|
Thơ Mỗi Ngày
Thơ Mỗi Ngày
AGAINST
INCOMPREHENSIBLE
POETRY
Chống Lại
Thơ Đếch Hiểu Được
Czeslaw Milosz: To Begin Where I Am.
TV sẽ đi
bài
này.
Đạo diễn
Phan Huyền Thư nói có thể hiểu và đồng cảm được với nghệ sỹ Kim Chi
dưới góc độ
của người làm nghệ thuật, tuy nhiên nếu không khéo, nó lại hướng câu
chuyện
theo cách “cá nhân với cá nhân”.
BBC
Vụ này đang
nổ lớn, nhưng với Gấu Cà Chớn, đúng ra nó phải xẩy ra với me-xừ Nobel
Toán cơ.
Cầm cái bửu bối Nobel mà dí vào Lăng Bác Hát, mà phán, đi chỗ khác
chơi, thì may ra mới
ngang ngửa ép phê với bà Aung Miến Điện.
Tuy nhiên,
"không khéo" gì nữa, với nghệ sĩ KC, thì quả đúng là "cá nhân với cá
nhân". Gấu sợ
rằng chính bà cũng muốn như vậy. Cho nhẹ tội. Tao chán cái thằng cha
đó, chứ tao
không đụng tới chế độ!
Đừng buộc tội tao muốn đạp đổ Lăng Bác Hồ!
Note: Ui
chao, vưỡn giữ hoài cái mail đầu tiên em gửi!
Tuesday,
November 13, 2001 3:09 AM
Anh NQT kinh
men!
Truoc tien,
em phai thanh that xin loi anh vi thoi gian qua nhan rat nhieu mail cua
anh ma
mat lich su, khong hoi am duoc dong nao. Em di lam phim xa hang thang
troi nen
khong tien lien lac voi moi nguoi. Anh dung gui zip
cho em vi em khong biet mo, hon nua di cac noi
lang nhang xa nha nen
khong tien doc. Em mong anh gui cho em text.doc de em in luon ra va doc
duoc
mot cach de dang hon, em rat mong nhu vay...
Anh co khoe
khong? Co gi vui khong? Anh van thich nghe Kenny G va Yanni phai khong
a? Em se
gui cho anh tap tho cua em, dau tien, em dinh lay tua la" nhung giac mo
cua luoi" nhung bay gio em dat lai tua la "nam nghieng". Em gui
cho anh 3 bai tho moi nhat nhe, anh doc de chia se voi em, mong anh hoi
am.
Thinh
thoang, em van nghi den anh va nho la anh rat hom [hóm hỉnh] va gan gui.
Ở đâu có
bi
kịch, ở đó có thi sĩ.
.... nằm nghiêng
lạnh hơi lạnh cũ
PHT
Début et fin
de la neige
Khởi đầu và chấm dứt tuyết
“PREMIÈRE
NEIGE ....”
Première
neige tôt ce matin. L'ocre, le vert
Se refugient
sous les arbres.
Seconde,
vers midi. Ne demeure
De la
couleur
Que les
aiguilles de pins
Qui tombent
elles aussi plus dru parfois que la neige.
Puis, vers le
soir,
Le fléau de
la lumière s'immobilise.
Les ombres
et les rêves ont même poids.
Un peu de
vent
Écrit du
bout du pied un mot hors du monde.
Tuyết đầu
Tuyết đầu, sớm,
sáng nay
Bông son, bông
xanh
Trốn dưới lá
Thứ nhì, vào
lúc trưa
Chẳng để lại
màu gì
Ngoài những
cây kim, là những chiếc lá thông
Chúng đôi
khi rớt xuống dầy hơn tuyết
Rồi tới tối
Ánh sáng sững
lại
Những cái bóng
và những giấc mộng nặng bằng nhau
Một tí gió
Lấy đầu ngón
chân
Đi một chữ
Ở bên ngoài
thế giới
Beginning
and End of the Snow
"FIRST
SNOWFALL... "
First
snowfall, early this morning. Ochre and green
Take refuge
under the trees.
The second
batch, toward noon. No color's left
But the
needles shed by pines,
Falling even
thicker than the snow.
Then, toward
evening,
Light's
scale comes to rest.
Shadows and
dreams weigh the same.
With a toe,
a puff of wind
Writes a
word outside the world.
“ON DIRAIT....”
On dirait
beaucoup d'e muets dans une phrase.
On sent
qu'on ne leur doit
Que des
ombres de métaphores.
On dirait,
Dès qu'il
neige plus dru,
De ces mains
qui refusent d'autres mains
Mais jouent
avec les doigts qu'elles refusent.
"IT'S
LIKE... "
II's like a
phrase with lots of mute e's.
You feel you
only owe them
Shadows of
metaphors.
When the
snow falls thicker,
Il's like
Hands
pushing other hands away
But playing
with the fingers they refuse.
“Người ta nói”
Người ta nói
nhiều chữ “e” câm trong 1 câu
Con người chỉ
nợ chúng
Như những cái bóng của những ẩn dụ
Người ta nói
Khi mà tuyết
xuống dày quá
Thì những bàn
tay từ chối những bàn tay khác
Nhưng lại chơi
với những ngón tay mà chúng từ chối
YVES
BONNEFOY: SECOND SIMPLICTY: New poetry and prose, 1991-2011
Tập thơ tuyệt
cú mèo. Lúc mua thì đau súng quá, nhưng về nhà đọc, thì lại thú quá!
ASIA
LITERARY REVIEW
Winter 2010
Modern
Chinese Poetry - Insistent Voices
Landscape
Above Zero
It was the
seagull that taught the song to swim
It was the
song that found the first wind's source
We shared
shards of happiness
Entering the
home from different directions
It was
father who recognized darkness
It was
darkness that led us to sudden lightning
The weeping
door slammed shut
And echo
pursued its cries
It was the
pen that bloomed in despair
It was the
flower that refused the necessary journey
It was rays
of love that awoke
Lighting the
landscape above zero
Bei Dao
Phong cảnh ở
bên trên con số không
Đó là hải âu
dậy bài ca bơi
Đó là bài ca
tìm thấy nguồn gió
Chúng ta
chia nhau những mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ
nhiều hướng khác nhau
Đó là người
cha nhận ra bóng tối
Đó là bóng tối
dẫn chúng ta tới ánh sáng bất thần
Cánh cửa nức
nở đóng sầm lại
Và tiếng
vang đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây viết
nở hoa trong chán chường
Đó là bông
hoa từ chối một chuyến đi cần thiết
Đó là những
tia tình yêu thức giấc
Soi sáng
phong cảnh ở trên con số không
Wild Temple
Peace and
meditation
Twenty years
alone on the empty mountain
An old monk
Acrid pines
He hears
people speaking in the temple
A child's
voice
Then a
woman's
Then again
the child: a startled cry
Like thin
ice, the crescent moon drifts on water
Chen
Dongdong
Miếu hoang
An lạc và trầm
tư
Hai mươi năm
cô độc
Trên núi trống
vắng
Một thầy tu già
Những cây thông
cay sè
Ông nghe tiếng
người trong miếu hoang
Giọng một đứa
trẻ
Rồi giọng 1
người đàn bà
Rổi rồi lại
đứa trẻ: một tiếng khóc thất thanh
Như băng mỏng,
trăng lưỡi liềm trôi giạt trên mặt nước
Poetry
Liu Xiaobo
Wait for Me with Dust
for my wife, who waits every day
Nothing remains in your name,
nothing
but to wait for me, together with the dust of our home
those layers
amassed, overflowing, in every corner
you're unwilling to pull apart the curtains
and let the light disturb their stillness
over the bookshelf, the
handwritten label is covered in dust
on the carpet the pattern inhales the dust
when you are writing a letter to me
and love that the nib's tipped with dust
my eyes are stabbed with pain
you sit there all day long not daring to move
for fear that your footsteps will trample the dust you try to control
your breathing
using silence to write a story.
At times like this
the suffocating dust
offers the only loyalty
your vision, breath and time
permeate the dust
in the depth of your soul
the tomb inch by inch is
piled up from the feet
reaching the chest reaching the throat
you know that the tomb
is your best resting place waiting for me there
with no source of fear or alarm
this is why you prefer dust
in the dark, in calm suffocation
waiting, waiting for me
you wait for me with dust
refusing the sunlight and movement of air
just let the dust bury you altogether
just let yourself fall asleep in the dust
until I return
and you come awake
wiping the dust from your skin and your soul.
What a miracle - back from the
dead.
ASIA LITERARY REVIEW WINTER 2010
Đợi Tôi với Bụi
Gửi vợ tôi, người mà ngày nào
cũng đợi tôi
Chẳng còn gì trong tên em,
chẳng còn gì,
ngoài chuyện đợi anh, cùng với bụi trong căn nhà của chúng ta
những lớp bụi
vun thành đống, chồng chất lên nhau, ở mọi xó xỉnh,
em cũng đâu có muốn mở toang mấy bức màn
để ánh sáng ùa vô, làm phiền sự bất động của chúng
trên những giá sách, mẩu giấy
nhãn viết tay bụi phủ đầy
trên chiếc thảm
những hoa văn hít đầy bụi
khi em viết thư cho anh
và tình yêu
với ngòi bút chấm bụi
mắt anh xót như bị dao đâm
em ngồi đó suốt ngày không dám di động
sợ bước chân của em chà đạp bụi em cố gắng kìm nhịp thở của em
viện tới sự im lặng để viết một câu chuyện.
Vào những lúc như thế
bụi nghẹt thở
dâng hiến sự trung thành độc nhất
tầm nhìn của em, hơi thở và
thời gian
tẩm đẫm bụi
ở tận thâm sâu của tâm hồn em,
nấm mồ từng chút từng chút
cao dần, từ chân
lân tới ngực, tới cổ họng
em biết nấm mồ
là nơi yên nghỉ tốt nhất của em
trong khi chờ đợi anh ở đó,
chẳng còn nguồn cơn của sự sợ hãi, hay báo động
đó là lý do tại sao em thích bụi
trong bóng tối, trong sự nghẹt thở im ắng
đợi, đợi anh
em đợi anh với bụi
từ chối ánh mặt trời và sự chuyển động của không khí
cứ mặc kệ bụi chôn em cùng tất cả
cứ mặc cho mình thiếp đi trong bụi
cho đến khi anh trở về
và em thức dậy
rũ bụi trên da và tâm hồn. (1)
Đúng là 1 phép lạ - trở về từ
cõi chết
Cái cú
dịch thơ của Gấu, thú thiệt, nó giống như cái cú phát giác ra Lò Thiêu,
khi đọc Steiner!
Sướng mê
tơi, mà cũng khổ mê tơi.
Đơn giản
thì nó như thể này: Không thể không dịch thơ thế giới, sau khi Bắc Kít
ngộ độc nặng với dòng thơ Vệ Quốc của Liên Xô!
Bắc Kít
ăn cướp được Miền Nam, 1 phần là nhờ thơ Mai A Mai Iếc.
Mới tậu. Mới
ra lò, 2011. Song ngữ.
Gấu Cái chửi
quá. Mi mắc bịnh “sách-ping”, như đờn bà mê shopping!
Bả nói, Gấu
già, lãng tai, nghe ra thành “sex-ping”.
Giống cas "phúc phương phì” trong
kho chuyện cổ Mít (1)
Dịch loạn: Kẻ
nào tính cạo đầu nên nghĩ đến thơ ca.
Aux arbres
YVES
BONNEFOY
Vous qui
vous êtes effacés sur son passage,
Vous qui
avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles
garants que Douve même morte
Sera lumière
encore n’étant rien.
Vous fileuse
matière et densité,
Arbres,
proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la
barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole
de faim, de froid et de silence.
J’entends à
travers vous quell dialogue elle tente
Avec les
chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous
appartiens par son cheminement
A travers
tant de nuit et malgré tout ce fleuve.
Le tonnerre
profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes
qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient
qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la
mediation de votre austérité.
Với cây rừng.
Rừng cây
nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa
khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng
quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh
sáng hiển nhiên không
Rừng tơ chất
niềm mật trọng
Cây thân cận
ta lúc nàng gieo mình
Xuống con
thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát
chan đói, rét, lặng thinh
Ta nghe qua
rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó
ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn
rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải
bao dặm khuya dù sông nước mịt mù
Sấm âm u dội
rền đầu ngọn cành
Những hội
đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh
nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ
khổ hạnh kiếp rừng.
TTT dịch (1)
LIU
TSUNG-YVAN
773-819
A fisherman
in the landscape was a beloved subject of poets and painters. This
poem,
however, seems to me quite complicated, in spite of its apparent
simplicity. For
here there is action, and the fisherman himself appears only toward the
end, as
somebody who rows somewhere far.
Czeslaw
Milosz: A Book of Luminous Things
Ngư phủ
trong cảnh vật, cả thi sĩ lẫn họa sĩ đều mê. Nhưng bài thơ sau đây xem
ra rắc rối
dù bề ngoài đơn giản. Bởi vì ở đây, có hành động, và tay ngư phủ già,
chính anh
già, chỉ xuất hiện ở cuối bài thơ , như 1 kẻ nào đó rắp ranh làm 1
chuyến đi
xa, thật xa.
OLD
FISHERMAN
Old
fisherman spends his night beneath the western cliffs.
At dawn, he
boils Hsiang's waters, burns bamboo of Ch'u.
When the
mist's burned off, and the sun's come out, he's, gone.
The slap of
the oars: the mountain waters green.
Turn and
look, at heaven's edge, he's moving with the flow.
Above the
cliffs the aimless clouds go too.
Translated
from the Chinese by J. P. Seaton
Người
câu cá
già
Người câu cá già qua đêm ở
mỏm Ải Tây
[từ Ải Tây này, thuổng Tô thi sĩ, trong bài tặng TTT]
Vào lúc sáng sớm, anh già ngồi đun nước mưa, hứng ở mái sau nhà, ở
Canada, đốt
củi tre nhập lậu từ xứ Mít.
Khi sương mù tan, mặt trời bò ra, anh già bèn xuống thuyền, lên đường,
làm chuyến
viễn du chót.
Tiếng mái chèo đập trên làn nước xanh
Quay nhìn, ở đường ven Thiên Đàng, thấy thấp thoáng bóng anh già cùng
di chuyển
với dòng nước
Ở trên đỉnh Ải Tây, mây, đếch biết làm gì, bèn cũng đi theo anh già!
I wonder how
we can survive, this romance
But in the
end if I'm with you, I'll take the chance
Bryan Adams
- I Will Be Right Here Waiting For
You
Note: Năm
cùng tháng tận, đời tàn, tặng Gấu Già bài thơ trên thì đúng là tuyệt cú
mèo!
Làm
sao Gấu
qua khỏi con trăng này?
Nhưng sau
cùng, nếu Gấu gặp Sad Seagull, thì Gấu sẽ chấp tất cả thế gian này!
Hà, hà!
Chúc bác
Gấu luôn mạnh khỏe, và luôn luôn... Gấu.
Sad
Seagull
Tks. Take Care, Plse
NQT
Charles
Simic
Against
Winter
The truth is
dark under your eyelids.
What are you
going to do about it?
The birds
are silent; there's no one to ask.
All day long
you'll squint at the gray sky.
When the
wind blows you'll shiver like straw.
A meek
little lamb you grew your wool
Till they
came after you with huge shears
Flies
hovered over your open mouth,
Then they,
too, flew off like the leaves,
The bare
branches reached after them in vain.
Winter
coming. Like the last heroic soldier
Of a
defeated army, you'll stay at your post,
Head bared
to the first snowflake.
Till a
neighbor comes to yell at you,
You're
crazier than the weather, Charlie.
The Paris
Review, Issue 137,1995
Shadow
Publishing Company
This couple
strolling arm in arm
Must be
figments of someone's revery.
They stop
often to linger over a kiss,
But when
people look their way,
It's as if
they do not see them.
It's the
heat, the blue dusk,
The air of
enchantment
On the
street of overgrown lilacs
And screened
porches
Where a door
is already open for them.
An old woman
waits in the dim entrance
With a
pitcher of cold lemonade
And two tall
glasses on a tray.
She wants
them to rest awhile
In her own
wedding bed and they obey.
Her late
husband was an eye doctor.
His surgical
instruments lie in glass cage
Gleaming
like cold moonlight
In dark
cuffs, he made the blind see
By removing
their bandages.
In a room
shaded against the heat,
With a few
slender lines of light
On the high
ceiling,
And that
strange sense of taking on the life
Of someone
unknown just then,
Lying there,
closing one's eyes in revery,
A figment
among figments
Living one
of their blessed moments
Without
recognizing the century.
Only the
scent of the lilacs is real.
Nhà xb bóng
Cái cặp nam
nữ kia, tản bộ, tay trong tay
Hẳn là từ
cơn mơ mòng của 1 ai đó bước ra
Họ cứ đi, được
chừng dăm, muời bước
Là bèn ngưng
lại để hôn nhau 1 phát
Nhưng mọi
người, khi nhìn về phía đó
Thì, như thể
không thấy cặp tình nhân
Cái nóng,
cái chạng vạng màu xanh
Cái không
khí hớn hở
Con phố tử
đinh hương mọc tràn lan
Và những cổng
vòm chiếu sáng
Nơi 1 cái cửa
đã mở sẵn cho họ
Một bà già đợi
họ trong lối vô mờ mờ
Với 1 bình
lemonade lạnh
Và hai cái
ly trên 1 cái khay
Bà nói họ có
thể nghỉ ngơi một chốc
Trên cái giường
cưới của chính bà và họ vâng lời.
Ông chồng đã
mất của bà già xưa là một bác sĩ mắt
Những dụng cụ
y khoa của ông thì để ở trong một cái chuồng thuỷ tinh
Chúng long
lanh như ánh trăng lạnh
Trong hai
tay áo xậm, ông làm cho người mù nhìn thấy
Bằng cách gỡ
bỏ những miếng băng
Trong căn
phòng dâm chống lại cái nóng
Trần nhà cao
le lói vài tia sáng mỏng manh
Và cái cảm
quan là lạ đánh vô cuộc đời
Một ai đó đếch
quen, đến lúc đó
Nằm đó, nhắm
mắt du mình vào mơ mòng
Một bịa đặt
trong những bịa đặt
Sống những
khoảnh khắc được ân sủng nhất
Đếch thèm nhận
ra thế kỷ…
Chỉ có mùi tử
đinh hương là có thực!
Chống Đông
Sự thực thì
mầu xám dưới mi mắt anh
Anh sẽ làm
gì với nó?
Chim chóc
nín thinh; không có ai để hỏi.
Suốt ngày
dài anh lé xệch ngó bầu trời xám xịt
Và khi gió
thổi, anh run như cọng rơm.
Con cừu nhỏ,
anh vỗ béo bộ lông của anh
Cho tới bữa
họ tới với những cây kéo to tổ bố
Ruồi vần vũ
trên cái miệng há hốc của anh
Rồi chúng
cũng bay đi như những chiếc lá
Cành cây trần
trụi với theo nhưng vô ích.
Mùa Đông
tới.
Như tên lính anh dũng cuối cùng
Của một đạo
quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng
về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi
người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng
hơn cả thời tiết, Charlie.
(1)
Introduction by Adam Zagajewski
This poetry
is about the pain of the twentieth century, about accepting the cruelty
of an
inhuman age, about an extraordinary sense of reality.
And the fact
that at the same time the poet loses none of his lyricism or his sense
of
humor-this is the unfathomable secret of a great artist.
Thơ này là về
nỗi đau của thế kỷ 20, về chấp nhận cái sự độc ác, tàn bạo, dã man của
thời phi nhân, về cảm quan cực kỳ khác thường về thực tại. Nhưng, sự
kiện, cùng
lúc, nhà thơ không mất đi 1 tí gì của chất trữ tình, hay cái cảm quan
cà chớn, tếu táo, tưng tửng của mình
– thì đó là cái bí mật khủng ơi là khủng của 1 đại nghệ sĩ.
Adam
Zagajewski: Introduction
(Translated
by Bill Johnston)
Miền Nam trước
1975 có "Đồng Nai Tam Kiệt", là TTT, BG,
TTY
Ba Lan
cũng
có Tam Kiệt. Hai trong Ba Kiệt [đừng lộn với anh chàng chăn trâu học
lớp 1 lên
làm Thủ Tướng VC], đợp Nobel văn chương, là Czeslaw Milosz và Wislawa
Szymborska.
Kiệt thứ
ba, là Zbigniew Herbert. Bài “Intro" của Adam Zagajewski thật
tuyệt.
Trên
TV đã
giới thiệu bài của Adam
Zagajewski
viết về thơ trí tuệ của Milosz.
Nay
xin đi thêm 1 đường Herbert.
Trân
trọng đón coi.
Tưởng
Niệm
Czeslaw Milosz [1911-2004]
Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Adam
Zagajewski
TWO DROPS
No time to grieve for
roses, when the
forests are burning.
-JULlUSZ
SLOWACKI
The forests
were on fire-
they however
wreathed
their necks with their hands
like
bouquets of roses
People ran
to the shelters-
he said his
wife had hair
in whose
depths one could hide
Covered by
one blanket
they
whispered shameless words
the litany
of those who love
When it got
very bad
they leapt
into each other's eyes
and shut
them firmly
So firmly
they did riot feel the flames
when they
came up to the eyelashes
To the end
they were brave
To the end
they were faithful
To the end
they were similar
like two
drops
stuck at the
edge of a face
Zbigniew
Herbert : Chord of Light
1956
Hai giọt
Làm gì có thời
gian để mà than khóc những bông hồng, khi rừng đang cháy
-JULlUSZ
SLOWACKI
Rừng đang cháy
–
Tuy nhiên họ
vòng tay ôm cổ
Như những
bó hồng
Mọi người chạy
vô hầm trú ẩn –
Anh ta nói,
vợ tôi tóc dầy thật dầy và tôi có thể ẩn náu ở trong đó
Trùm 1 tấm mền
Họ thì thầm những
lời chẳng hổ thẹn
Lời kinh của
những kẻ yêu nhau
Khi tình trạng
trở nên quá tệ
Họ nhẩy vô mắt
nhau
Và đóng chặt lại
Đóng chặt,
họ không cảm thấy ngọn lửa
Khi họ trườn
lên tới mi mắt
Tới chót, họ
thật can đảm
Tới chót,
họ
thật thương nhau
Tới chót
họ
giống như hai giọt
Dính ở
cuối
mặt
Bài thơ
trên mở ra Tuyển tập thơ 1956-1998,
của Zbigniew
Herbert.
Vẫn
trong bài Giới thiệu, Adam Zagajewski
viết:
EVERY GREAT
POET lives between two worlds. One of these is the real, tangible world
of
history, private for some and public for others. The other world is a
dense
layer of dreams, imagination, and phantasms. It sometimes happens-as
for
example in the case of W B. Yeats-that this second world takes on
gigantic
proportions, that it becomes inhabited by numerous spirits, that it is
haunted
by Leo Africanus and other ancient magi.
Mọi thi sĩ lớn
thì đều sống trong [giữa], hai thế giới. Một, thế giới thực, sờ mó, mân
mê
được, thế giới
của lịch sử, riêng tư với một số người, và công cộng đối với những
người khác.
Thế giới kia, là một tầng dầy đặc của những giấc mơ, của sự tưởng
tượng, của những
hồn ma bóng quế. Đôi khi xẩy ra điều này – thí dụ như trong trường hợp
của W.B.
Yeats – cái thế giới thứ nhì ham hố quá, chiếm nhiều chỗ quá, chứa đủ
thứ hồn
ma, tinh anh, thần thánh, yêu ma… cái thế
giới bị ám ảnh bởi Leo Africanus, hay một vì phù thuỷ cổ xưa khác.
Take the
well-known poem “Apollo and Marsyas." It is
constructed on a dense, solid foundation of myth. An inattentive reader
might
say (as inattentive critics have in fact said) that this is an academic
poem,
made up of elements of erudition, a poem inspired by the library and
the museum.
Nothing could be more mistaken: Here we are dealing not with myths or
an
encyclopedia, but with the pain of a tortured body.
Lấy bài
thơ nổi tiếng của ông,“Apollo and Marsyas." Nó được xây dựng trên 1 cái
nền
dầy đặc, cứng ngắc, của huyền thoại. Một độc giả gà mờ sẽ nói - ngay cả
Thầy
Kuốc, nhà phê bình sắc sảo nhất hải ngoại "đâu phải thời nào cũng có
được", cũng sẽ phán, đây là 1 bài thơ kinh điển, hàn lâm, của những
người có bằng cử
nhân Triết Văn Khoa Sài Gòn, như… Thầy
Đạo,
được làm bằng ba cái trò sao chép bậy bạ, làm ra vẻ ta đây trí
thức, uyên
bác; một bài thơ được gợi hứng từ thư viện và viện bảo tàng.
Nhảm ơi là
nhảm: Ở đây, trên trang Tin Văn của thằng cha Gấu Cà Chớn, chúng ta
đang đụng tới,
không phải những huyền thoại, hay bách khoa toàn thư Wiki VC, nhưng mà
là cái đau của một người dân Mít, một cơ thể
Mít, bị VC tra tấn!
Hà, hà!
Bài thứ nhì
của tuyển tập thơ Herbert cũng thật là tuyệt.
TV post ở đây, thay cho 1 chuyến về xứ Mít ăn Tết không làm sao thực
hiện
được.
PLACE
I returned
years later
perhaps too
well-fed
I wanted to
check the place
the hills
were smaller
and brown
water ran
in the
rescue trenches
grass mostly
the same
angelica
remembered
the view
contracted
was merely
normal
for so much
fear
for so much
hope
birds were
flitting
from lower
branches
to higher
branches
so even they
could not
offer me
confirmation
Xứ Mít
Nhiều năm
sau Gấu trở lại xứ Mít
Béo tốt, mập
mạp,
Nhờ bơ sữa xứ
người
Gấu muốn thăm
thú lại nơi chốn xưa
Những ngọn đồi
[Đà Lạt] xem chừng nhỏ hơn
Và một thứ
nước mầu nâu
Chảy trong
những con mương giải thoát (1)
Cỏ hầu như vẫn
như xưa
Mùi hoa lan [ở
ngã tư Phan đình Phùng – Lê Văn Duyệt, Sài Gòn]
Được tưởng nhớ
Cái nhìn làm
co thắt con tim
Thì cũng
chuyện bình thường
Bao nhiêu nỗi
đau,
Cho biết bao là
hy vọng
Chim bay từ
cành thấp
Lên cành cao
Ngay cả chúng
Cũng đếch nhận
ra Gấu. (2)
(1) Từ
"rescue" này
khó dịch quá!
(2) Ngay cả chúng cũng không thể dâng hiến sự xác nhận.
NQT
Trên Blog
Beo có bài thơ tình tiếng Hồng Mao (1), Beo bệ từ đâu về, khen hay quá,
đọc 1 phát
là nhập tâm liền tù tì, và bèn ra lệnh cho tên phi công trẻ của Beo
dịch sang
tiếng Mít. Beo xoa đầu phi công trẻ, giỏi tiếng Hồng Mao lắm lắm, GCC
tò mò ghé
coi, dịch nhảm mấy chỗ lận, đã tính sửa, nhưng chợt nhớ lời Sad Seagull
dặn, chớ,
chớ….
May quá, vớ được bài sau đây, trong số báo chót năm, của tờ Người Nữu Ước, bèn gật gù,
chấm dứt năm tận thế hụt bằng bài này, thì đúng là tuyệt cú mèo!
LOVE AND
MEMORY
How we made
love in the memorial forest for the Shoah dead
and we
remembered only ourselves from the night before!
The forest
did the remembering for us and gave us leave to love.
You remember
how we threw off our clothes in the madness of desire:
the outer
garments flew like heavy birds to the branches of the trees,
and the
underwear remained on the forest floor
clinging to
the springy briars of the thorny burnet, like snakeskins.
And our
shoes stood nearby, mouths open in psalms of praise.
- Yehuda
Amichai
(Translated,
from the Hebrew, by Bernard Horn.)
The New
Yorker Dec 24 & 31, 2012
Yêu và Tưởng
Nhớ
Làm sao mà
chúng ta mần nhau ở trong khu rừng tưởng niệm những người chết ở Lò
Thiêu,
Và chúng ta
chỉ nhớ chúng ta, đêm qua mần tình cực khoái như thế nào!
Rừng tưởng
niệm làm giùm chúng ta cái việc tưởng nhớ, để chúng ta tha hồ mà quần
nhau tả tơi,
tơi bời hoa lá cành!
Em có nhớ chúng
ta lột chúng ta như thế nào không?
Như hai đứa
khùng vì thèm nhau, và vì thèm nhau quá mà trở thành khùng điên, ba
trợn:
Quần áo mặc
ngoài, thì giống như những cánh chim nặng nề, bay lên cành cây
Xú chiêng, xịp thả xuống sàn rừng tưởng niệm
Bám vào những
núm cỏ gai, như da rắn
Và những đôi
giầy của chúng ta,
Há hốc mồm
Tụng ca.
Theo tin từ
gia đình, nhà thơ Hà Thượng Nhân, (tức Trung tá Phạm Xuân Ninh, nguyên
Giám đốc
Nha Vô tuyến truyền thanh thời kỳ Đệ nhất VNCH, nguyên Chủ nhiệm Nhật
báo Tiền
Tuyến của Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị), đã từ trần tại San Jose,
Califonia
lúc 7 giờ 45 phút chiều Thứ Ba, ngày 11 tháng 10, 2011, thọ 91 tuổi.
(Tin VHA.)
Blog DTL
GCC có 1 kỷ
niệm với Hà Chưởng Môn, là cái lần cận Tết, được ông cho tháp tùng,
cùng 1 số
anh em thuộc tòa soạn TT, đi ăn món tái chó, do 1 đệ tử của ông trổ tài
nấu nướng.
Nhớ hoài.
Lạ thế.
Sau biến cố
1975, như mọi nhân viên các cấp Quân Cán
Chính đã từng phục vụ trong chế độ VNCH, ông phải trình diện để đi “học
tập cải
tạo”. Thời gian ở trại Long Giao ông đã sáng tác bài thơ “Mưa Buồn Long
Giao” như để thay mọi
người, nói lên tâm trạng chung của họ lúc đó là chán
chường, tuyệt
vọng, không lối thoát…
Blog DTL
Phán như thế
thì đúng là... nhảm thật.
Nên nhớ là
thời gian Long Giao, đám VNCH vẫn còn tin… VC,
chỉ 10 ngày phù du, rồi lại được về với vợ
con cùng cả nước xây cái nhà Mít bằng trăm ngàn lần to hơn trước.
Chán chường
tuyệt vọng “không lối thoát” cái con khỉ.
Lo lắng cho
vợ con ở nhà thì có!
Thơ ở đâu xa của TTT, mở ra bằng
mấy bài thơ Long Giao, xin
post ở đây, để rộng đường
suy luận
Long
Giao
ngày đến
Tinh mơ xe đến
Long Giao
Đón người
đám cỏ tranh cao bên đường
Trông lên đồi
núi mờ sương
Mây bay tất
tưởi, mưa rong tần ngần
Tiêu điều
ngơ ngác trại quân
Đất lầy bùn đỏ quánh chân ghê người
Ngổn ngang chiến cụ bỏ rơi
Xanh om bờ bụi
tả tơi lũy đồn
Nhà hoang vách trống gió luồng,
Vắng tanh nỗi nhớ dập dồn bóng vang
Ngả lưng trên đất mơ màng
Hé trời trôi giạt ngỡ ngàng tấm thân
9/75
dậy sớm
Ngày chưa dậy tiếng kẻng
Mờ bạc trăng hạ tuần
Giông đầu hôm dứt lắng
Còn heo hút phân vân
Đứng ngây trời ẩm sũng
Ngóng tiếng gà thôn gần
Chỉ nghe rừng núi bủa
Lùa âm u xốn xang
đêm thu ở
lán 9
Giật mình tỉnh
giấc
Bó gối trong
mùng
Ai đâu mớ sảng
Tiếng thét
hãi hùng?
Lán khuya
mông lung
Nín ngộp tối
câm
Gió rừng heo
hút
Lùng bùng
mái tô
Người nằm
khít chật
Hơi hám nực
nồng
Vo ve muỗi
mòng
Nền cứng
toát lạnh
Đêm mùa trở
tiết
Rền rĩ dế
trùng
Sục sạo chuột
rúc
""Gô
cóng" đổ tung
Mộng kín rò
thoát
Cất lời nỉ
non
Hát câu não
lòng
Hoảng hồn ngậm
bặt
Ngoài
đêm trôi tít
Theo sao tàn
vong
Theo gió mờ
mịt
Ngày lên ngại
ngùng
75-78
Note: Bản
trên, từ tập thơ đã xb, khác bản trên talawas rất nhiều.
Từ từ TV sẽ post lại tất cả những bài thơ, theo bản in đã xb.
Cùng lúc
"đi" 1 số bài của W.G Sebald, trong Qua
sông qua nước.
Nguồn
talawas
Note: Thi sĩ
HTN mất 11, tháng 10, 2011. GCC tưởng là mới mất!
NQT
Cái này là hỏi
nhỏ bạn ta: Hình như chưa từng nếm mùi tù VC?
NQT
Thời gian
TTT làm mấy bài thơ Long Giao, 1975-1976, là cả nước Mít tưng bừng hồ
hởi với Cái
Nhà Mít tương lai.
Gấu khi đó, ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, vừa cuốc đất
vừa khóc ròng, khi nghe những tên "cùng hội cùng thuyền" hát bài Con Kinh Ta Đào, cái gì gì:
Con kinh ta đào chưa có
nước chảy qua
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng
Trời trên cao, rất quen và
rất lạ,
Cứ xanh thăm thẳm ở trên đầu
Và, tất nhiên, chỉ 1 thời
gian ngắn sau đó, cả nước Mít, nhất là Miền Nam, vỡ mộng:
Tổ Quốc ơi, ăn khoai mì
chán lắm
Từ trận đánh hôm nay,
Ta ăn độn dài dài
Ông Nhàn, chủ nhà xb Sống
Mới, thì cũng thời gian này, đem cả gia đình đi Kinh
Tế Mới, 1 buổi sáng sớm lơn tơn vác cuốc ra đồng, hát ư ử, chắc thế -
Roméo nhớ
Juliette - không nghe tên du kích vườn hô đứng lại, thế là đòm 1 phát,
đi luôn!
Nước Nga cũng
có thời kỳ như thế, thời kỳ Băng Tan, như trong bài viết The Gift cho thấy.
Mít chúng ta
cũng có The Gift, nhưng, cũng thật ngắn ngủi.
Và đó là tội ác lớn lao nhất, của
VC.
Chúng lấy của cả nước Mít "món quà" mà Thượng Đế ban cho chúng ta.
Thơ Mỗi Ngày
Cors de
chasse
Notre
histoire est noble et tragique
Comme le
masque d'un tyran
Nul drame
hasardeux ou magique
Aucun detail
indifferent
Ne rend
notre amour pathetique
Et Thomas de
Quincey buvant
L'opium
poison doux et chaste
A sa pauvre
Anne allait rêvant
Passons
passons puisque tout passe
Je me
retournerai souvent
Les
souvenirs sont cors de chasse
Dont meurt
le bruit parmi le vent
Apollinaire: Alcools
CORS DE
CHASSE
Our story is
noble and tragic
As the
face
of a tyrant not fun not for everyone
No drama
or
magic
No detail
of
what we've done
Can make
our
love pathetic
And
Thomas
De Quincey drinking
Opium
poison
sweet and chaste
Went
dreaming to his poor Ann and listened to his own eyelids blinking
Let it
pass
let it pass because everything will pass and be effaced
I will be
back not yet erased
Memories
Are
hunting
horns whose sound dies in the breeze
Ban biên tâp The
Paris Review dịch từ tiếng Tẩy,
đăng trên số Mùa Thu 2012
Tù và săn
Tình của chúng ta thì phong nhã và bi thương
Như mặt nạ của tên độc tài
Chẳng thảm kịch phiêu lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết dửng dưng nào
Có thể làm cho cuộc tình của chúng ta trở nên sướt mướt
Và Thomas De Quincey
chơi xì ke
Xì ke mới dịu dàng tao nhã làm sao...
Je vous
attendrai
Dix ans
vingt ans s'il le faut
Votre
volonté sera la mienne
Ta sẽ đợi em
Mười năm, hai chục năm, nếu cần
[Hơi bị khó
nhe!]
Ước mong của em sẽ là của ta
Apollinaire: La
maison des morts
Dịch….
loạn:
Có sức ép thật nặng nề từ lũ ngu lên những nhà làm thơ, về cái ý niệm
định
nghĩa thơ. Thơ cái đéo gì mà đếch có vần điệu, đếch làm sao gợi ra
nhịp; nó
có vẻ như được viết ra cho trang giấy, đếch phải cho cái tai. Thơ như
bị biến
tính.
INTERVIEWER
[The Paris
Review, Fall, 2012]
I wonder if
you would read a poem called "Cambodia"
from The Memory
of War.
FENTON
Of course.
One man
shall smile one day and say goodbye.
Two shall be
left, two shall be left to die.
One man
shall give his best advice.
Three men
shall pay the price.
One man
shall live, live to regret.
Four men
shall meet the debt.
One man
shall wake from terror to his bed.
Five men
shall be dead.
One man to
five. A million men to one.
And still they
die. And still the war goes on.
INTERVIEWER
I wouldn't
be the first to suggest that "the one" in that poem-the one who gives
advice and lives to regret and wakes in terror-is you, is the poet. And
I
wonder to what extent the experience of Cambodia has stayed with you,
because
while reading The Orphan of Zhao,
and now, hearing you talk about it, it
strikes me that that play is in some sense about genocide. An entire
clan gets
killed, although the orphan escapes.
Note: Ông bạn
Bạn, bạn vàng, bạn nhậu, bạn vong niên, khuyên GCC đừng đụng đến ai
nữa, mà cũng chẳng
thèm viết mẹ gì nữa, mà chỉ nên giới thiệu kịch, tất nhiên, vẫn cứ tiếp
tục làm
thơ, dịch thơ.
Tình cờ, mở
số The Paris Review, có bài
phỏng vấn nhà thơ James Fenton. Ông này cũng đang làm
kịch cho đài Royal Shakespeare Company, một ấn bản mới của 1 cái kịch
Tẫu cổ, đã
từng có vài ấn bản Tây Phương, thế kỷ 18, trong có của Voltaire, tên là
The
Orphan of Zhao
[GCC bèn nghĩ đến cái từ,
những đứa con hoang [con tư sinh, chữ
của TTT] của Miền Bắc, tức là lũ Bắc Kí di cư, trong có GCC]
Lại THNM rồi!
Không phải.
James Fenton rất quen thuộc với xứ Mít, và xứ Cambodia. Ông là phóng
viên chiến
trường, có mặt tại Phnom Penh khi Khờ Me Đỏ đợp nó, và ở Sài Gòn,
khi thất thủ, và mất mẹ cả tên.
TV sẽ chuyển
ngữ bài phỏng vấn, và có thể sẽ dịch một, hai bài thơ của ông
Qua
Sông & Nước
Đọc
thơ Sebald, ui chao, là 1 quá trình không chỉ nhằm đáp ứng bản văn.
Những bài
thơ của ông đọc những bức họa, những thành phố, những tòa nhà, những
quang cảnh,
những giấc mộng, và những hình tượng lịch sử. Kết quả là cả 1 kho của
cải bách
khoa của ẩn dụ văn chương, và điển cố văn hóa, phần nhiều đếch được
nhắc đến
tên trong bản văn chính nó. [Bạn hiểu Ải Tây là cái gì nếu không đọc
ghi chú?].
Những câu kệ của Sebald thì chứa đựng không chỉ những hầm bẫy, nhưng
còn trải 1
lối đi – gờ, rìa - ngặt nghèo, khó chịu, dọc theo hố thẳm, của cái mà,
trong 1
bài thơ, ông gọi là “lịch sử/của tra tấn xuyên qua các thời đại”. Những
khó
khăn chúng gây cho người dịch là hiển nhiên. Những từ, tự bản chất,
chính xác
sao, thì hàm hồ cũng vậy. Và người chuyển ngữ, trong từng trường hợp,
phải triển
khai trường qui chiếu, hiệu ứng, cộng hưởng, và định thần, trong bản
văn và
ngôn ngữ gốc, trước khi quyết định chọn, từ này thay vì từ kia. Với thơ
của
Sebald, những triển khai như thế mới dài thời giờ và đa dạng làm sao,
dẫn người
triển khai tới tình trạng, về một “miền u ám”, về mặt lịch sử và văn
hóa, tương
ứng với nó, là bài thơ, chính nó, lần lữa - có thể nói, mảnh khảnh, ẻo
lả - tiến
tới. Đôi khi chất u ám này – tuy cám ảnh nỗi khốn khó của người dịch –
sau
cùng, vưỡn không khứng cái từ mà người dịch chọn, dù xoay sở, hì hục
cách mấy!
Cho phép tôi đưa ra 1 thí dụ dẫn chúng ta tói trái
tim của sự khốn khó trong việc dịch thơ Sebald. Rất nhiều thơ trong tập
này - mở ra bằng 1 chuyến đi xe lửa –
tái tạo, tái kích hoạt, cuộc lữ “qua” những vùng đất đai, sông nước
(ngay cả nếu
thứ sông nước này chỉ là dòng mộng mị). Thực sự, một vài bài thơ, như
thư khố của
nhà thơ bật mí, đúng là đã được viết “trên đường", được gắn, ghim vào
những
tờ tiêu đề của khách sạn, thực đơn, đằng sau những tờ chương trình kịch
nghệ,
trong những thành phố mà Sebald từng thăm viếng. Những chuyến đi bằng
xe lửa
thường được nhắc tới, trong số những phương thức du lịch. Bài thơ sau
đây, có
thể là từ 1 trong những chuyến đi như thế. "Irgendwo," dịch qua tiếng
Mít là “Đâu đó” có thể đã được in ấn vào cuối thập niên 1990, nguyên
thuộc một
chuỗi những “vi thơ”, chúng là chất liệu cho tác phẩm được xb sau khi
tác giả mất, Unerzdhlt (Unrecounted),
2003:
Đâu đó
Đằng sau
Turkenfeld
Một vườn ương cây thông
Một ao
Vùng truông,
Băng Tháng Ba trên mặt ao
Đang chầm chậm tan
Với sự gợi
tưởng một phong cảnh hiu hắt, hắt hiu, và một đề xuất rằng thì là băng
đang
tan, bài thơ bề ngoài cho thấy giản dị, có mùi đồng quê… Chỉ có 1 chi
tiết, nếu
gợi tò mò đưa đến tìm tòi, thì là 1 địa danh [như những Long Giao, Việt
Hồng,
K2 Tân Lập…] đó là Turfenfeld: một thành phố nhỏ - thực sự, nhỉnh hơn
một làng
quê 1 tị - ở vùng Furstenfeldbruck, thuộc Upper Bavaria, trên tuyến
đường được
gọi là Allgau, Sebald thường sử dụng, để đi lại giữa Sonthofen và
Munich. Tuy
nhiên, với một dịch giả thơ Sebald thì 1 sự cảnh giác không thể thiếu
được, và
những phong cảnh trong những tác phẩm của Sebald thật khó mà ngây thơ
như bề
ngoài tưởng vậy. Cụm từ “đằng sau Turkenfeld”, tự nó, là 1 chỉ dẫn,
giống như
“how hard it is” – những từ có thể được đọc như một thứ thơ lập trình
mở ra tập
thơ này - "để hiểu phong cảnh/khi bạn đi bằng xe lửa/từ đây đến đó/và
lặng
câm nó/theo dõi bạn biến mất."
Theo nghĩa ẩn
dụ này, bài thơ đặt chính cái nhìn của người du lịch ở nơi trung tâm
của sự gặp
gỡ của nó, với phong cảnh khó hiểu, khai triển sự khó khăn, xúi giục
địa hình lịch
sử đáp trả cái nhìn bằng cách phơi ra những bí mật của nó. Rất nhiều
bài thơ của
Sebald, gây cấn, hay, gây hấn, như thế đó: chúng tạo ra trận đánh giữa
tinh anh
và cảm quan, với cái hũ nút, hay bộ mặt khó chịu, cự tuyệt của những
tầng lớp lịch
sử.
Cảm tưởng là
của 1 người đi qua 1 vùng đất những biến động tàn khốc của thế kỷ 20 đã
để lại
những hình mẫu những ngôi mộ càn cạn, nông choẹt, dưới 1 địa tầng muộn
[upper
stratum] sạch sẽ, gọn gàng, về mặt bệnh lý, của văn minh. Vậy thì, cái
gì, ở “đằng
sau” Turkenfeld?
Điều độc nhất
phong cảnh "câm nín" này tiết lộ cho người đọc-du khách, là cái tên của
nó, một ký hiệu nối kết bài thơ “hương đồng gió nội Nguyễn Bính” với
"chất
xám", "dark matter", của bầu khí lịch sử văn hóa của nó.
em. đến. và
đi
1.
gió. về gió.
về
gọi nhau
chin. đỏ
bến đỗ. nào
quạnh hiu
lá. vàng một
chiếc. lặng im
em nơi nào.
nơi nào
buổi sáng bỏ.
đi
ai. ngồi ghế.
cũ
mùi hương.
chốn nào
dấu chân
sau. khu vườn đẫm nước
gió oằn. những
ngọn cỏ. xanh
ngã. một trời.
ký ức
em. tôi tìm
kiếm. gì
trong giấc mộng.
ngày
điệu. tango
vũ theo. chiếc lá. xoay
tay. nắm bắt.
muộn màng. về
thôi ta. đi
thôi. em về
chiếc lá.
vàng trốn. đi đâu
vòng khói.
bay vòng. quanh
tiếng mưa.
thu và. khoảng cách
nghe. một lần
xa. xôi
2.
ngã. xuống
ngã. xuống
mùa hè tàn.
tạ
nắng muộn
héo. vàng
tàn phai.
trong im. lắng
ngồi. đếm.
những buổi chiều. về
câu giã từ.
biền biệt
sâu đáy nước.
bóng đá. rêu
người. xa lạ
chính. mình
tiếng hát.
trái tim vỡ. lạnh
điệu ru. buồn
những ngày. trên biển
lời. tự thuật
về. trên ngày. tháng
còn nhận ra.
nhau trong lũng. ký ức
tàn tro.
khơi dậy. những mịt mùng
ngây ngấy
mùi. vị. cũ nốt nhạc. mới
chạy quanh.
những màu nâu. trẻ
những buổi
sáng. lạnh. hơn
để nhận ra.
ly cà phê nóng. hơn
vế. đây về.
đây ca khúc. nào
xào xạc nào.
tìm. lại
tìm. lại mùa
đông. nắng. khấu trừ
cho tình
mình. khấu vá
Đài Sử
Note: Tks.
NQT
The
unadmitted reason why traditional readers are hostile
to e-books is that we still hold the superstitious
idea that a book is like a soul, and that every
soul should have its own body.
ADAM KIRSCH
Cái lý đo đếch làm sao chấp nhận được e búc, e thơ, là, chúng ta vẫn
khư
khư giữ tục mê tín, 1 cuốn sách thì giống như 1 linh hồn , và mỗi linh
hồn nên có riêng 1 cơ thể của nó.
RESURRECTION
Poetry slips
into dreams
like a diver
in a lake.
Poetry,
braver than anyone,
slips in and
sinks
like lead
through a
lake infinite as Loch Ness
or tragic
and turbid as Lake Balaton.
Consider it
from below:
a diver
innocent
covered in
feathers
of will.
Poetry slips
into dreams
like a diver
who's dead
in the eyes
of God.
Tái sinh
Thơ tuồn vô
mộng
Như người lặn
chúi đầu lao xuống 1 con hồ
Thơ, can đảm
hơn bất cứ một ai
tuồn vô, lặn
xuống
Như chì
Qua một con
hồ vô tận như Loch Ness
Hay bi thương,
dày đặc như Lake Balaton
Hãy nhìn từ
dưới đáy:
Một người lặn
Ngây thơ
Bao trùm
trong những chiếc lông chim
Của ước muốn
Thơ tuồn vô
mộng
Như tên thợ
lặn, chết
Trong con mắt
của Chúa
THE ROMANTIC
DOGS
Back then,
I'd reached the age of twenty
and I was
crazy.
I'd lost a
country
but won a
dream
As long as I
had that dream
nothing else
mattered.
Not working,
not praying
not studying
in morning light
alongside
the romantic dogs
And the
dream lived in the void of my spirit.
A wooden
bedroom,
cloaked in
half-light,
deep in the
lungs of the tropics.
And
sometimes I'd retreat inside myself
and visit
the dream: a statue eternalized
in liquid
thoughts,
a white worm
writhing
in love.
A runaway
love.
A dream
within another dream.
And the
nightmare telling me: you will grow up.
You'll leave
behind the images of pain and of the labyrinth
and you'll
forget.
But back
then, growing up would have been a crime.
I'm here, I
said, with the romantic dogs
and here I'm
going to stay.
Roberto
Bolano
Những chú
chó lãng mạn
Hồi đó
đó, khi tôi hai mươi tuổi
Và tôi khùng
Tôi mất một xứ sở
Và tôi được một cơn mộng
Chừng mào còn cơn mộng
Là đếch cần chi nữa hết
Nghĩa là,
Chẳng có gì khiến tôi quan tâm
Hay là bần thần
Không làm lụng
Không cầu nguyện
Không
nghiên cứu, học tập dưới ánh sáng buổi sáng
Bên
cạnh những con chó lãng mạn
Và
cơn mộng sống ở trong 1 khoảng rỗng của tinh anh của tôi.
Một buồng ngủ bằng gỗ,
lấp
lửng giữa mập mờ
sâu
trong những con phổi vùng nhiệt đới
Và
đôi khi tôi co rút, vào trong chính mình
Và
thăm viếng con mộng: một bức tượng
thiên thu vĩnh viễn hóa trong tư tưởng lỏng
Trong
con giun trắng quằn quại trong tình yêu
Một
tình yêu bỏ chạy
Một
con mộng trong một con mộng khác
Và
cơn ác mộng biểu tôi: Mi sẽ lớn lên, sẽ trưởng thành.
Mi
sẽ để lại đằng sau những hình ảnh của đau thương của mê cung
Và
mi sẽ quên
Nhưng
vào lúc đó, lúc tôi hai muơi tuổi
Thì
lớn lên, trưởng thành là 1 tội ác.
Tôi
đây nè, tôi nói, với những chú chó lãng mạn
Và
nè, tôi sẽ ở đây.
Note: GCC
dùng hai từ, “con mộng”, và “cơn mộng”, như nhau.
|
|