng ngời.

From my iFone

Gửi bác bản tạm dịch bài “This day” của Bei Dao. Chúc bác vui luôn.
D.V

Tks
Many Tks. Take Care. GNV.
Gấu sẽ đi 1 đường dịch, từ bản tiếng Anh, sau.
Có tí khác biệt, giữa hai bản dịch, tiếng Việt của DV và tiếng Anh, của Eilot Weinberger.

[Trong Now & Then, Robert Hass, trong 1 bài viết về Rilke, đã đưa ra chừng 10 bản dịch, tiếng Anh, của 1 bài thơ của Rilke. Bài này thú lắm, cho thấy, dịch thơ, theo GCC, càng có nhiều bản dịch, càng tốt, và đừng bao giờ sợ sai ý của nguyên tác. Borges sửa thơ của chính ông hoài. Thành ra, tờ TLS khuyên, tốt nhất, bạn nên học tiếng Tây Ban Nha, để có nhiều bản dịch, của 1 bài thơ, của chính Borges, do Borges sửa đi sửa lại!]

Ngày này

Gió biết tình yêu là gì
Ngày hạ, sắc màu vương giả lấp lánh
Một ông câu trơ trọi
Đo vết thương của thế giới
Chuông ngân vang rền rĩ,
Người tản bộ sau ngọ

Làm ơn nhập vào những hàm ngụ của năm

Một người nào đó cúi xuống chiếc dương cầm
Một người nào đó vác thang qua
Cơn buồn ngủ bị cưỡng lại vài phút
Chỉ vài phút
Mặt trời kiếm cái bóng
Uống nước từ gương sáng,
Tôi nhìn thấy kẻ nội thù

Một chiếc tàu chở dầu
Tiếng hát giọng nam cao chọc giận biển
Ba giờ sáng tôi mở lon thiếc
Đưa mấy chú cá lên giàn hỏa.

Ngủ đi, thung lũng

Ngủ đi, thung lũng
mau lấy mây mù xanh che khung trời
che con mắt bông huệ tây xanh xao
Ngủ đi, thung lũngmau lấy nhịp chân mưa đuổi theo ngọn gió
đuổi theo tiếng hót thấp thỏm của chim cu

Ngủ đi, thung lũng
chúng tôi nấp ở đây
cứ như nấp vào giấc mộng ngàn năm
thời gian thôi chẳng còn trượt qua lá cỏ
đồng hồ mặt trời ngưng sau tầng mây
cũng thôi không lay rụng ráng chiều với hừng đông

Cây rừng vặn mình
thả rơi vô số quả thông cứng
bảo vệ hai hàng dấu chân
tuổi thơ chúng tôi cùng rảo bước
với mùa màng  quanh co đường nhỏ
phấn hoa dính đầy những bụi tầm gai

Ôi, vắng lặng sao
phiến đá ném đi không vọng tiếng
có lẽ, bạn đang tìm kiếm điều chi
-từ tim đến tim
một cầu vồng lặng lẽ dâng cao
-từ mắt đến mắt

Ngủ đi, thung lũng
gió, ngủ đi
thung lũng ngủ say trong mây mù xanh
gió, trong lòng bàn tay chúng tôi say ngủ.

Bei Dao: The Rose of Time, p12

Ps: Bác có thấy bài thơ này có cái khí hậu Tứ Tấu Khúc của bác không:)

Tks. NQT

SLEEP, VALLEY

Sleep, valley
with blue mist quickly cover the sky
and the wild lilies' pale eyes
Sleep, valley
with rainsteps quickly chase away the wind
and the anxious cries of the cuckoo

Sleep, valley
here we hide
as if in a thousand-year dream
time no longer glides past blades of grass
stopped behind layers of clouds, the sun's clock
no longer swings down evening glow or dawn

Spinning trees
toss down countless hard pine cones
protecting two lines of footprints
our childhoods walked with the seasons
along this winding path
and pollen drenched the brambles

Ah, it's so quiet and still
the cast stone has no echo
perhaps you are searching for something
-from heart to heart
a rainbow rises in silence
- from eye to eye

Sleep, valley
sleep, wind
valley, asleep in blue mist
wind, asleep in our hands

Bei Dao

Quả đúng là khí hậu Tứ Tấu Khúc, như K. có lần phán, dẹp cả cuộc đời qua 1 bên, lấy cả thiên thu cho... quá khứ!
Hà, hà!

Tks All of U
NQT


Thơ Mỗi Ngày

           **

Dịch loạn: Kẻ nào tính cạo đầu nên nghĩ đến thơ ca.

Début et fin de la neige 

« PREMIERE NEIGE ... » 

Première neige tôt ce matin. L' ocre, le vert
Se refugient sous les arbres.

Seconde, vers midi. Ne demeure
De la couleur
Que les aiguilles de pins
Qui tombent elles aussi plus dru parfois que la neige. 

Puis, vers le soir,
Le fléau de la lumière s'immobilise.
Les ombres et les rêves ont même poids. 

Un peu de vent
Écrit du bout du pied un mot hors du monde.

 

Beginning and End of the Snow 

"FIRST SNOWFALL .. " 

First snowfall, early this morning. Ochre and green
Take refuge under the trees. 

The second batch, toward noon. No color's left
But the needles shed by pines,
Falling even thicker than the snow.

Then, toward evening,
Light's scale comes to rest.
Shadows and dreams weigh the same. 

With a toe, a puff of wind
Writes a word outside the world.

Yves Bonnefoy. Second Simplicity: New Poetry and Prose, 1991-2011

Tuyết đầu

Tuyết đầu, sớm, sáng nay
Bông son, bông xanh
Trốn dưới lá

Thứ nhì, vào lúc trưa
Chẳng để lại màu gì
Ngoài những cây kim, là những chiếc lá thông
Chúng đôi khi rớt xuống dầy hơn tuyết

Rồi tới tối
Ánh sáng sững lại
Những cái bóng và những giấc mộng nặng bằng nhau

Một tí gió
Lấy đầu ngón chân
Đi một chữ
Ở bên ngoài thế giới

Landscape Above Zero

It was the seagull that taught the song to swim
It was the song that found the first wind's source

We shared shards of happiness
Entering the home from different directions

It was father who recognized darkness
It was darkness that led us to sudden lightning

The weeping door slammed shut
And echo pursued its cries

It was the pen that bloomed in despair
It was the flower that refused the necessary journey

It was rays of love that awoke
Lighting the landscape above zero 

Bei Dao

Phong cảnh ở bên trên con số không

Đó là hải âu dậy bài ca bơi
Đó là bài ca tìm thấy nguồn gió

Chúng ta chia nhau những mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ nhiều hướng khác nhau

Đó là người cha nhận ra bóng tối
Đó là bóng tối dẫn chúng ta tới ánh sáng bất thần

Cánh cửa nức nở đóng sầm lại
Và tiếng vang đuổi theo tiếng khóc của nó

Đó là cây viết nở hoa trong chán chường
Đó là bông hoa từ chối một chuyến đi cần thiết

Đó là những tia tình yêu thức giấc
Soi sáng phong cảnh ở trên con số không

Phong cảnh trên độ không

Là ó biển dạy tiếng hát bơi
Là tiếng hát lần về ngọn gió sơ ngộ 

Chúng ta đổi trao những miểng vụn hân hoan
Tiến vào nhà từ những phương trời khác biệt

Là người cha xác nhận bóng tối
Là bóng tối nối liền ánh chớp kinh điển 

Cánh cửa nức nở đóng sầm lại
Tiếng vang đuổi theo tiếng nó khóc gào      

Là bút trổ bông trong tuyệt vọng
Là hoa từ chối cuộc lữ tất nhiên 

Là tia sáng tình yêu choàng tỉnh
Chiếu sáng phong cảnh trên độ không.

Bei Dao

Dã Viên
dịch từ nguyên tác (1)

Bài thơ thần sầu. 
Đọc, bèn kiếm thơ Bei Dao!

Thơ Mỗi Ngày

MIRRORS AT 4 A.M.

You must come to them sideways
In rooms webbed in shadow,
Sneak a view of their emptiness
Without them catching
A glimpse of you in return.

The secret is,
Even the empty bed is a burden to them,
A pretense.
They are more themselves keeping
The company of a blank wall,
The company of time and eternity

Which, begging your pardon,
Cast no image
As they admire themselves in the mirror,
While you stand to the side
Pulling a hanky out
To wipe your brow surreptitiously.

Charles Simic: Sixty Poems

Gương, 4 giờ sáng

Bạn phải rón rén, me mé, tới đó (1)
Những căn phòng, đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn 1 cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để chúng lén "đợp" lại bạn
Cũng 1 cú! 

Niềm bí ẩn là,
Ngay cả cái giường trống trơn
Thì cũng là 1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy bình yên hơn
Cảm thấy chúng là chúng hơn
Khi có bạn quí cận kề
Là bức tường trần trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu 

Những thứ đó, xin lỗi bạn
Chúng đếch để bóng của chúng
Trên mặt gương
Khi chúng tự sướng 

Trong lúc bạn đứng né qua 1 bên
Rút chiếc khăn tay
Kín đáo lau lông mày

1.      with one side faced forward

<I had to walk sideways to get between the two towering piles of boxes>

Synonyms broadside, crabwise, edgeways [chiefly British] [net]

Chữ này - sideways - của tiếng anh hay quá, tiếng việt không có từ tương đương . Nó vừa có nghĩa là không đi thẳng đến trước mặt, chỉ đi bên mé, bên rìa, hoặc đi bằng ngõ vòng vo, lại vừa có nghĩa len lén .

K

ROSE

Rose,
the unfading rose beyond my verse-
rose that's full and fragrant,
rose of the black garden in the deep of night,
rose of any garden and any night,
rose that's born again by the art of alchemy
out of tenuous ash,
rose of the Persians and Ariosto,
rose that's always by itself,
rose that's always the rose of roses,
the young Platonic flower,
the blind and burning rose beyond my verse,
unattainable rose.

[Norman Thomas di Giovanni]

J.L. Borges: New and Unreprinted Poems
in Selected Poems 1923-1967

Bông Hồng

Bồng hồng không tàn phai, vượt quá thơ của tôi
Bông hồng - nở trọn, thơm ngát –
Bông hồng, từ cánh vườn đen, nơi sâu thẳm của đêm
Bồng hồng của bất cứ vuờn, bất cứ đêm
Bồng hồng lại sinh ra nhờ huyền thuật,
từ tro than tinh khiết, giản dị.
Bông hồng của những người Ba Tư, và của Ariosto,
Bông hồng luôn luôn bằng chính nó
Bông hồng luôn luôn là bông hồng của những bông hồng
Bông hoa trẻ măng, của tình yêu Platonic - chiêm ngưỡng và kính trọng -
Bông hồng mù, cháy bỏng vượt quá thơ của tôi
Bông hồng không làm sao nắm bắt được.

Thơ Mỗi Ngày

MIRRORS AT 4 A.M.

You must come to them sideways
In rooms webbed in shadow,
Sneak a view of their emptiness
Without them catching
A glimpse of you in return.

The secret is,
Even the empty bed is a burden to them,
A pretense.
They are more themselves keeping
The company of a blank wall,
The company of time and eternity

Which, begging your pardon,
Cast no image
As they admire themselves in the mirror,
While you stand to the side
Pulling a hanky out
To wipe your brow surreptitiously.

Charles Simic: Sixty Poems

Gương, 4 giờ sáng

Bạn phải rón rén, me mé, tới đó (1)
Những căn phòng, đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn 1 cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để chúng lén "đợp" lại bạn
Cũng 1 cú! 

Niềm bí ẩn là,
Ngay cả cái giường trống trơn
Thì cũng là 1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy bình yên hơn
Cảm thấy chúng là chúng hơn
Khi có bạn quí cận kề
Là bức tường trần trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu 

Những thứ đó, xin lỗi bạn
Chúng đếch để bóng của chúng
Trên mặt gương
Khi chúng tự sướng 

Trong lúc bạn đứng né qua 1 bên
Rút chiếc khăn tay
Kín đáo lau lông mày

1.      with one side faced forward

<I had to walk sideways to get between the two towering piles of boxes>

Synonyms broadside, crabwise, edgeways [chiefly British] [net]
*

To: TN

Cái mail của bạn, còn 1 “message” ngầm nữa.
Đọc, nhớ lại những ngày đầu qua được Xứ Lạnh. Gặp lại Cô Bạn. Đọc thơ Cô T.
Bài thơ “Biển” làm vào thời kỳ này, cùng dúm thơ cả 1 đời có được.
Lẽ dĩ nhiên, nhờ cô bạn, nhưng cũng còn nhờ đọc thơ Cô T.
Tks again.

NQT

A ROSE AND MILTON

From all the generations of past roses,
Disintegrated in the depths of time,
I want one to be spared oblivion-
One unexceptional rose from all the things
Which once existed. Destiny allows me
The privilege of choosing, this first time,
That silent flower, the very final rose
That Milton held before his face, but could
Not see. O rose, vermilion or yellow
Or white, from some obliterated garden,
Your past existence magically lasts
And glows forever in this poetry,
Gold or blood-colored, ivory or shadowed,
As once in Milton's hands, invisible rose.
J.L.Borges

[Alastair Reid]

Bông Hồng và Milton

Từ tất cả những thế hệ những bông hồng đã qua
“Tàn hôn lên môi”, rồi rã ra, chìm xuống những tầng sâu thẳm của thời gian,
Gấu chỉ muốn 1 bông hồng được tách ra khỏi quên lãng.
Một bông hồng chẳng có chi khác biệt, từ tất cả những gì đã từng có lần hiện hữu.
Số phận cho phép Gấu,
Đặc ân chọn lựa này, lần đầu tiên.
Bông hồng thầm lặng, bông hồng tận cùng của tận cùng, của loài hồng
Bông hồng Milton đã cầm trước mặt mình, nhưng đếch nhìn thấy được
Một bông hồng, đen, ngăm ngăm,
Đen dòn, hay trắng, từ một cánh vườn đã tiêu ma.
Sự hiện diện trong quá khứ của bông hồng
Và cùng với nó, cả 1 miền đất
Diệu kỳ làm sao
Còn lại mãi mãi
Và cứ thế lớn mãi, thiên thu, vĩnh viễn
Trong dúm thơ của GCC.
Vàng hay màu máu, đen ngà ngà, hay âm u như 1 cái bóng
BHD mà có lần GCC ôm trong tay
Như bông hồng Milton đã từng cầm
Bông hồng vô hình.

*

UNE ROSE ET MILTON

Sans rien qui la distingue ou l'étrange des choses
Qui furent, se consume au fond du temps pâli
Une rose. Je veux la tirer de l'oubli.
Retrouvez cette rose, ô families des roses.
Donnez-la-moi ; le sort me dispense ce soir
Le privilege de nommer pour la première
Fois cette fleur silencieuse, la dernière
Que rapprocha de son visage, sans la voir,
Milton. Qui que tu sois, rouge, jaune peut-être
Ou blanche rose au coeur d'un jardin effacé,
Je demande qu'un charme écarte ton passé
Et te fasse éclatante en mon vers apparaitre
Avec tes ors, tes ivoires et tes carmins,
Ou ta ténèbre - ô ténébreuse entre ses mains.

J.L. Borges: Oeuvre poétique 1925-1965

 

QUATRAIN

Others died, but that happened in the past,
Which is the season (no one doesn't know this) most
propitious for death.
Is it possible that I, a subject of Yaqub Almansur,
Must die the way the roses and Aristotle had to die?

From the Diván de Almotásim
el Magrebí (12th century)

[Alan Dugan]

J.L. Borges: Selected Poems 1923-1967

QUATRAIN

D'autres moururent, mais cela arriva dans le passé,
Qui est la saison (personne ne l’ignore) la plus propice à la mort.
Est-il possible que moi, sujet de Yacoub El-Mansour,
Je meure comme durent mourir les roses et Aristote ?

Dans le Divan d'Almotasim El-Maghrebi
(XII siècle),

J.L. Borges: Oeuvre poétique 1925-1965 [éd Gallimard]

Tứ Tuyệt

Những người khác chết, nhưng đó là chuyện xẩy ra trong quá khứ.
Đó là mùa chết: Cuộc chiến Mít
[Chẳng ai biết/nhớ cả, thế mới tếu!]
Liệu chăng, Gấu…  đếch chết?
Và nếu có chết
Thì cũng theo kiểu của những bông hồng
Tàn hôn lên môi
Vùi quên trong tay
Hay như Aristotle, đã từng phải chết? 

Ending for a Ghost Story

I. A. Ireland, English savant born in Hanley in 1871. He claimed descent from the infamous impostor William H. Ireland, who had invented an ancestor, Wiliam Henrye Irlaunde, to whom Shakespeare had allegedly bequeathed his manuscripts. He published A Brief History
of Nightmares (1899), Spanish Literature (1911), The Tenth Book of Annals of Tacitus, newly done into English (1911).

'HOW eerie!' said the girl, advancing cautiously. And what a heavy door!' She touched it as she spoke and it suddenly swung to with a click.
'Good Lord!' said the man, 'I don't believe there's a handle inside. Why, you've locked us both in!' 'Not both of us. Only one of us,' said the girl, and before his eyes she passed straight through the door, and vanished.

Note: Truyện ngắn trên, là từ “The Book of Fantasy”, do Borges biên tập. Bạn đọc nó, song song với dòng thơ Apollinaire, “Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant”, [“Hãy mở cánh cửa này, Gấu đập và khóc ròng], và “BHD và GCC” [A Rose and Milton], thì mới đã!

Đoạn kết một Truyện Ma

I.A Ireland, một nhà bác học Anh, sinh tại Hanley, năm 1871. Ông “bốc phét”, là hậu duệ của tên lừa đảo tai tiếng, William Ireland, ông này thì đã phịa ra 1 ông tổ, Wiliam Henrye Irlaunde; Shakespeare đã từng truyền bản thảo cho ông tổ này.

 “Dễ sợ làm sao”, cô gái nói, dò dẫm bước tới.
“Cái cửa nặng quá!”. Cô sờ vô cánh cửa trong khi nói, và bất thình lình, cái cửa chuyển động, cùng 1 tiếng "click".
“Trời ơi là Trời!” Cậu trai nói. “Tôi không tin có quả đấm ở phía bên trong. Thế là cô nhốt hai đứa rồi. Tại sao?”
“Đâu phải hai đứa. Chỉ anh thôi”.
Cô gái nói, cùng lúc, biến mất, qua cánh cửa đóng.

The Rose of Paracelsus

Trong một truyện ngắn chưa hề in ấn, bản dịch tiếng Anh lần đầu tiên xuất hiện trên một số báo The New York Review of Books, "Bông Hồng của Paracelsus", (1) Jorge Luis Borges kể chuyện một vị đại sư về huyền thuật có tên là Paracelsus, một bữa cầu khẩn "Thượng Đế của ông", xin Ngài gửi tới cho ông một đệ tử. Và một đêm kia, có tiếng gõ cửa, một kẻ lạ xuất hiện, bước vào trong căn phòng. Trông anh ta có vẻ hết sức mệt mỏi. Vị đại sư ra dấu mời khách ngồi. Sau cùng chủ nhà là người lên tiếng trước:
"Tôi nhớ lại tất cả những khuôn mặt từ Đông qua Tây, vậy mà không nhớ ra bạn. Bạn là ai, và bạn mong gì ở tôi?"
"Tên tôi chẳng quan trọng. Tôi đã trải qua một cuộc hành trình ba ngày ba đêm để tới nhà của Ngài. Tôi mong được là đệ tử của Thầy. Tôi mang tới cho Thầy tất cả sản nghiệp của tôi".
Anh đổ sản nghiệp xuống mặt bàn: những đồng tiền, bằng vàng. Một đống tiền. Anh làm việc này với tay phải. Vị đại sư quay lưng đốt cây đèn. Và khi xoay người lại, ông thấy tay trái vị khách lạ cầm một bông hồng. Bông hồng làm ông bối rối.
"Bạn nghĩ tôi có thể tạo nên cục đá biến tất cả mọi vật trở thành vàng, tuy nhiên bạn vẫn mang vàng đến cho tôi. Nhưng tôi không tìm kiếm vàng, và nếu bạn quan tâm đến nó, bạn sẽ không bao giờ có thể là đệ tử của tôi".
"Tôi không quan tâm đến vàng. Những đồng tiền này chỉ để nói lên lòng mong ước của tôi được theo chân Thầy. Tôi muốn Thầy dậy tôi Nghệ Thuật. Tôi muốn bước kế bên Thầy, trên con đường đi tới Cục Đá."
"Con đường 'là' Cục Đá... Mỗi bước đi của bạn, là mục tiêu mà bạn tìm kiếm."
Người đàn ông nhìn vị đại sư, giọng anh thay đổi:
"Nhưng, như vậy là không có mục tiêu?"
Vị đại sư cười lớn:
"Mấy kẻ cố tình lật tẩy tôi, cũng hằng hà sa số như những tên ngu đần; chúng nói như vậy đó: làm gì có mục tiêu, và họ gọi tôi là một kẻ bịp bợm.' Họ tin rằng tôi đã lầm... Tôi biết rằng có Con Đưòng, có Đạo (a Path)."
Yên lặng một hồi, sau cùng người khách lên tiếng:
"Con sẵn sàng đi trên con đường đó với Thầy, cho dù chúng ta có thể sẽ phải đi hoài đi huỷ trong nhiều năm. Hãy cho phép con vượt sa mạc. Hãy cho phép con nhìn thoáng thấy, dù từ xa, đất hứa... Tất cả những gì con đòi hỏi, là một chứng cớ, trước khi bắt đầu cuộc hành trình"
"Khi nào?" Vị đại sư tỏ ra khó chịu.
"Ngay bây giờ". Người khách quyết định tức thời.
Suốt từ đầu, họ nói chuyện bằng tiếng La Tinh. Bây giờ, họ chuyển qua tiếng Đức.
Người đàn ông giơ cao bông hồng:
"Thầy nổi tiếng vì có thể đốt bông hồng thành tro than, và lại làm nó nở ra thành bông hồng, từ mớ tro than đó... Hãy cho con chứng kiến phép lạ. Để đổi lại, con xin dâng hiến trọn đời con."
"Anh quá cả tin. Tôi không cần cả tin. Tôi cần niềm tin."
Người khách nài nỉ:
Bởi vì con không cả tin, nên con muốn chứng kiến tận mắt, sự huỷ diệt và tái sinh của bông hồng".
Vị đại sư lúc này đã cầm bông hồng trên tay, và đang vuốt ve nó.
"Anh thật cả tin. Anh nghĩ rằng tôi có thể huỷ diệt nó?"
"Bất cứ một người nào cũng có sức mạnh huỷ diệt nó".
 "Anh lầm rồi. Anh thực sự tin rằng một điều gì đó có thể biến thành hư vô? Anh tin rằng vị Adam đầu tiên ở Thiên Đàng có thể huỷ diệt một bông hồng đơn độc, một cọng cỏ đơn độc?"
 "Chúng ta không ở Thiên Đàng.", người đàn ông trẻ tuổi cứng đầu trả lời. "Tại đây, trong thế giới trần tục này, mọi vật đều chết".
 "Chúng ta hiện đang ở đâu, nếu không phải là Thiên Đàng? Bạn tin rằng thần thánh có thể sáng tạo ra một nơi không phải là Thiên Đàng? Bạn không tin, rằng Sa Ngã chính là do không nhận ra một điều: chúng ta đang ở Thiên Đàng?"
 "Một bông hồng có thể bị đốt cháy", người trẻ tuổi nói bằng một giọng thách đố.
"Có lửa ở đây", vị đại sư đưa tay chỉ.
 ......
 Người trẻ tuổi cầm bông hồng trên bàn, và ném vào lửa. Một khắc, tựa thiên thu, trôi qua; anh ta chờ đợi phép lạ.
Vị đại sư ngồi bất động. Ông nói, bằng một giọng giản dị:
 "Tất cả những nhà vật lý, dược sĩ tại thành phố Basel này nói tôi là đồ dởm. Có lẽ họ nói đúng. Có tro than vốn xưa là bông hồng, sẽ chẳng còn là bông hồng nữa."
 Người trẻ tuổi cảm thấy xấu hổ. Anh chỉ là một kẻ lén lút xâm nhập nhà vị thầy, vậy mà còn ép buộc ông thú nhận, huyền thuật của ông chỉ là đồ dởm.
Anh ta quì trước vị đại sư và nói:
"Điều tôi làm thật không thể tha thứ được. Tôi thiếu niềm tin, trong khi Thượng Đế đòi hỏi, chỉ một điều, tin tưởng. Hãy cho tôi được tiếp tục, nhìn tro than. Tôi sẽ trở lại, khi nào mạnh mẽ hơn, và sẽ là đệ tử của Ngài, và ở cuối Con Đường, tôi sẽ nhìn thấy bông hồng".
Anh ta nói với một niềm đam mê thực sự, nhưng đam mê này chỉ là lòng thương hại vị thầy già. Ta là ai, hỡi Johannes Grisebach này? Ta là kẻ, bằng bàn tay thiêng liêng ném bông hồng vào lửa, đã khám phá ra rằng, đằng sau mặt nạ, chẳng có một người nào.
Để lại đống vàng có thể là một hành động làm cho những kẻ nghèo đói "bực mình", anh ta lượm tất cả lên. Vị đại sư tiễn khách ra tới cửa, và nói anh luôn luôn là vị khách quí tại nơi đây, nếu trở lại; nhưng cả hai đều biết rõ một điều, chẳng bao giờ còn có lần thứ hai.
Vị đại sư lại cô đơn một mình. Trước khi thổi tắt ngọn lửa, ông trút tí tro than từ lòng bàn tay này qua lòng bàn tay kia, lẩm nhẩm một từ đơn độc. Bông hồng xuất hiện trở lại.

"Khao khát chính cuộc đời của mình...", tôi bỗng nhớ thời của lũ chúng tôi, những giấc mộng, "vốn xưa kia là những giấc mộng nhưng sẽ chẳng còn là những giấc mộng nữa". Và tôi nhận ra, Duật, hay tôi, hay những bạn bè của tôi, bất cứ một kẻ nào, đều có thể là người khách lạ trẻ tuổi, trong câu chuyện của Borges.

Chúng tôi đều đã có dịp gặp vị thầy của mình.

  Vĩnh biệt bạn Duật!
 Nguyễn Quốc Trụ (và bằng hữu).
 *
Liệu độc giả tin rằng, trang TV chính là phép lạ, trên, và BHD xuất hiện trở lại, qua nó?
Dám lắm!

(1) GCC đọc tuyện này trên NYRB. Tờ báo cũng ghi là, inedit. Có trong L.L. Borges: Collected Fictions, Penguin Books
*

The Invisible

Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về... 

Hát ở đâu đâu...

Don't the shadows know something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us. 

Just today I was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly. 

Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine

Liệu những bóng đen biết gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta

Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu

BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?


ROSE

Rose,
the unfading rose beyond my verse-
rose that's full and fragrant,
rose of the black garden in the deep of night,
rose of any garden and any night,
rose that's born again by the art of alchemy
out of tenuous ash,
rose of the Persians and Ariosto,
rose that's always by itself,
rose that's always the rose of roses,
the young Platonic flower,
the blind and burning rose beyond my verse,
unattainable rose.

[Norman Thomas di Giovanni]

J.L. Borges: New and Unreprinted Poems
in Selected Poems 1923-1967


*

Lạ, hiếm, phong trần, tã: Vớ được tại tiệm sách cũ.

THE POET TELLS OF HIS FAME

The rim of the sky is the measure of my glory,
The libraries of the East fight to own my verses,
The rulers seek me out to fill my mouth with gold,
The angels already know my last couplet by heart.
The tools of my art are humiliation and anguish.
Oh, if only I had been born dead!

From the Divan de Abulcasim
el Hadrarni (12th century)

[W. S. Merwin]

Thi sĩ GCC lèm bèm về danh thơm của mình

Vành trời là thước đo vinh quang của tớ
Thư viện Đông Phương giành quyền sở hữu thơ
Mấy tên Trùm VC lôi tớ ra, nhét vàng vô miệng.
Thiên thần thuộc lòng “Tứ tấu khúc", viết cho BHD và Xề Gòn.
Võ khí thần sầu của nghệ thuật làm thơ của GCC,
Là sự nhục nhã, và niềm thống khổ.
Ui, chao, giả như Gấu vừa sinh ra, là ngỏm củ tỏi, nhỉ!

A ROSE AND MILTON

From all the generations of past roses,
Disintegrated in the depths of time,
I want one to be spared oblivion-
One unexceptional rose from all the things
Which once existed. Destiny allows me
The privilege of choosing, this first time,
That silent flower, the very final rose
That Milton held before his face, but could
Not see. a rose, vermilion or yellow
Or white, from some obliterated garden,
Your past existence magically lasts
And glows forever in this poetry,
Gold or blood-colored, ivory or shadowed,
As once in Milton's hands, invisible rose.

[Alastair Reid]

Ending for a Ghost Story

I. A. Ireland, English savant born in Hanley in 1871. He claimed descent from the infamous impostor William H. Ireland, who had invented an ancestor, Wiliam Henrye Irlaunde, to whom Shakespeare had allegedly bequeathed his manuscripts. He published A Brief History
of Nightmares (1899), Spanish Literature (1911), The Tenth Book of Annals of Tacitus, newly done into English (1911).

'HOW eerie!' said the girl, advancing cautiously. And what a heavy door!' She touched it as she spoke and it suddenly swung to with a click.
'Good Lord!' said the man, 'I don't believe there's a handle inside. Why, you've locked us both in!' 'Not both of us. Only one of us,' said the girl, and before his eyes she passed straight through the door, and vanished.

Note: Truyện ngắn trên, là từ “The Book of Fantasy”, do Borges biên tập. Bạn đọc nó, song song với dòng thơ Apollinaire, “Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant”, và “BHD và GCC” [A Rose and Milton], thì mới đã!


Today [8.Dec. 20130] at 11:56 AM

Mời xem một bài (ký tên) cô T. (chắc thật vì giống giọng cổ) đáng xem.
Kính chúc an khang.
TN
 

Tks

Tôi đọc trên Blog NXH, VOA. Vâng đúng là cô T. Cô T. đúng ra hơn thế nhiều, nhưng do qua đây sớm, thành ra thiếu nỗi đau sau 1975, cũng được đi, vì nhiều người cũng thiếu vậy, tuy nhiên, cái băng bạn bè của cô, chẳng có ai được cả. Khi tôi khen cô T. chúng bực lắm!
Cả băng của cô, băng Cờ Lăng, có thằng nào con nào ra hồn đâu, chúng bực cũng phải!
Hà, hà!
Do bạn bè với lũ này, thành ra có vẻ như Cô không đau cái đau của... Steiner, đi thoát Âu Châu trên chuyến tầu chót.
Nhân dịp Giáng Sinh, chúc Bạn và gia đình mọi chuyện an lành.
Thân kính
NQT


MIRRORS AT 4 A.M.

You must come to them sideways
In rooms webbed in shadow,
Sneak a view of their emptiness
Without them catching
A glimpse of you in return.

The secret is,
Even the empty bed is a burden to them,
A pretense.
They are more themselves keeping
The company of a blank wall,
The company of time and eternity

Which, begging your pardon,
Cast no image
As they admire themselves in the mirror,
While you stand to the side
Pulling a hanky out
To wipe your brow surreptitiously.

Charles Simic: Sixty Poems

Gương, 4 giờ sáng

Bạn phải rón rén, me mé, tới đó (1)
Những căn phòng, đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn 1 cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để chúng lén "đợp" lại bạn
Cũng 1 cú! 

Niềm bí ẩn là,
Ngay cả cái giường trống trơn
Thì cũng là 1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy bình yên hơn
Cảm thấy chúng là chúng hơn
Khi có bạn quí cận kề
Là bức tường trần trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu 

Những thứ đó, xin lỗi bạn
Chúng đếch để bóng của chúng
Trên mặt gương
Khi chúng tự sướng 

Trong lúc bạn đứng né qua 1 bên
Rút chiếc khăn tay
Kín đáo lau lông mày

1.      with one side faced forward

<I had to walk sideways to get between the two towering piles of boxes>

Synonyms broadside, crabwise, edgeways [chiefly British] [net]

Thơ Mỗi Ngày

TO LAZINESS

Only you understood
How little time we are given,
Not enough to lift a finger.
The voices on the stairs,
Thoughts too quick to pursue,
What do they all matter?
When eternity beckons.

The heavy curtains drawn,
The newspapers unread.
The keys collecting dust.
The flies either sluggish or dead.
The bed like a slow boat,
With its one listless sail
Made of cigarette smoke.

When I did move at last,
The stores were closed.
Was it already Sunday?
The weddings and funerals were over.
The one or two white clouds left
Above the dark rooftops,
Not sure which way to go.

Charles Simic: That Little Something

 

Gửi Đại Lãn

Chỉ mi biết
Ít ỏi làm sao, thời gian hai đứa còn
Chẳng đủ nhắc điếu thuốc.
Những tiếng nói trên cầu thang,
Ý nghĩ nhanh như chớp, vô phương săn đuổi,
Tất cả nghĩa chi đâu?
Khi vĩnh cửu gật đầu.

Những bức màn nặng được kéo
Những tờ nhựt trình không đọc
Những chiếc chìa khóa thu gom bụi
Những con ruồi lờ đờ, hoặc chết.
Chiếc giường giống như con thuyền chậm chạp
Với một cánh buồm,
Làm bằng khói thuốc lá.

Sau cùng Gấu đành nhúc nhích
Những cửa tiệm đóng cửa
Chủ nhật rồi, ư?
Đám cuới, đám tang thì cũng đã xong
Một, hoặc hai đám mây trắng bị bỏ lại trên mái nhà
Đếch biết chọn hướng nào
Làm chuyến giang hồ vặt.

Hà, hà!
Chán quá!

August 9, 1998

One Art

The art of losing isn't hard to master;
so many things seem filled with the intent
to be lost that their loss is no disaster.

Lose something every day. Accept the fluster
Of lost door keys, the hour badly spent.
The art of losing isn't hard to master.

Then practice losing farther, losing faster:
places, and names, and where it was you meant
to travel. None of these will bring disaster.

I lost my mother's watch. And look! my last, or
next-to-last, of three loved houses went.
The art of losing isn't hard to master.

I lost two cities, lovely ones. And, vaster,
some realms I owned, two rivers, a continent.
I miss them, but it wasn't a disaster.

-Even losing you (the joking voice, a gesture
I love) I shan't have lied. It's evident
the art of losing's not too hard to master
though it may look like (Write it!) like disaster.

-Elizabeth Bishop, The Complete Poems, 1927-1979,
Farrar, Straus & Giroux

Robert Hass: Now & Then

Một Nghệ Thuật

Nghệ thuật mất, đạt đến mức thượng thừa, không khó.
Rất nhiều thứ ở trên đời này, sinh ra là để được –không “bị được” nhe! - mất đi.
Và cái sự mất đi như thế, đếch phải 1 thảm họa! 

Mất một cái gì đó, mọi ngày.
Chấp nhận tí bối rối mất mẹ chùm chìa khoá
Hay một giờ qua đi "uổng" cú mèo!
Nghệ thuật mất đâu có khó, trở thành Trùm, Đại Sư Phụ.

Thực tập dài, mất ông via,
Mất làm sao nhanh hơn nữa, nhất là thứ ông via BHD!
Nơi chốn, và tên, và ở đâu,
Chúng có nghĩa gì đối với bạn để làm 1 cú du lịch.
Chẳng có thứ nào sẽ đem đến thảm họa.

Tôi mất cái đồng hồ của ông bố.
Và này! Cái cuối cùng, cái trước cái cuối cùng, của ba căn nhà yêu thương,
ba mái nhà ấm cúng của tôi, đều cúng cho VC cả!

Nghệ thuật mất mát đâu có khó để đạt đến mức thượng thừa!
Gấu mất hai thành phố, hai thành phố thật yêu thương, Hà Nội, rồi Xề Gòn.

Và rộng hơn nữa,
Hai cõi, kiếp, khác mà Gấu sở hữu, hai con sông [Sông Hồng, Sông Xề Gòn], một đại lục [Á Châu]
Gấu nhớ chúng, nhưng đâu phải một thảm họa? 

-Ngay cả mất Sea Gull [giọng têu tếu, cái cử chỉ tất tả đi mua cà phe mà Gấu mê],
Mất thêm MCNK
GCC cũng đành!
Hà, hà!
Hiển nhiên là nghệ thuật mất mát, Gấu cũng đã tới mức chẳng thua ai!

Tuy nhiên quả đúng, thảm họa
Viết ra đi: Thảm họa!

JUNE 20 [1999]

Father's Day: Li-Young Lee

Here is a poem by Li- Young Lee, from his first book, Rose (BOA Editions.) Lee lives in Chicago and is the author of two widely admired books of poetry and a memoir. He was born in Jakarta, Indonesia, in 1957, of Chinese parents. The following year his father was arrested by the government of President Sukarno and spent a year as a political prisoner. The family fled Indonesia when the father was released, traveling from Hong Kong to Macau to Japan, and in 1964, when Lee was seven, they settled in the United States. Here is a poem about his father:

The Gift

To pull the metal splinter from my palm
my father recited a story in a low voice.
I watched his lovely face and not the blade.
Before the story ended, he'd removed
the iron sliver I thought I'd die from.

I can't remember the tale,
but hear his voice still, a well
of dark water, a prayer.
And I recall his hands,
two measures of tenderness
he laid against my face,
the flames of discipline
he raised above my head.

Had you entered that afternoon
you would have thought you saw a man
planting something in a boy's palm,
a silver tear, a tiny flame.
Had you followed that boy
you would have arrived here,
where I bend over my wife's right hand.

Look how I shave her thumbnail down
so carefully she feels no pain.
Watch as I lift the splinter out.
I was seven when my father
took my hand like this,
and I did not hold that shard
between my fingers and think,

Metal that will bury me,
christen it Little Assassin,
Ore Going Deep for My Heart.
And I did not lift up my wound and cry,

Death visited here!
I did what a child does
when he's given something to keep.
I kissed my father.

"The Gift," read once, would seem to be a fairly straightforward poem about learning loving and nurturing behavior from a loving and nurturing father. It's very pleasing that way, but there's a lot in the poem that such a reading doesn't account for. And so it's a good example of how much difference the active participation of the reader makes. We have to notice that it's also written in such a way that it's about how time collapses. The story of the father and the son folds so seamlessly into the story of the husband and wife. And it's about something more complicated in the relation of father and son. The hands that touch the boy so tenderly are also the "flames of discipline" that were raised above the boy's head. And the metal sliver is a "flame," a tear and a flame, and the father seems to be planting it in the son. So the poem is about learning love and punishment from the same hands. And it's about the metal sliver as the knowledge of mortality. The son, in the course of things, will bury the father. He is the "Little Assassin" and that knowledge, it would seem, is what goes for the heart. It's complicated, in the way that poetic logic often is, because it can mean in contradictory ways at the same time. If the son is the little assassin, and the sliver is also the little assassin, and the sliver is experienced as the threat of death, then the son is his own death, planted in his palm by his father. This is dream logic, the logic of each individual's sense of fate, and it is subterranean, like the father's story, "a well of dark water, a prayer." So interesting: the love the boy learned from the father he gives to the wife, as a gift; all the rest, too complicated to say, in a physical act, he gives to the poem.

Robert Hass: Now & Then

Note: Bài thơ này, tính post chào mừng cuốn sách mới ra lò của bạn LVT, về “thuốc phiện của chúng ta thời này, là lũ nhóc”. Nhưng đọc, thấy căng quá!
Hà, hà!
Căng thật. Và, tuyệt thật.

Trên TV, đã từng giới thiệu Li-Yong Lee.

THAT LITTLE SOMETHING

for Li-Young Lee

 The likelihood of ever finding it is small.
It's like being accosted by a woman
And asked to help her look for a pearl
She lost right here in the street. 

She could be making it all up,
Even her tears, you say to yourself,
As you search under your feet,
Thinking, Not in a million years ... 

It's one of those summer afternoons
When one needs a good excuse
To step out of a cool shade.
In the meantime, what ever became of her? 

And why, years later, do you still,
Off and on, cast your eyes to the ground
As you hurry to some appointment
Where you are now certain to arrive late?

Charles Simic 

Dịch theo kiểu classic : 

Một chút gì 

Sẽ chẳng bao giờ biết được đâu
Chút gì rất nhẹ ... tựa hôm nào
Nàng đến kề bên, nhờ tìm giúp
Giữa đường rơi một hạt minh châu 

Có thể rằng Nàng bịa đấy thôi
E rằng nước mắt cũng vờ rơi
Mắt dò dưới chân, lòng thầm nghĩ
Tìm suốt triệu năm cũng chỉ hoài 

Hôm ấy, một chiều của mùa hè
Cuồng chân trong bóng mát im che
Viện trăm ngàn cớ mà ra khỏi ...
Còn Nàng , vì cớ gì vậy kìa ? 

Thế thôi mà sao sau bao năm
Thi thoảng mắt lại dò mặt đường
Những lần vội đến nơi hò hẹn
Dù biết mười mươi, trễ, chuyện thường

K

Tks. NQT

GCC biết đến cái tên Li-Young Lee là qua bài thơ trên.
*

Ngu Yên

Đọc Thơ Trước Nửa Đêm

Anna Swir  ('Swirszczynska)Anna Swir  ('Swirszczynska) ( 1909-1984 ) sinh ở Warsaw. Tốt nghiệp đại học về Văn chương Ba lan. Bà làm thơ, viết kịch và truyện trẻ em. Qua đời vì bệnh ung thư 1984 tại Keakow

Note: Krakow, không phải Keakow.
Bài thơ này, TV cũng đã giới thiệu.

ANNA SWIR
1909-1984

Poetry readings are not common in some countries. In others, among them Poland, they draw an audience that doesn't treat poetry as an aesthetic experience only.
Rather, in one way or another, such audiences bring to the event their multiple questions about life and death. This poem captures well the ignorance and helplessness of both the poet and her listeners.
Đọc thơ thì hơi bị hiếm ở vài xứ sở. Ở những xứ khác, trong có Ba Lan, thính giả kéo t
i không chỉ để nghe đọc thơ, như 1 kinh nghiệm thẩm mỹ, mà còn ưu tư về chuyện sống, chết, ba cái lăng nhăng khác nữa. Bài thơ dưới đây nắm bắt đúng cái sự ngỡ ngàng, vô tri, bất lực, giữa ngưi đọc, và người nghe, thơ.

POETRY READING

I'm curled into a ball
like a dog
that is cold.

Who will tell me
why I was born,
why this monstrosity
called life.

The telephone rings. I have to give
a poetry reading.

I enter.
A hundred people, a hundred pairs of eyes.
They look, they wait.
I know for what.
I am supposed to tell them
why they were born,
why there is
this monstrosity called life.

Đọc thơ

Lạnh,
Tôi cuộn người thành trái banh
Như giống chó thường làm 

Ai sẽ nói cho tôi biết
Tại sao tôi sinh ra
Tại sao cái quỉ ma này
gọi là cuộc đời

Chuông điện thoại
Tôi phải đi một đường đọc thơ
cho thính giả mê thơ

Tôi đi vô
Cả trăm người
Cả trăm cặp mắt
Họ nhìn
Họ đợi
Tôi biết họ đợi gì
Đợi tôi nói với họ
Tại sao họ sinh ra
Tại sao có cái quỉ ma gọi là cuộc đời

Translaled from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan

LATE SEPTEMBER

The mail truck goes down the coast
Carrying a single letter.
At the end of a long pier
The bored seagull lifts a leg now and then
And forgets to put it down.
There is a menace in the air
Of tragedies in the making.

Last night you thought you heard television
In the house next door.
You were sure it was some new
Horror they were reporting,
So you went out to find out.
Barefoot, wearing just shorts.
It was only the sea sounding weary
After so many lifetimes
Of pretending to be rushing off somewhere
And never getting anywhere.

This morning, it felt like Sunday.
The heavens did their part
By casting no shadow along the boardwalk
Or the row of vacant cottages,
Among them a small church
With a dozen gray tombstones huddled close
As if they, too, had the shivers.

Charles Simic: The Voice at 3:00 AM 

Tháng Mười Cũ

Xe thư chạy xuống bờ biển
Với chỉ một lá thư
Ở cuối một bến tàu dài
Con hải âu chán đời, nhắc,
hết chân phải lại đến chân trái
Và quên bỏ xuống
Trong không khí có mùi đe dọa
Về những bi kịch đang thành hình

Đêm qua bạn nghĩ bạn có nghe tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin chắc
Về một ghê rợn mới
Họ đang báo cáo
Và thế là bạn bò ra đường để kiếm
Chân trần, quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là tiếng sóng biển
Ưu tư về không biết là bao nhiêu là đời
Cứ phải giả đò, từ đâu đổ xuống nơi đây
Và chẳng bao giờ đi bất cứ nơi đâu

Sáng nay, sao giống như Chủ Nhật
Ông Giời cà chớn chắc là cũng có góp phần
Trong cái việc, đếch đem một cái bóng râm nào
Đổ xuống hai bên hè đường
Hay là ở rặng những cái lều trống trơn
Trong số đó, là 1 ngôi nhà thờ nhỏ
Với trên chục cái bia mộ bằng đá
Xúm lại với nhau
Như thể, chúng, đôi lúc, cũng rùng mình.


*

Trong cuốn của Robert Hass, Gấu mới dinh về, có bài "Cơn giận dữ của Chekhov", Chekhov's anger, thật là tuyệt, và lại có tí tính thời sự, vì liên quan đến truyện ngắn, và truyện ngắn mới được Nobel.
Gấu chép lại ở đây, mấy câu thật thú, đọc khi ở tiệm sách, và vì thế mà dinh về dinh [đưa nàng về dinh!]:

Chúng ta được dạy từ những người viết giả tưởng của thế kỷ 19, là đọc tác phẩm, vì cái nhìn của nó, không chỉ về những cuộc đời riêng tư, mà về trọn xã hội.

We have been taught by the fiction writers of the nineteenth century to read work for its view not just of individual lives but of a whole society.

Chekho tính làm cú này, không phải viết rộng và mang tính biểu tượng, largely and symbolically, nhưng choàng lên một khối lượng khổng lồ những cuộc đời Nga, but by covering immense amounts of Russian life.
Cẩm như Trò Đời, Comédie humaine, của Balzac, của Tẩy.

Nhưng câu kết bài viết mới cực thú:
Nếu Chekhov không phải là một trong những nhà tiểu thuyết gia vĩ đại nhất, thì ông là 1 trong những nhà thi sĩ lớn lao nhất.

Robert Hass, 1986.