|
Cái Tốt vs Cái
Ky Tô!
Christianity
has been stigmatised "as a redoubt of ignorance", as has the word
"liberal…as if generosity were culpable".
Tinh thần Ky
Tô bị bêu rếu như “đồn nhỏ, ga xép của sự ngu dốt", như thể "rộng luợng
là phạm tội"!
Star of
the Nativity
In the cold
season, in a locality accustomed to heat more than
to cold, to
horizontality more than to a mountain,
a child was
born in a cave in order to save the world;
it blew as
only in deserts in winter it blows, athwart.
To Him, all
things seemed enormous: His mother's breast, the steam
out of the
ox's nostrils, Caspar, Balthazar, Melchior-the team
of Magi,
their presents heaped by the door, ajar.
He was but a
dot, and a dot was the star.
Keenly,
without blinking, through pallid, stray
clouds, upon
the child in the manger, from far away-
from the
depth of the universe, from its opposite end-
the star was
looking into the cave. And that was the Father's stare.
December 1987
Joseph
Brodsky: So Forth
Đêm Thánh Vô
Cùng
Vào một mùa
lạnh, tại một miền đất quen với nóng nhiều hơn là lạnh
quen với đồng
bằng hơn là núi non,
một đứa bé
sinh ra trong một hang cỏ, để cứu vớt thế giới ;
gió thổi như
nó chỉ thổi ở trong những sa mạc vào mùa đông, từ bên này qua tới bên
kia.
Với Cậu Bé,
mọi thứ, mọi vật có vẻ như thật lớn lao: vú mẹ, làn hơi từ
mũi con bò,
Caspar, Caspar, Balthazar, Melchior – toán Magi, những quà tặng của họ
thì chồng
ở bên cửa, hé mở.
Cậu Bé chỉ
như một điểm và một điểm là ngôi sao.
Hào hứng,
không chớp mắt, qua những
đám mây xanh
xao, lạc lõng, ở phía bên trên đứa bé ở trong máng cỏ, xa thật xa -
từ chốn sâu
thẳm của vũ trụ, từ phía tận cùng đối nghịch -
ngôi sao
chăm chú nhìn vào trong hang. Và đó là cái nhìn của Vì Cha (1)
Rough Outline
The famous torturer takes a walk
Whom does he see standing there in the snow
A pretty girl in a wedding dress
What are you doing out there all alone in the cold
You're the famous torturer much
feared
I beg you to spare my love
Who is in your darkest prison cell
I wish to marry him etc.
I will not give back your
bridegroom
He must be tortured tonight
By me personally
You can come along and help him lament his fate
She remained where she was
The night was cold and very long
Down by the slaughterhouse a, dog-like creature howled
Then the snow started to fall again
Charles Simic
Nan
Đề
Tên tra tấn nổi tiếng làm 1
cú tản bộ
Ai đứng ngoài
tuyết kia?
Một cô gái đẹp trong chiếc áo cưới
Làm sao mà đứng giữa trời tuyết một mình cô em?
Ông là tên tra tấn nổi tiếng và
ai cũng rất sợ
Tôi năn nỉ ông tha cho người yêu của tôi
Đang nằm trong phòng giam âm u
Tôi mong được kết hôn với anh ta, vân vân và vân vân
Ta sẽ không trả lại chú rể cho
cô bé đâu
Tối nay nó sẽ bị tra tấn
Cô có thể tới coi
Và giúp anh ta than thở số phận của mình
Cô gái đứng đó, nơi cô đứng đó
Đêm thì lạnh và thật là dài
Ở bên dưới phố, Phượng Trong Thành Nội,
kế bên căn nhà đồ tể
một con vật
giống như 1
con chó sói
tru lên.
Và tuyết lại bắt đầu đổ
xuống
LINDENS
So much sweetness-
the city's been anesthetized;
a skinny boy, who barely
takes up space on earth,
and a dog,
and I, a soldier in an unseen war,
and a river I love.
The lindens bloom.
Đoan
Ngọt quá –
Thành phố lịm đi
Một đứa trẻ gầy gò, vừa mới ló ra với đời
Và một con chó
Và tôi, một tên lính trong 1 cuộc chiến không nhìn thấy
Và 1 con sông mà tôi yêu
Đoan nở rộ
SEPARATION
I read almost with envy my contemporaries' verse:
divorces, partings, wrenching separations; anguish, new beginnings,
minor deaths;
letters read and burned, burning, reading, fire, culture,
anger and despair-the very stuff of potent poems;
stern verdicts, mocking laughter of the lofty moralists,
then finally the triumph of the all-enduring self.
And for us? No elegies, no sonnets about parting,
a poem's screen won't rise between us,
apt metaphors can't sever us,
the only separation that we don't escape is sleep,
sleep's deep cave, where we descend alone
-and I must keep in mind that the hand
I'm clasping then is made of dreams.
Xa cách
Tôi đọc mà phát thèm thơ những
người cùng thời:
Ly dị, bỏ đi, đau đớn mỗi người một ngả
Nhức nhối, khởi đầu mới, chết lãng xẹt;
Thư đọc, và đốt, cháy, đang đọc, lửa, văn hóa
giận dữ và chán chường - bảnh nhất thì cũng chỉ tới cỡ đó, thứ thơ ca
mãnh liệt;
những lời tuyên án nghiêm khắc, cái cười chế nhạo của mấy đấng đạo đức
kiêu căng
Và sau cùng là sự chiến thắng của cái tôi to tổ bố, vừa dai vừa dài vừa
dở như hạch.
Và cho chúng ta ư? Không bi
khúc, ai điếu, không trường đình, đoản đình tiễn biệt
Màn hình bài thơ không hiện ra giữa chúng ta
ẩn dụ oách hay không oách chẳng thể phục vụ chúng ta.
Cú chia cách độc nhất mà chúng ta không thể trốn thoát là… ngủ.
Cái hang sâu hoắm của giấc ngủ, nơi chúng ta xuống, một mình -
Và luôn tỉnh táo, ghi vô trong đầu, cái bàn tay
[Ở trong rạp xi nê, bữa trước khi đi trình diện
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung]
Cái bàn tay mà Gấu cầm bữa đó,
thì làm bằng những giấc mộng.
Date: Sun,
12 Sep 2010 16:48:26 -0700
Dear GNV,
How have you
been? I hope you enjoy your vacation and take care.
Bac Gau oi,
dung lien luy nhieu voi cay viet khac.
Enjoy your
works, your life and family.
Your readers
and your family need you and are more important.
Soon,
H/A
Take Care.
Merry Christmas
to U and Family
Dec, 25,
2011
NQT
A Song
I wish you
were here, dear,
I wish you
were here.
I wish you
sat on the sofa
and I sat
near.
The
handkerchief could be yours,
the tear
could be mine, chin-bound.
Though it
could be, of course,
the other
way around.
I wish you
were here, dear,
I wish you
were here.
I wish we
were in my car,
and you'd
shift the gear.
We'd find
ourselves elsewhere,
on an
unknown shore.
Or else we'd
repair
to where
we've been before.
I wish you
were here, dear,
I wish you
were here.
I wish I
knew no astronomy
when stars
appear,
when the
moon skims the water
that sighs
and shifts in its slumber.
I wish it
were still a quarter
to dial your
number.
I wish you
were here, dear,
in this
hemisphere,
as I sit on
the porch
sipping a
beer.
It's
evening, the sun is setting;
boys shout
and gulls are crying.
What's the
point of forgetting
if it's
followed by dying?
1989
Brodsky: So Forth
Anh
mong có em ở đây
Trên
nửa trái cầu này
Khi
anh ngồi bên thềm
Nhấm
nháp ly bia.
Đó là một buổi
chiều, mặt trời đi ngủ rồi.
Con nít la hét
và hải âu, khóc.
Ích chi đâu, quên em
Nếu sau đó, ngỏm?
THE YOUNG
NIGHT
And now the
lustral waters of night absolve me
from the
many colors and the many forms.
In the
garden, birds and stars exalt
the
longed-for return of the ancient norms
of sleep and
shadow. Darkness is sealing
the mirrors
which copy the fiction of things.
Goethe said
it best: everything near becomes far.
Those four
words capture the entire twilight.
In the
garden, roses cease to be roses;
they wish to
be the Rose.
-C.M.
J.L Borges: Poems of the Night
Đêm Trẻ
Và bây giờ những
con nước rửa tội của đêm giải phóng Gấu
Ra khỏi rất
nhiều màu sắc, hình dạng
Ngoài vuờn,
chim và sao ca ngợi
Sự trở lại hằng mong đợi
Của những chuẩn mực xa xưa
Về Ngủ Nghê
và Bóng Tối.
Đêm Đen đang
đóng khằn những tấm gương,
Chúng sao chép
giả tưởng sự vật
Goethe chẳng
đã thật cực bảnh, khi phán:
Mọi chuyện gần trở thành
xa.
Chỉ nội
dúm
từ đó thâu đoạt trọn hoàng hôn
Trong vườn,
những bông hồng ngưng là những bông hồng;
Chúng muốn
trở thành BHD
Thơ
Mỗi Ngày
by CM, London
Lưới khuya, hồn ốc
lạc thiên đường
CM @ London
Mỗi bài thơ là một khó.
Thường xuyên, dòng đầu là quà tặng,
tôi không biết, của Giời hay của khả năng bí hiểm mà người ta gọi là
hứng khởi.
Thí dụ bài Sun Stone, Đá Mặt Trời, của tôi: Tôi viết ba muơi dòng đầu,
như có
một người nào đó âm thầm đọc cho tôi chép. Tôi ngạc nhiên thấy thơ cứ
thế tuôn
trào, chúng như ở thật xa, mà cũng như thật gần, như ở ngay trong lồng
ngực.
Bất thình lình, ngưng! Tôi đọc lại, thấy chẳng phải sửa chữa gì hết.
Nhưng đó
chỉ là đoạn mở. Và tôi chẳng làm sao tiếp tục. Vài ngày sau, tôi khởi
sự tiếp,
không phải theo kiểu thụ động, mà là cố đẩy những dòng về hướng này,
hướng nọ,
và tôi viết thêm được ba muơi, hoặc bốn mươi dòng nữa. Tôi ngưng. Vài
ngày sau,
lại trở lại với nó. Bằng cách dị mọ như vậy, tôi khám phá ra trọn giọng
điệu
của bài thơ, và nó hướng về đâu. Nó giống như một cách điểm lại đời
mình, một
sự tái sinh của kinh nghiệm, nỗi quan hoài, những thất bại, những ám
ảnh của
tôi. Tôi nhận ra tôi đang sống khúc cuối tuổi trẻ của mình, và bài thơ,
cùng
lúc, vừa là một tận cùng, vừa là một bắt đầu.
Octavio Paz (1)
THIS DAY
wind knows
what love is
the summer
day flashing royal colors
a lone
fisherman surveys
the world's
wound
a struck
bell swells
people
strolling in the afternoon
please join
the year's implications
someone
bends toward a piano
someone
carries a ladder past
sleepiness
has been postponed a few minutes
only a few
minutes
the sun
researches shadow
and drinking
water from a bright mirror
I see the
enemy within
an oil
tanker
the tenor's
song enrages the sea
at three in
the morning I open a tin can
setting some
fish on fire
Bei Dao: The
ROSE of TIME
Edited
by Eliot Weinberger
[Note: To DV: Làm ơn dịch
bài trên. Tks. NQT]
Hi bác G,
D.V mới đọc bản dịch
bài "This day" từ
bản Anh ngữ của bác, có những chỗ sáng sủa và "bảnh" hơn như
"cơn buồn ngủ bị cưỡng lại vài phút"...
Chữ "cưỡng lại" thực sự đúng và hay hơn.
Riêng câu cuối "Đưa mấy con cá lên giàn hỏa" quả là
có một khoảng cách, nếu so với nguyên tác của Bei Dao.
Kính,
D.V
Re: “cưỡng lại”. Bản tiếng Anh dùng từ “postponed", như bản tiếng
Việt của bạn, “bị đẩy lui”. Nhưng Gấu thấy từ "cưỡng" của Mít, quá đắc
địa
ở đây!
Tks.
Take Care, and Merry Christmas to all there.
NQT
Ngày này
Gió biết rõ
tình yêu
Ngày hè lấp
lánh sắc màu vương giả
Người câu cá
cô độc đang đo lường
vết thương của
mặt đất
Chuông ngân
vang đang trương nở
Người rảo bước
sau ngọ
Xin hãy thêm
vô hàm nghĩa của tháng năm này
Có người cúi
mình xuống dương cầm
Có người vác
thang đi qua
Cơn buồn ngủ
bị đẩy lùi mấy phút
Chỉ là mấy
phút
Mặt trời
đang coi xét chiếc bóng
Tôi uống nước
từ tấm gương sáng
Nhìn thấy kẻ
địch của lòng mình
Tiếng hát của
một giọng nam cao
Giống tàu chở
dầu chọc giận biển lớn
Tôi mở lon đồ
hộp lúc ba giờ sáng
Để những con
cá tỏa ánh rạng ngời.
From my iFone
Gửi bác bản
tạm dịch bài “This day” của Bei Dao. Chúc bác vui luôn.
D.V
Tks
Many Tks.
Take Care. GNV.
Gấu sẽ đi 1 đường dịch, từ bản tiếng Anh, sau.
Có tí khác biệt, giữa hai bản dịch, tiếng Việt của DV và tiếng Anh, của
Eilot Weinberger.
[Trong Now
& Then, Robert Hass, trong 1 bài viết về Rilke, đã đưa ra
chừng 10 bản dịch,
tiếng Anh, của 1 bài thơ của Rilke. Bài này thú lắm, cho thấy, dịch
thơ, theo
GCC, càng có nhiều bản dịch, càng tốt, và đừng bao giờ sợ sai ý của
nguyên tác.
Borges sửa thơ của chính ông hoài. Thành ra, tờ TLS khuyên, tốt nhất,
bạn nên học
tiếng Tây Ban Nha, để có nhiều bản dịch, của 1 bài thơ, của chính
Borges, do
Borges sửa đi sửa lại!]
Ngày này
Gió biết tình
yêu là gì
Ngày hạ, sắc
màu vương giả lấp lánh
Một ông câu
trơ trọi
Đo vết thương
của thế giới
Chuông ngân
vang rền rĩ,
Người tản bộ
sau ngọ
Làm ơn nhập vào những hàm
ngụ của năm
Một người nào
đó cúi xuống chiếc dương cầm
Một người nào
đó vác thang qua
Cơn buồn ngủ
bị cưỡng lại vài phút
Chỉ vài phút
Mặt trời kiếm cái bóng
Uống nước từ gương sáng,
Tôi nhìn thấy
kẻ nội thù
Một
chiếc tàu chở dầu
Tiếng
hát giọng nam cao chọc giận biển
Ba
giờ sáng tôi mở lon thiếc
Đưa mấy chú cá lên giàn hỏa.
Thơ
Mỗi Ngày
Lưới khuya, hồn ốc
lạc thiên đường
CM @ London
Octavio Paz
The Other
He invented
a face for himself.
Behind it
he lived
died and was reborn
many times.
His face now
has the
wrinkles from that face.
His wrinkles
have no face.
Kẻ Kia
Hắn phịa ra
1 bộ mặt cho chính hắn
Đằng sau nó
Hắn sống chết
và tái sinh nhiều lần
Mặt của hắn
bây giờ có nhiều vết nhăn từ bộ mặt đó
Những vết nhăn
của hắn không có bộ mặt
Epitaph for
an Old Woman
They buried
her in the family tomb
and in the
depths the dust
of what was
once her husband trembled
Bia mộ cho một
người đàn bà già
Họ chôn bà
trong ngôi mộ gia đình
Và ở duới sâu,
bụi
vốn xưa là
chồng bà
rùng mình.
Octavio
Paz's Poems, Edited and translated by Eliot Weinberger
Bei Dao
WE
lost souls
and scattered spirits
holding
lanterns chase spring
scars
shimmer, cups revolve
light's
being created
look at that
enchanting moment
a thief
steals into a post office
letters cry
out
nails o
nails
the lyrics
never change
firewood
huddles together
searching
for an audience to listen
searching
for the heart of winter
river's end
a boatman
awaiting boundless twilight
there must
be someone to rewrite love
Chúng ta
những linh hồn
mất, những tinh anh lạc
cầm đèn rượt
mùa xuân
những vết sẹo
sáng mờ mờ, nhưng cái ly xoay xoay
ánh sáng được
tái tạo
hãy nhìn cái
khoảnh khắc thần sầu đó
một tên trộm
chui vô bưu điện
những lá thư
khóc toáng lên
tay em, móng
nhọn, ôi móng nhọn
những bản nhạc
vàng, nhạc sến chẳng hề thay đổi
pháo bông xúm
lại
kiếm một diễn
đàn lắng nghe
kiếm trái
tim mùa đông
cuối sông
một anh chèo
thuyền đợi cõi mộng mị vô bờ bến
Ở đó phải có
1 tên nào đó viết lại tình yêu
THIS DAY
wind knows
what love is
the summer
day flashing royal colors
a lone
fisherman surveys
the world's
wound
a struck
bell swells
people
strolling in the afternoon
please join
the year's implications
someone
bends toward a piano
someone
carries a ladder past
sleepiness
has been postponed a few minutes
only a few
minutes
the sun
researches shadow
and drinking
water from a bright mirror
I see the
enemy within
an oil
tanker
the tenor's
song enrages the sea
at three in
the morning I open a tin can
setting some
fish on fire
Bei Dao: The
ROSE of TIME
Edited
by Eliot Weinberger
[Note: To DV: Làm ơn dịch
bài trên. Tks. NQT]
Ngày này
Gió biết rõ
tình yêu
Ngày hè lấp
lánh sắc màu vương giả
Người câu cá
cô độc đang đo lường
vết thương của
mặt đất
Chuông ngân
vang đang trương nở
Người rảo bước
sau ngọ
Xin hãy thêm
vô hàm nghĩa của tháng năm này
Có người cúi
mình xuống dương cầm
Có người vác
thang đi qua
Cơn buồn ngủ
bị đẩy lùi mấy phút
Chỉ là mấy
phút
Mặt trời
đang coi xét chiếc bóng
Tôi uống nước
từ tấm gương sáng
Nhìn thấy kẻ
địch của lòng mình
Tiếng hát của
một giọng nam cao
Giống tàu chở
dầu chọc giận biển lớn
Tôi mở lon đồ
hộp lúc ba giờ sáng
Để những con
cá tỏa ánh rạng ngời.
From my iFone
Gửi bác bản
tạm dịch bài “This day” của Bei Dao. Chúc bác vui luôn.
D.V
Tks
Many Tks.
Take Care. GNV.
Gấu sẽ đi 1 đường dịch, từ bản tiếng Anh, sau.
Có tí khác biệt, giữa hai bản dịch, tiếng Việt của DV và tiếng Anh, của
Eilot Weinberger.
[Trong Now
& Then, Robert Hass, trong 1 bài viết về Rilke, đã đưa ra
chừng 10 bản dịch,
tiếng Anh, của 1 bài thơ của Rilke. Bài này thú lắm, cho thấy, dịch
thơ, theo
GCC, càng có nhiều bản dịch, càng tốt, và đừng bao giờ sợ sai ý của
nguyên tác.
Borges sửa thơ của chính ông hoài. Thành ra, tờ TLS khuyên, tốt nhất,
bạn nên học
tiếng Tây Ban Nha, để có nhiều bản dịch, của 1 bài thơ, của chính
Borges, do
Borges sửa đi sửa lại!]
Ngày này
Gió biết tình
yêu là gì
Ngày hạ, sắc
màu vương giả lấp lánh
Một ông câu
trơ trọi
Đo vết thương
của thế giới
Chuông ngân
vang rền rĩ,
Người tản bộ
sau ngọ
Làm ơn nhập vào những hàm
ngụ của năm
Một người nào
đó cúi xuống chiếc dương cầm
Một người nào
đó vác thang qua
Cơn buồn ngủ
bị cưỡng lại vài phút
Chỉ vài phút
Mặt trời kiếm cái bóng
Uống nước từ gương sáng,
Tôi nhìn thấy
kẻ nội thù
Một
chiếc tàu chở dầu
Tiếng
hát giọng nam cao chọc giận biển
Ba
giờ sáng tôi mở lon thiếc
Đưa mấy chú cá lên giàn hỏa.
Ngủ đi,
thung lũng
Ngủ đi,
thung lũng
mau lấy mây
mù xanh che khung trời
che con mắt
bông huệ tây xanh xao
Ngủ đi,
thung lũngmau lấy nhịp
chân mưa đuổi theo ngọn gió
đuổi theo tiếng
hót thấp thỏm của chim cu
Ngủ đi,
thung lũng
chúng tôi nấp
ở đây
cứ như nấp
vào giấc mộng ngàn năm
thời gian
thôi chẳng còn trượt qua lá cỏ
đồng hồ mặt
trời ngưng sau tầng mây
cũng thôi
không lay rụng ráng chiều với hừng đông
Cây rừng vặn
mình
thả rơi vô số
quả thông cứng
bảo vệ hai
hàng dấu chân
tuổi thơ
chúng tôi cùng rảo bước
với mùa
màng quanh co đường nhỏ
phấn hoa
dính đầy những bụi tầm gai
Ôi, vắng lặng
sao
phiến đá ném
đi không vọng tiếng
có lẽ, bạn
đang tìm kiếm điều chi
-từ tim đến tim
một cầu vồng
lặng lẽ dâng cao
-từ mắt đến
mắt
Ngủ đi,
thung lũng
gió, ngủ đi
thung lũng
ngủ say trong mây mù xanh
gió, trong
lòng bàn tay chúng tôi say ngủ.
Bei Dao: The
Rose of Time, p12
Ps: Bác có
thấy bài thơ này có cái khí hậu Tứ
Tấu Khúc của bác không:)
Tks. NQT
SLEEP,
VALLEY
Sleep,
valley
with blue
mist quickly cover the sky
and the wild
lilies' pale eyes
Sleep,
valley
with rainsteps
quickly chase away the wind
and the
anxious cries of the cuckoo
Sleep,
valley
here we hide
as if in a
thousand-year dream
time no
longer glides past blades of grass
stopped
behind layers of clouds, the sun's clock
no longer
swings down evening glow or dawn
Spinning
trees
toss down
countless hard pine cones
protecting
two lines of footprints
our
childhoods walked with the seasons
along this
winding path
and pollen
drenched the brambles
Ah, it's so
quiet and still
the cast
stone has no echo
perhaps you
are searching for something
-from heart
to heart
a rainbow
rises in silence
- from eye
to eye
Sleep,
valley
sleep, wind
valley,
asleep in blue mist
wind, asleep
in our hands
Bei Dao
Quả đúng là khí hậu Tứ Tấu Khúc, như K. có lần phán,
dẹp cả cuộc đời qua 1 bên, lấy cả thiên thu cho... quá khứ!
Hà, hà!
Tks All of U
NQT
Thơ
Mỗi Ngày
Dịch loạn: Kẻ
nào tính cạo đầu nên nghĩ đến thơ ca.
Début et fin
de la neige
« PREMIERE
NEIGE ... »
Première
neige tôt ce matin. L' ocre, le vert
Se refugient
sous les arbres.
Seconde,
vers midi. Ne demeure
De la
couleur
Que les
aiguilles de pins
Qui tombent
elles aussi plus dru parfois que la neige.
Puis, vers le
soir,
Le fléau de
la lumière s'immobilise.
Les ombres
et les rêves ont même poids.
Un peu de
vent
Écrit du
bout du pied un mot hors du monde.
Beginning
and End of the Snow
"FIRST
SNOWFALL .. "
First
snowfall, early this morning. Ochre and green
Take refuge
under the trees.
The second
batch, toward noon. No color's left
But the
needles shed by pines,
Falling even
thicker than the snow.
Then, toward
evening,
Light's
scale comes to rest.
Shadows and
dreams weigh the same.
With a toe,
a puff of wind
Writes a
word outside the world.
Yves
Bonnefoy. Second Simplicity: New
Poetry and Prose, 1991-2011
Tuyết đầu
Tuyết đầu, sớm,
sáng nay
Bông son, bông
xanh
Trốn dưới lá
Thứ nhì, vào
lúc trưa
Chẳng để lại
màu gì
Ngoài những
cây kim, là những chiếc lá thông
Chúng đôi
khi rớt xuống dầy hơn tuyết
Rồi tới tối
Ánh sáng sững
lại
Những cái bóng
và những giấc mộng nặng bằng nhau
Một tí gió
Lấy đầu ngón
chân
Đi một chữ
Ở bên ngoài
thế giới
Landscape
Above Zero
It was the
seagull that taught the song to swim
It was the
song that found the first wind's source
We shared
shards of happiness
Entering the
home from different directions
It was
father who recognized darkness
It was
darkness that led us to sudden lightning
The weeping
door slammed shut
And echo
pursued its cries
It was the
pen that bloomed in despair
It was the
flower that refused the necessary journey
It was rays
of love that awoke
Lighting the
landscape above zero
Bei Dao
Phong cảnh ở
bên trên con số không
Đó là hải âu
dậy bài ca bơi
Đó là bài ca
tìm thấy nguồn gió
Chúng ta
chia nhau những mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ
nhiều hướng khác nhau
Đó là người
cha nhận ra bóng tối
Đó là bóng tối
dẫn chúng ta tới ánh sáng bất thần
Cánh cửa nức
nở đóng sầm lại
Và tiếng
vang đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây viết
nở hoa trong chán chường
Đó là bông
hoa từ chối một chuyến đi cần thiết
Đó là
những
tia tình yêu thức giấc
Soi sáng
phong cảnh ở trên con số không
Phong cảnh trên độ không
Là ó
biển dạy tiếng hát bơi
Là tiếng hát lần về ngọn gió sơ ngộ
Chúng
ta đổi trao những miểng vụn hân hoan
Tiến vào nhà từ những phương trời khác biệt
Là
người cha xác nhận bóng tối
Là bóng tối nối liền ánh chớp kinh điển
Cánh
cửa nức nở đóng sầm lại
Tiếng vang đuổi theo tiếng nó khóc gào
Là bút
trổ bông trong tuyệt vọng
Là hoa từ chối cuộc lữ tất nhiên
Là tia
sáng tình yêu choàng tỉnh
Chiếu sáng phong cảnh trên độ không.
Bei Dao
Dã Viên
dịch từ nguyên tác (1)
Bài
thơ thần sầu.
Đọc, bèn kiếm thơ Bei Dao!
Thơ
Mỗi Ngày
MIRRORS AT 4
A.M.
You must
come to them sideways
In rooms
webbed in shadow,
Sneak a view
of their emptiness
Without them
catching
A glimpse of
you in return.
The secret
is,
Even the
empty bed is a burden to them,
A pretense.
They are
more themselves keeping
The company
of a blank wall,
The company
of time and eternity
Which,
begging your pardon,
Cast no
image
As they
admire themselves in the mirror,
While you
stand to the side
Pulling a
hanky out
To wipe your
brow surreptitiously.
Charles
Simic: Sixty Poems
Gương, 4 giờ
sáng
Bạn phải rón
rén, me mé, tới đó (1)
Những căn
phòng, đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn 1
cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để
chúng lén "đợp" lại bạn
Cũng 1 cú!
Niềm bí ẩn
là,
Ngay cả cái
giường trống trơn
Thì cũng là
1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy
bình yên hơn
Cảm thấy
chúng là chúng hơn
Khi có bạn
quí cận kề
Là bức tường
trần trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu
Những thứ đó,
xin lỗi bạn
Chúng đếch để
bóng của chúng
Trên mặt
gương
Khi chúng tự
sướng
Trong lúc bạn
đứng né qua 1 bên
Rút chiếc
khăn tay
Kín đáo lau
lông mày
1.
with one side faced forward
<I had to
walk sideways to get between the two towering piles of boxes>
Synonyms
broadside, crabwise, edgeways [chiefly British] [net]
Chữ này - sideways - của
tiếng anh hay quá, tiếng việt không có từ tương đương . Nó vừa có nghĩa
là không
đi thẳng đến trước mặt, chỉ đi bên mé, bên rìa, hoặc đi bằng ngõ vòng
vo, lại vừa
có nghĩa len lén .
K
ROSE
Rose,
the unfading
rose beyond my verse-
rose that's
full and fragrant,
rose of the
black garden in the deep of night,
rose of any
garden and any night,
rose that's
born again by the art of alchemy
out of
tenuous ash,
rose of the
Persians and Ariosto,
rose that's
always by itself,
rose that's
always the rose of roses,
the young
Platonic flower,
the blind
and burning rose beyond my verse,
unattainable
rose.
[Norman
Thomas di Giovanni]
J.L. Borges: New and
Unreprinted Poems
in Selected Poems 1923-1967
Bông Hồng
Bồng hồng không
tàn phai, vượt quá thơ của tôi
Bông hồng
-
nở trọn, thơm ngát –
Bông
hồng, từ
cánh vườn đen, nơi sâu thẳm của đêm
Bồng hồng
của
bất cứ vuờn, bất cứ đêm
Bồng hồng
lại
sinh ra nhờ huyền thuật,
từ tro
than
tinh khiết, giản dị.
Bông hồng
của
những người Ba Tư, và của Ariosto,
Bông hồng
luôn
luôn bằng chính nó
Bông hồng
luôn
luôn là bông hồng của những bông hồng
Bông hoa
trẻ
măng, của tình yêu Platonic - chiêm ngưỡng và kính trọng -
Bông hồng
mù,
cháy bỏng vượt quá thơ của tôi
Bông hồng
không
làm sao nắm bắt được.
Thơ
Mỗi Ngày
MIRRORS AT 4
A.M.
You must
come to them sideways
In rooms
webbed in shadow,
Sneak a view
of their emptiness
Without them
catching
A glimpse of
you in return.
The secret
is,
Even the
empty bed is a burden to them,
A pretense.
They are
more themselves keeping
The company
of a blank wall,
The company
of time and eternity
Which,
begging your pardon,
Cast no
image
As they
admire themselves in the mirror,
While you
stand to the side
Pulling a
hanky out
To wipe your
brow surreptitiously.
Charles
Simic: Sixty Poems
Gương, 4 giờ
sáng
Bạn phải rón
rén, me mé, tới đó (1)
Những căn
phòng, đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn 1
cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để
chúng lén "đợp" lại bạn
Cũng 1 cú!
Niềm bí ẩn
là,
Ngay cả cái
giường trống trơn
Thì cũng là
1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy
bình yên hơn
Cảm thấy
chúng là chúng hơn
Khi có bạn
quí cận kề
Là bức tường
trần trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu
Những thứ đó,
xin lỗi bạn
Chúng đếch để
bóng của chúng
Trên mặt
gương
Khi chúng tự
sướng
Trong lúc bạn
đứng né qua 1 bên
Rút chiếc
khăn tay
Kín đáo lau
lông mày
1.
with one side faced forward
<I had to
walk sideways to get between the two towering piles of boxes>
Synonyms
broadside, crabwise, edgeways [chiefly British] [net]
*
To: TN
Cái mail của
bạn, còn 1 “message” ngầm nữa.
Đọc, nhớ lại
những ngày đầu qua được Xứ Lạnh. Gặp lại Cô Bạn. Đọc thơ Cô T.
Bài thơ “Biển” làm
vào thời kỳ này, cùng dúm thơ cả 1 đời có được.
Lẽ dĩ nhiên,
nhờ cô bạn, nhưng cũng còn nhờ đọc thơ Cô T.
Tks again.
NQT
A ROSE AND
MILTON
From all the
generations of past roses,
Disintegrated
in the depths of time,
I want one
to be spared oblivion-
One
unexceptional rose from all the things
Which once
existed. Destiny allows me
The
privilege of choosing, this first time,
That silent
flower, the very final rose
That Milton
held before his face, but could
Not see. O
rose, vermilion or yellow
Or white,
from some obliterated garden,
Your past
existence magically lasts
And glows
forever in this poetry,
Gold or
blood-colored, ivory or shadowed,
As once in
Milton's hands, invisible rose.
J.L.Borges
[Alastair
Reid]
Bông Hồng và
Milton
Từ tất cả những
thế hệ những bông hồng đã qua
“Tàn hôn lên
môi”, rồi rã ra, chìm xuống những tầng sâu thẳm của thời gian,
Gấu chỉ muốn
1 bông hồng được tách ra khỏi quên lãng.
Một bông hồng
chẳng có chi khác biệt, từ tất cả những gì đã từng có lần
hiện hữu.
Số phận cho
phép Gấu,
Đặc ân chọn
lựa này, lần đầu tiên.
Bông hồng thầm
lặng, bông hồng tận cùng của tận cùng, của loài hồng
Bông hồng Milton đã cầm trước mặt mình, nhưng đếch nhìn thấy được
Một bông hồng,
đen, ngăm ngăm,
Đen dòn, hay trắng, từ một
cánh vườn đã tiêu ma.
Sự hiện diện
trong quá khứ của bông hồng
Và cùng với
nó, cả 1 miền đất
Diệu kỳ làm
sao
Còn lại mãi
mãi
Và cứ thế lớn
mãi, thiên thu, vĩnh viễn
Trong dúm
thơ của GCC.
Vàng hay màu
máu, đen ngà ngà, hay âm u như 1 cái bóng
BHD mà có lần
GCC ôm trong tay
Như bông hồng
Milton đã từng cầm
Bông hồng vô
hình.
UNE ROSE ET
MILTON
Sans rien
qui la distingue ou l'étrange des choses
Qui furent,
se consume au fond du temps pâli
Une rose. Je
veux la tirer de l'oubli.
Retrouvez
cette rose, ô families des roses.
Donnez-la-moi
; le sort me dispense ce soir
Le privilege
de nommer pour la première
Fois cette
fleur silencieuse, la dernière
Que
rapprocha de son visage, sans la voir,
Milton. Qui que
tu sois, rouge, jaune peut-être
Ou blanche
rose au coeur d'un jardin effacé,
Je demande
qu'un charme écarte ton passé
Et te fasse
éclatante en mon vers apparaitre
Avec tes
ors, tes ivoires et tes carmins,
Ou ta
ténèbre - ô ténébreuse entre ses mains.
J.L. Borges: Oeuvre poétique 1925-1965
QUATRAIN
Others died,
but that happened in the past,
Which is the
season (no one doesn't know this) most
propitious
for death.
Is it
possible that I, a subject of Yaqub Almansur,
Must die the
way the roses and Aristotle had to die?
From the
Diván de Almotásim
el Magrebí
(12th century)
[Alan Dugan]
J.L. Borges: Selected
Poems 1923-1967
QUATRAIN
D'autres moururent,
mais cela arriva dans le passé,
Qui est la
saison (personne ne l’ignore) la plus propice à la mort.
Est-il
possible que moi, sujet de Yacoub El-Mansour,
Je meure comme durent mourir les roses et Aristote ?
Dans le
Divan d'Almotasim El-Maghrebi
(XII siècle),
J.L.
Borges: Oeuvre
poétique 1925-1965 [éd Gallimard]
Tứ Tuyệt
Những người
khác chết, nhưng đó là chuyện xẩy ra trong quá khứ.
Đó là mùa chết:
Cuộc chiến Mít
[Chẳng ai biết/nhớ
cả, thế mới tếu!]
Liệu chăng,
Gấu… đếch chết?
Và nếu có chết
Thì cũng
theo kiểu của những bông hồng
Tàn hôn lên
môi
Vùi quên
trong tay
Hay như Aristotle,
đã từng phải chết?
Ending for a
Ghost Story
I. A.
Ireland, English savant born in Hanley in 1871. He claimed descent from
the
infamous impostor
William H. Ireland, who had invented an ancestor, Wiliam Henrye
Irlaunde, to whom
Shakespeare had allegedly bequeathed his manuscripts. He published A Brief
History
of
Nightmares (1899), Spanish
Literature (1911), The Tenth
Book of Annals of
Tacitus, newly done
into English (1911).
'HOW eerie!'
said the girl, advancing cautiously. And what a heavy door!' She
touched
it as she spoke and it suddenly swung to with a click.
'Good Lord!'
said the man, 'I don't believe there's a handle inside. Why, you've
locked us both in!' 'Not both of
us. Only one of us,' said the girl, and before his eyes she passed
straight
through the door, and vanished.
Note: Truyện
ngắn trên, là từ “The Book of Fantasy”, do Borges biên
tập. Bạn đọc nó, song
song với dòng thơ Apollinaire, “Ouvrez-moi cette porte où je frappe en
pleurant”,
[“Hãy mở cánh cửa này, Gấu đập và khóc ròng], và “BHD và GCC” [A Rose and Milton],
thì mới đã!
Đoạn kết một
Truyện Ma
I.A Ireland,
một nhà bác học Anh, sinh tại Hanley, năm 1871. Ông “bốc phét”, là hậu
duệ của
tên lừa đảo tai tiếng, William Ireland, ông này thì đã phịa ra 1 ông
tổ, Wiliam
Henrye Irlaunde; Shakespeare đã từng truyền bản thảo cho ông tổ này.
“Dễ sợ
làm
sao”, cô gái nói, dò dẫm bước tới.
“Cái cửa nặng quá!”. Cô sờ vô cánh cửa trong
khi nói, và bất thình lình, cái cửa chuyển động, cùng 1 tiếng "click".
“Trời ơi là Trời!”
Cậu trai nói. “Tôi không tin có quả đấm ở phía bên trong. Thế là cô
nhốt
hai đứa rồi. Tại sao?”
“Đâu phải
hai đứa. Chỉ anh thôi”.
Cô gái nói,
cùng lúc, biến mất, qua cánh cửa đóng.
The Rose of
Paracelsus
Trong một truyện ngắn chưa hề in ấn, bản dịch
tiếng Anh lần đầu tiên xuất hiện trên một số báo The New York Review of
Books,
"Bông Hồng của Paracelsus", (1) Jorge Luis Borges kể chuyện một vị đại
sư
về huyền thuật có tên là Paracelsus, một bữa cầu khẩn "Thượng Đế của
ông", xin Ngài gửi tới cho ông một đệ tử. Và một đêm kia, có tiếng gõ
cửa,
một kẻ lạ xuất hiện, bước vào trong căn phòng. Trông anh ta có vẻ hết
sức mệt
mỏi. Vị đại sư ra dấu mời khách ngồi. Sau cùng chủ nhà là người lên
tiếng
trước:
"Tôi nhớ lại tất cả những khuôn mặt từ
Đông qua Tây, vậy mà không nhớ ra bạn. Bạn là ai, và bạn mong gì ở tôi?"
"Tên tôi chẳng quan trọng. Tôi đã trải
qua một cuộc hành trình ba ngày ba đêm để tới nhà của Ngài. Tôi mong
được là đệ
tử của Thầy. Tôi mang tới cho Thầy tất cả sản nghiệp của tôi".
Anh đổ sản nghiệp xuống mặt bàn: những đồng
tiền, bằng vàng. Một đống tiền. Anh làm việc này với tay phải. Vị đại
sư quay
lưng đốt cây đèn. Và khi xoay người lại, ông thấy tay trái vị khách lạ
cầm một
bông hồng. Bông hồng làm ông bối rối.
"Bạn nghĩ tôi có thể tạo nên cục đá biến
tất cả mọi vật trở thành vàng, tuy nhiên bạn vẫn mang vàng đến cho tôi.
Nhưng
tôi không tìm kiếm vàng, và nếu bạn quan tâm đến nó, bạn sẽ không bao
giờ có
thể là đệ tử của tôi".
"Tôi không quan tâm đến vàng. Những đồng
tiền này chỉ để nói lên lòng mong ước của tôi được theo chân Thầy. Tôi
muốn
Thầy dậy tôi Nghệ Thuật. Tôi muốn bước kế bên Thầy, trên con đường đi
tới Cục
Đá."
"Con đường 'là' Cục Đá... Mỗi bước đi của
bạn, là mục tiêu mà bạn tìm kiếm."
Người đàn ông nhìn vị đại sư,
giọng anh thay đổi:
"Nhưng, như vậy là không có mục
tiêu?"
Vị đại sư cười lớn:
"Mấy kẻ cố tình lật tẩy tôi, cũng hằng hà
sa số như những tên ngu đần; chúng nói như vậy đó: làm gì có mục tiêu,
và họ
gọi tôi là một kẻ bịp bợm.' Họ tin rằng tôi đã lầm... Tôi biết rằng có
Con
Đưòng, có Đạo (a Path)."
Yên lặng một hồi, sau cùng người khách lên
tiếng:
"Con sẵn sàng đi trên con đường đó với
Thầy, cho dù chúng ta có thể sẽ phải đi hoài đi huỷ trong nhiều năm.
Hãy cho
phép con vượt sa mạc. Hãy cho phép con nhìn thoáng thấy, dù từ xa, đất
hứa...
Tất cả những gì con đòi hỏi, là một chứng cớ, trước khi bắt đầu cuộc
hành
trình"
"Khi nào?" Vị đại sư tỏ ra khó chịu.
"Ngay bây giờ". Người khách quyết
định tức thời.
Suốt từ đầu, họ nói chuyện bằng tiếng La Tinh.
Bây giờ, họ chuyển qua tiếng Đức.
Người đàn ông giơ cao bông hồng:
"Thầy nổi tiếng vì có thể đốt bông hồng
thành tro than, và lại làm nó nở ra thành bông hồng, từ mớ tro than
đó... Hãy
cho con chứng kiến phép lạ. Để đổi lại, con xin dâng hiến trọn đời con."
"Anh quá cả tin. Tôi không cần cả tin.
Tôi cần niềm tin."
Người khách nài nỉ:
Bởi vì con không cả tin, nên con muốn
chứng kiến tận mắt, sự huỷ diệt và tái sinh của bông hồng".
Vị đại sư lúc này đã cầm bông hồng trên tay,
và đang vuốt ve nó.
"Anh thật cả tin. Anh nghĩ rằng tôi có
thể huỷ diệt nó?"
"Bất cứ một người nào cũng có sức mạnh
huỷ diệt nó".
"Anh lầm rồi. Anh thực sự tin
rằng một
điều gì đó có thể biến thành hư vô? Anh tin rằng vị Adam đầu tiên ở
Thiên Đàng
có thể huỷ diệt một bông hồng đơn độc, một cọng cỏ đơn độc?"
"Chúng ta không ở Thiên Đàng.",
người đàn ông trẻ tuổi cứng đầu trả lời. "Tại đây, trong thế giới trần
tục
này, mọi vật đều chết".
"Chúng ta hiện đang ở đâu, nếu
không phải
là Thiên Đàng? Bạn tin rằng thần thánh có thể sáng tạo ra một nơi không
phải là
Thiên Đàng? Bạn không tin, rằng Sa Ngã chính là do không nhận ra một
điều:
chúng ta đang ở Thiên Đàng?"
"Một bông hồng có thể bị đốt
cháy",
người trẻ tuổi nói bằng một giọng thách đố.
"Có lửa ở đây", vị đại sư đưa tay
chỉ.
......
Người trẻ tuổi cầm bông hồng
trên bàn, và ném
vào lửa. Một khắc, tựa thiên thu, trôi qua; anh ta chờ đợi phép lạ.
Vị đại sư ngồi bất động. Ông nói, bằng một
giọng giản dị:
"Tất cả những nhà vật lý, dược
sĩ tại
thành phố Basel này nói tôi là đồ dởm. Có lẽ họ nói đúng. Có tro than
vốn xưa
là bông hồng, sẽ chẳng còn là bông hồng nữa."
Người trẻ tuổi cảm thấy xấu hổ.
Anh chỉ là một
kẻ lén lút xâm nhập nhà vị thầy, vậy mà còn ép buộc ông thú nhận, huyền
thuật
của ông chỉ là đồ dởm.
Anh ta quì trước vị đại sư và
nói:
"Điều tôi làm thật không
thể tha thứ được. Tôi thiếu niềm tin, trong khi Thượng Đế đòi hỏi, chỉ
một
điều, tin tưởng. Hãy cho tôi được tiếp tục, nhìn tro than. Tôi sẽ trở
lại, khi
nào mạnh mẽ hơn, và sẽ là đệ tử của Ngài, và ở cuối Con Đường, tôi sẽ
nhìn thấy
bông hồng".
Anh ta nói với một niềm đam mê thực sự, nhưng
đam mê này chỉ là lòng thương hại vị thầy già. Ta là ai, hỡi Johannes
Grisebach
này? Ta là kẻ, bằng bàn tay thiêng liêng ném bông hồng vào lửa, đã khám
phá ra
rằng, đằng sau mặt nạ, chẳng có một người nào.
Để lại đống vàng có thể là
một hành động làm cho những kẻ nghèo đói "bực mình", anh ta lượm tất
cả lên. Vị đại sư tiễn khách ra tới cửa, và nói anh luôn luôn là vị
khách quí
tại nơi đây, nếu trở lại; nhưng cả hai đều biết rõ một điều, chẳng bao
giờ còn
có lần thứ hai.
Vị đại sư lại cô đơn một
mình. Trước khi thổi tắt ngọn lửa, ông trút tí tro than từ lòng bàn tay
này qua
lòng bàn tay kia, lẩm nhẩm một từ đơn độc. Bông hồng xuất hiện trở lại.
"Khao khát chính cuộc
đời của mình...", tôi bỗng nhớ thời của lũ chúng tôi, những giấc mộng,
"vốn xưa kia là những giấc mộng nhưng sẽ chẳng còn là những giấc mộng
nữa". Và tôi nhận ra, Duật, hay tôi, hay những bạn bè của tôi, bất cứ
một
kẻ nào, đều có thể là người khách lạ trẻ tuổi, trong câu chuyện của
Borges.
Chúng tôi đều đã có dịp gặp vị thầy của mình.
Vĩnh biệt bạn
Duật!
Nguyễn Quốc Trụ (và bằng hữu).
*
Liệu độc giả tin rằng, trang
TV chính là phép lạ, trên, và BHD xuất hiện trở lại, qua nó?
Dám lắm!
(1) GCC đọc
tuyện này trên NYRB. Tờ báo cũng ghi là, inedit. Có trong L.L. Borges: Collected
Fictions, Penguin Books
*
Don't the
shadows know something about it?
The way they, too, come and go
As if paying
a visit to that other world
Where they do what they do
Before
hurrying back to us.
Just today I
was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was
about to engage it in conversation
On this very topic
When it took
leave of me suddenly.
Shadow, I
said, what message
Will you
bring back to me,
And will
it
be full of dark ambiguities
I can't
even begin to imagine
Liệu những bóng đen biết gì về
nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta
Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ
chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà
Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?
ROSE
Rose,
the unfading
rose beyond my verse-
rose that's
full and fragrant,
rose of the
black garden in the deep of night,
rose of any
garden and any night,
rose that's
born again by the art of alchemy
out of
tenuous ash,
rose of the
Persians and Ariosto,
rose that's
always by itself,
rose that's
always the rose of roses,
the young
Platonic flower,
the blind
and burning rose beyond my verse,
unattainable
rose.
[Norman
Thomas di Giovanni]
J.L. Borges: New and
Unreprinted Poems
in Selected Poems 1923-1967
Lạ, hiếm,
phong trần, tã: Vớ được tại tiệm sách cũ.
THE POET
TELLS OF HIS FAME
The rim of
the sky is the measure of my glory,
The
libraries of the East fight to own my verses,
The rulers
seek me out to fill my mouth with gold,
The angels
already know my last couplet by heart.
The tools of
my art are humiliation and anguish.
Oh, if only
I had been born dead!
From the Divan de Abulcasim
el Hadrarni (12th
century)
[W. S.
Merwin]
Thi sĩ GCC lèm bèm về danh thơm của mình
Vành trời là
thước đo vinh quang của tớ
Thư viện Đông
Phương giành quyền sở hữu thơ
Mấy tên Trùm
VC lôi tớ ra, nhét vàng vô miệng.
Thiên thần
thuộc lòng “Tứ tấu khúc", viết cho BHD và Xề Gòn.
Võ khí thần sầu
của nghệ thuật làm thơ của GCC,
Là sự nhục nhã, và niềm thống khổ.
Ui, chao, giả
như Gấu vừa sinh ra, là ngỏm củ tỏi, nhỉ!
A ROSE AND
MILTON
From all the
generations of past roses,
Disintegrated
in the depths of time,
I want one
to be spared oblivion-
One
unexceptional rose from all the things
Which once
existed. Destiny allows me
The
privilege of choosing, this first time,
That silent
flower, the very final rose
That Milton
held before his face, but could
Not see. a
rose, vermilion or yellow
Or white,
from some obliterated garden,
Your past
existence magically lasts
And glows
forever in this poetry,
Gold or
blood-colored, ivory or shadowed,
As once in
Milton's hands, invisible rose.
[Alastair
Reid]
Ending for a
Ghost Story
I. A.
Ireland, English savant born in Hanley in 1871. He claimed descent from
the
infamous impostor
William H. Ireland, who had invented an ancestor, Wiliam Henrye
Irlaunde, to whom
Shakespeare had allegedly bequeathed his manuscripts. He published A Brief
History
of
Nightmares (1899), Spanish
Literature (1911), The Tenth
Book of Annals of
Tacitus, newly done
into English (1911).
'HOW eerie!'
said the girl, advancing cautiously. And what a heavy door!' She
touched
it as she spoke and it suddenly swung to with a click.
'Good Lord!'
said the man, 'I don't believe there's a handle inside. Why, you've
locked us both in!' 'Not both of
us. Only one of us,' said the girl, and before his eyes she passed
straight
through the door, and vanished.
Note: Truyện
ngắn trên, là từ “The Book of Fantasy”, do Borges biên
tập. Bạn đọc nó, song
song với dòng thơ Apollinaire, “Ouvrez-moi cette porte où je frappe en
pleurant”,
và “BHD và GCC” [A Rose and Milton],
thì mới đã!
Today
[8.Dec. 20130] at 11:56 AM
Mời xem một
bài (ký tên) cô T. (chắc thật vì giống giọng cổ) đáng xem.
Kính chúc an khang.
TN
Tks
Tôi đọc trên
Blog NXH, VOA. Vâng đúng là cô T. Cô T. đúng ra hơn thế nhiều, nhưng
do qua
đây sớm, thành ra thiếu nỗi đau sau 1975, cũng được đi, vì nhiều người
cũng thiếu
vậy, tuy nhiên, cái băng bạn bè của cô, chẳng có ai được cả. Khi tôi
khen cô
T. chúng bực lắm!
Cả băng của cô, băng
Cờ Lăng, có thằng nào con nào ra hồn đâu, chúng bực cũng phải!
Hà, hà!
Do bạn bè với lũ này,
thành ra có vẻ như Cô không đau cái đau của... Steiner, đi thoát Âu
Châu trên chuyến tầu chót.
Nhân dịp
Giáng Sinh, chúc Bạn và gia đình mọi chuyện an lành.
Thân kính
NQT
MIRRORS AT 4
A.M.
You must
come to them sideways
In rooms
webbed in shadow,
Sneak a view
of their emptiness
Without them
catching
A glimpse of
you in return.
The secret
is,
Even the
empty bed is a burden to them,
A pretense.
They are
more themselves keeping
The company
of a blank wall,
The company
of time and eternity
Which,
begging your pardon,
Cast no
image
As they
admire themselves in the mirror,
While you
stand to the side
Pulling a
hanky out
To wipe your
brow surreptitiously.
Charles
Simic: Sixty Poems
Gương, 4 giờ
sáng
Bạn phải rón
rén, me mé, tới đó (1)
Những căn
phòng, đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn 1
cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để
chúng lén "đợp" lại bạn
Cũng 1 cú!
Niềm bí ẩn
là,
Ngay cả cái
giường trống trơn
Thì cũng là
1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy
bình yên hơn
Cảm thấy
chúng là chúng hơn
Khi có bạn
quí cận kề
Là bức tường
trần trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu
Những thứ đó,
xin lỗi bạn
Chúng đếch để
bóng của chúng
Trên mặt
gương
Khi chúng tự
sướng
Trong lúc bạn
đứng né qua 1 bên
Rút chiếc
khăn tay
Kín đáo lau
lông mày
1.
with one side faced forward
<I had to
walk sideways to get between the two towering piles of boxes>
Synonyms
broadside, crabwise, edgeways [chiefly British] [net]
Thơ
Mỗi Ngày
TO LAZINESS
Only you
understood
How little
time we are given,
Not enough
to lift a finger.
The voices
on the stairs,
Thoughts too
quick to pursue,
What do they
all matter?
When
eternity beckons.
The heavy
curtains drawn,
The
newspapers unread.
The keys
collecting dust.
The flies
either sluggish or dead.
The bed like
a slow boat,
With its one
listless sail
Made of
cigarette smoke.
When I did
move at last,
The stores
were closed.
Was it already
Sunday?
The weddings
and funerals were over.
The one or
two white clouds left
Above the
dark rooftops,
Not sure
which way to go.
Charles
Simic: That Little Something
Gửi Đại Lãn
Chỉ mi biết
Ít ỏi làm
sao, thời gian hai đứa còn
Chẳng đủ nhắc
điếu thuốc.
Những tiếng
nói trên cầu thang,
Ý nghĩ nhanh
như chớp, vô phương săn đuổi,
Tất cả nghĩa
chi đâu?
Khi vĩnh cửu
gật đầu.
Những bức màn
nặng được kéo
Những tờ nhựt
trình không đọc
Những chiếc
chìa khóa thu gom bụi
Những con ruồi
lờ đờ, hoặc chết.
Chiếc giường
giống như con thuyền chậm chạp
Với một cánh
buồm,
Làm bằng khói
thuốc lá.
Sau cùng Gấu
đành nhúc nhích
Những cửa tiệm
đóng cửa
Chủ nhật rồi,
ư?
Đám cuới, đám
tang thì cũng đã xong
Một, hoặc
hai đám mây trắng bị bỏ lại trên mái nhà
Đếch biết chọn
hướng nào
Làm chuyến giang hồ vặt.
Hà, hà!
Chán quá!
August 9,
1998
One Art
The art of
losing isn't hard to master;
so many
things seem filled with the intent
to be lost
that their loss is no disaster.
Lose
something every day. Accept the fluster
Of lost door
keys, the hour badly spent.
The art of
losing isn't hard to master.
Then
practice losing farther, losing faster:
places, and
names, and where it was you meant
to travel.
None of these will bring disaster.
I lost my
mother's watch. And look! my last, or
next-to-last,
of three loved houses went.
The art of
losing isn't hard to master.
I lost two
cities, lovely ones. And, vaster,
some realms
I owned, two rivers, a continent.
I miss them,
but it wasn't a disaster.
-Even losing
you (the joking voice, a gesture
I love) I
shan't have lied. It's evident
the art of
losing's not too hard to master
though it
may look like (Write it!) like disaster.
-Elizabeth
Bishop, The Complete Poems,
1927-1979,
Farrar,
Straus & Giroux
Robert Hass: Now & Then
Một Nghệ Thuật
Nghệ thuật mất,
đạt đến mức thượng thừa, không khó.
Rất nhiều thứ
ở trên đời này, sinh ra là để được –không “bị được” nhe! - mất đi.
Và cái sự mất
đi như thế, đếch phải 1 thảm họa!
Mất một cái
gì đó, mọi ngày.
Chấp nhận tí bối rối mất mẹ chùm chìa khoá
Hay một giờ
qua đi "uổng" cú mèo!
Nghệ thuật mất
đâu có khó, trở thành Trùm, Đại Sư Phụ.
Thực tập dài,
mất ông via,
Mất làm sao nhanh hơn nữa, nhất là thứ ông via BHD!
Nơi chốn, và
tên, và ở đâu,
Chúng có nghĩa gì đối với bạn để làm 1 cú du lịch.
Chẳng có thứ
nào sẽ đem đến thảm họa.
Tôi mất cái
đồng hồ của ông bố.
Và này! Cái cuối cùng, cái trước cái cuối cùng, của ba căn
nhà yêu thương,
ba mái nhà ấm cúng của tôi, đều cúng cho VC cả!
Nghệ thuật mất
mát đâu có khó để đạt đến mức thượng thừa!
Gấu mất hai
thành phố, hai thành phố thật yêu thương, Hà Nội, rồi Xề Gòn.
Và rộng hơn
nữa,
Hai cõi, kiếp,
khác mà Gấu sở hữu, hai con sông [Sông Hồng, Sông Xề Gòn], một đại lục
[Á Châu]
Gấu nhớ
chúng, nhưng đâu phải một thảm họa?
-Ngay cả mất
Sea Gull [giọng têu tếu, cái cử chỉ tất tả đi mua cà phe mà Gấu mê],
Mất thêm
MCNK
GCC cũng
đành!
Hà, hà!
Hiển nhiên
là nghệ thuật mất mát, Gấu cũng đã tới mức chẳng thua ai!
Tuy nhiên quả
đúng, thảm họa
Viết ra đi:
Thảm họa!
JUNE 20 [1999]
Father's
Day: Li-Young Lee
Here is a
poem by Li- Young Lee, from his first book, Rose (BOA Editions.) Lee
lives in
Chicago and is the author of two widely admired books of poetry and a
memoir.
He was born in Jakarta, Indonesia, in 1957, of Chinese parents. The
following
year his father was arrested by the government of President Sukarno and
spent a
year as a political prisoner. The family fled Indonesia when the father
was
released, traveling from Hong Kong to
Macau to Japan, and in 1964, when Lee was seven, they settled in the
United
States. Here is a poem about his father:
The Gift
To pull the
metal splinter from my palm
my father
recited a story in a low voice.
I watched
his lovely face and not the blade.
Before the
story ended, he'd removed
the iron
sliver I thought I'd die from.
I can't
remember the tale,
but hear his
voice still, a well
of dark
water, a prayer.
And I recall
his hands,
two measures
of tenderness
he laid
against my face,
the flames
of discipline
he raised
above my head.
Had you
entered that afternoon
you would
have thought you saw a man
planting
something in a boy's palm,
a silver
tear, a tiny flame.
Had you
followed that boy
you would
have arrived here,
where I bend
over my wife's right hand.
Look how I
shave her thumbnail down
so carefully
she feels no pain.
Watch as I
lift the splinter out.
I was seven
when my father
took my hand
like this,
and I did
not hold that shard
between my
fingers and think,
Metal that will bury me,
christen
it
Little Assassin,
Ore Going
Deep for My Heart.
And I did
not lift up my wound and cry,
Death visited here!
I did
what a
child does
when he's
given something to keep.
I kissed my
father.
"The
Gift," read once, would seem to be a fairly straightforward poem about
learning loving and nurturing behavior from a loving and nurturing
father. It's
very pleasing that way, but there's a lot in the poem that such a
reading
doesn't account for. And so it's a good example of how much difference
the
active participation of the reader makes. We have to notice that it's
also
written in such a way that it's about how time collapses. The story of
the
father and the son folds so seamlessly into the story of the husband
and wife.
And it's about something more complicated in the relation of father and
son.
The hands that touch the boy so tenderly are also the "flames of
discipline" that were raised above the boy's head. And the metal sliver
is
a "flame," a tear and a flame, and the father seems to be planting it
in the son. So the poem is about learning love and punishment from the
same
hands. And it's about the metal sliver as the knowledge of mortality.
The son,
in the course of things, will bury the father. He is the "Little
Assassin" and that knowledge, it would seem, is what goes for the
heart.
It's complicated, in the way that poetic logic often is, because it can
mean in
contradictory ways at the same time. If the son is the little assassin,
and the
sliver is also the little assassin, and the sliver is experienced as
the threat
of death, then the son is his own death, planted in his palm by his
father. This is
dream logic, the logic of each individual's sense of fate, and it is
subterranean, like the father's story, "a well of dark water, a
prayer." So
interesting: the love the boy learned from the father he gives to the
wife, as
a gift; all the rest, too complicated to say, in a physical act, he
gives to
the poem.
Robert Hass: Now & Then
Note: Bài
thơ này, tính post chào mừng cuốn sách mới ra lò của bạn LVT, về “thuốc
phiện của
chúng ta thời này, là lũ nhóc”. Nhưng đọc, thấy căng quá!
Hà, hà!
Căng thật. Và,
tuyệt thật.
Trên TV, đã
từng giới thiệu Li-Yong Lee.
THAT LITTLE SOMETHING
for Li-Young Lee
The likelihood of
ever finding it is small.
It's like being accosted by a woman
And asked to help her look for a pearl
She lost right here in the street.
She could be making it all
up,
Even her tears, you say to yourself,
As you search under your feet,
Thinking, Not in a million years ...
It's one of those summer
afternoons
When one needs a good excuse
To step out of a cool shade.
In the meantime, what ever became of her?
And why, years later, do
you still,
Off and on, cast your eyes to the ground
As you hurry to some appointment
Where you are now certain to arrive late?
Charles Simic
Dịch theo kiểu classic
:
Một
chút gì
Sẽ chẳng bao giờ biết được
đâu
Chút gì rất nhẹ ... tựa hôm nào
Nàng đến kề bên, nhờ tìm giúp
Giữa đường rơi một hạt minh châu
Có thể rằng Nàng bịa đấy
thôi
E rằng nước mắt cũng vờ rơi
Mắt dò dưới chân, lòng thầm nghĩ
Tìm suốt triệu năm cũng chỉ hoài
Hôm ấy, một chiều của mùa
hè
Cuồng chân trong bóng mát im che
Viện trăm ngàn cớ mà ra khỏi ...
Còn Nàng , vì cớ gì vậy kìa ?
Thế thôi mà sao sau bao năm
Thi thoảng mắt lại dò mặt đường
Những lần vội đến nơi hò hẹn
Dù biết mười mươi, trễ, chuyện thường
K
Tks. NQT
GCC biết đến cái tên
Li-Young Lee là qua bài thơ trên.
*
Ngu Yên
Đọc Thơ Trước
Nửa Đêm
Anna Swir ('Swirszczynska)Anna
Swir ('Swirszczynska) ( 1909-1984 ) sinh
ở Warsaw. Tốt nghiệp đại học về Văn chương Ba lan. Bà làm thơ, viết
kịch và
truyện trẻ em. Qua đời vì bệnh ung thư 1984 tại Keakow
Note:
Krakow, không phải Keakow.
Bài thơ này, TV cũng đã giới thiệu.
ANNA SWIR
1909-1984
Poetry
readings are not common in some countries. In others, among them
Poland, they
draw an audience that doesn't treat poetry as an aesthetic experience
only.
Rather, in
one way or another, such audiences bring to the event their multiple
questions
about life and death. This poem captures well the ignorance and
helplessness of
both the poet and her listeners.
Đọc thơ thì hơi bị hiếm ở vài xứ sở. Ở những xứ khác, trong có Ba Lan,
thính giả kéo tới không chỉ để nghe đọc thơ, như 1 kinh nghiệm
thẩm mỹ, mà còn ưu tư về chuyện sống, chết, ba cái lăng nhăng khác nữa. Bài thơ dưới đây nắm bắt đúng cái sự
ngỡ ngàng, vô tri, bất lực, giữa
người đọc, và người nghe, thơ.
POETRY
READING
I'm curled
into a ball
like a dog
that is
cold.
Who will
tell me
why I was
born,
why this
monstrosity
called life.
The
telephone rings. I have to give
a poetry
reading.
I enter.
A hundred
people, a hundred pairs of eyes.
They look,
they wait.
I know for
what.
I am
supposed to tell them
why they
were born,
why there is
this
monstrosity called life.
Đọc thơ
Lạnh,
Tôi cuộn người
thành trái banh
Như giống chó
thường làm
Ai sẽ nói
cho tôi biết
Tại sao tôi
sinh ra
Tại sao cái
quỉ ma này
gọi là
cuộc đời
Chuông điện
thoại
Tôi phải đi
một đường đọc thơ
cho thính giả
mê thơ
Tôi đi vô
Cả trăm người
Cả trăm cặp
mắt
Họ nhìn
Họ đợi
Tôi biết họ
đợi gì
Đợi tôi nói
với họ
Tại sao họ
sinh ra
Tại sao có cái
quỉ ma gọi là cuộc đời
Translaled from the Polish
by Czeslaw
Milosz and Leonard Nathan
LATE SEPTEMBER
The mail truck goes down the
coast
Carrying a single letter.
At the end of a long pier
The bored seagull lifts a leg now and then
And forgets to put it down.
There is a menace in the air
Of tragedies in the making.
Last night you thought you
heard television
In the house next door.
You were sure it was some new
Horror they were reporting,
So you went out to find out.
Barefoot, wearing just shorts.
It was only the sea sounding weary
After so many lifetimes
Of pretending to be rushing off somewhere
And never getting anywhere.
This morning, it felt like
Sunday.
The heavens did their part
By casting no shadow along the boardwalk
Or the row of vacant cottages,
Among them a small church
With a dozen gray tombstones huddled close
As if they, too, had the shivers.
Charles Simic: The Voice at
3:00 AM
Tháng Mười Cũ
Xe thư chạy xuống bờ biển
Với chỉ một lá thư
Ở cuối một bến tàu dài
Con hải âu chán đời, nhắc,
hết chân phải lại đến chân trái
Và quên bỏ xuống
Trong không khí có mùi đe dọa
Về những bi kịch đang thành hình
Đêm qua bạn nghĩ bạn có nghe
tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin chắc
Về một ghê rợn mới
Họ đang báo cáo
Và thế là bạn bò ra đường để kiếm
Chân trần, quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là tiếng sóng biển
Ưu tư về không biết là bao nhiêu là đời
Cứ phải giả đò, từ đâu đổ xuống nơi đây
Và chẳng bao giờ đi bất cứ nơi đâu
Sáng nay, sao giống như Chủ Nhật
Ông Giời cà chớn chắc là cũng có góp phần
Trong cái việc, đếch đem một cái bóng râm nào
Đổ xuống hai bên hè đường
Hay là ở rặng những cái lều trống trơn
Trong số đó, là 1 ngôi nhà thờ nhỏ
Với trên chục cái bia mộ bằng đá
Xúm lại với nhau
Như thể, chúng, đôi lúc, cũng rùng mình.
Trong cuốn của
Robert Hass, Gấu mới dinh về, có bài "Cơn giận dữ của Chekhov", Chekhov's anger, thật là
tuyệt, và lại có tí tính thời sự, vì liên quan đến truyện ngắn, và
truyện ngắn mới
được Nobel.
Gấu chép lại ở đây, mấy câu thật thú, đọc khi ở tiệm sách, và vì thế
mà dinh về dinh [đưa nàng về dinh!]:
Chúng ta được
dạy từ những người viết giả tưởng của thế kỷ 19, là đọc tác phẩm, vì
cái nhìn của
nó, không chỉ về những cuộc đời riêng tư, mà về trọn xã hội.
We have been
taught by the fiction writers of the nineteenth century to read work
for its
view not just of individual lives but of a whole society.
Chekho tính làm cú này,
không phải viết rộng và mang tính biểu tượng, largely and symbolically,
nhưng choàng lên một khối lượng khổng lồ những cuộc đời Nga, but by
covering
immense amounts of Russian life.
Cẩm như Trò
Đời, Comédie humaine, của Balzac, của Tẩy.
Nhưng câu kết
bài viết mới cực thú:
Nếu Chekhov không
phải là một trong những nhà tiểu thuyết gia vĩ đại nhất, thì ông là 1
trong những
nhà thi sĩ lớn lao nhất.
Robert
Hass,
1986.
|
|