|
Thơ mỗi ngày
Where Is
Poetry Going?
Charles
Simic
This is a
question poets get asked often. The quick answer is nowhere. This can’t
be
right, you are thinking. You’ve read plenty of poems about poets
walking in the
woods, rolling in the hay and even taking a sightseeing trip through
hell. True
enough. Nevertheless, poets, even when they are fighting in a war,
rarely take
off their slippers. Doesn’t Homer’s blindness prove my thesis? I bet
every one
of those eyewitness accounts of Greeks and Trojan slaughtering each
other, and
the wonderful adventures Odysseus had cruising the Mediterranean, were
dreamed
up by Homer while waiting for his wife to serve lunch.
Sure, many
poets would deny this. Here in the United States, we speak with
reverence of
authentic experience. We write poems about our daddies taking us
fishing and
breaking our hearts by making us throw the little fish back into the
river. We
even tell the reader the kind of car we were driving, the year and the
model,
to give the impression that it’s all true. It’s because we think of
ourselves
as journalists of a kind. Like them, we’ll go anywhere for a story.
Don’t
believe a word of it. As any poet can tell you, one often sees better
with eyes
closed than with eyes wide open.
Am I
claiming, you are probably asking yourself, that most things that
happen in
poems are not true at all? Far from it. Of course they are true. It’s
just that
poets have to do a lot of time-wasting to get to the truth. Take my
case. One
day, out of the blue, the memory of my long dead grandfather comes to
me. My
eyes grow moist seeing him in the last year of his life limping around
the yard
on his wooden leg throwing some corn to the chickens. I recall the mutt
he had
then, and I put him in a poem. There’s even a rusty old truck in the
yard. The
sun is setting while my grandmother is fussing over the stove and my
grandfather is sitting at the kitchen table thinking about the vagaries
of his
life, the stupidity of the coach of the local soccer team and the smell
of bean
soup on the stove. I like what I got down on paper so far and fall
asleep that
night convinced I have a poem in the making.
The next day
I’m not so sure. The sunset is too poetic, the depiction of my
grandparents is
too sentimental, and so much of it has to go. Weeks later—since I can’t
stop
tinkering with the poem—I arrive at the conclusion that the old dog
lying in
the yard surrounded by the pecking chickens and the rooster is what I
like best.
The sun is high in the sky, a cherry tree is in flower, and the
grandfather is
out of the poem entirely. Typically, I have no idea if there will ever
be a
poem. Only God knows, and I try not to butt into his business. I strain
my ears
and stare at the blank page until a word or an image comes to me.
Nothing
genuine in a poem, or so I have learned the hard way, can be willed.
That makes
writing poetry an uncertain and often exasperating undertaking. In the
meantime, there’s nothing to do but wait. Emily Dickinson looked out
her window
at the church across the street while waiting; I look out of my window
at the
early darkness coming over the fields of deep snow.
“Poetry
dwells in a perpetual utopia of its own,” William Hazlitt wrote. One
hopes that
a poem will eventually arise out of all that hemming and hawing, then
go out
into the world and convince a complete stranger that what it describes
truly
happened. If one is fortunate, it may even get into bed with them or be
taken
on a vacation to a tropical island. A poem is like a girl at a party
who gets
to kiss everybody. No, a poem is a secret shared by people who have
never met
each other. Compared to the other arts, poets spend most of their time
scratching their heads in the dark. That’s why the travel they prefer
is going
to the kitchen to see if there is any baked ham and cold beer left in
the
fridge.
February 7,
2011 5:45 p.m.
Source
Cái cú dịch
thơ của Gấu, thú thiệt, nó giống như cái cú phát giác ra Lò Thiêu, khi
đọc
Steiner! Sướng mê tơi, mà cũng khổ mê tơi.
Đơn giản thì
nó như thể này: Không thể không dịch thơ thế giới, sau khi Bắc Kít ngộ
độc nặng
với dòng thơ Vệ Quốc của Liên Xô!
Bắc Kít ăn
cướp được Miền Nam, 1 phần là nhờ thơ Mai A Mai Iếc.
Những dòng
thơ giết người Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm, là từ đó mà ra, và còn từ
giấc mơ
tuyệt vời có từ khi có giống Mít, nhằm giải trừ lời nguyền BHD là giống
Tiên, Gấu
là giống Rừng, [Rồng], không thể ăn đời ở kiếp mí nhau được.
Bài viết
này, mới manh nha bắt đầu, nhưng sẽ có cái tên là Ngợi ca cho cái vụ
dịch thơ,
để ‘phản biện’ K!
Hà, hà!
Linda Lê lập
lại câu của Marina Tsvetaieva:…. Làm thơ đã
là dịch
rồi, từ tiếng mẹ đẻ sang một thứ tiếng khác, bất kể đó là tiếng Pháp
hay tiếng
Đức. Không một ngôn ngữ nào là tiếng mẹ đẻ. Viết thơ là viết dựa theo
một cái
gì đó. Vì thế tôi không hiểu tại sao người ta lại nói nhà thơ Pháp hay
nhà thơ
Nga, vân vân... Một nhà thơ có thể viết bằng tiêng Pháp, anh ta không
thể là một
nhà thơ Pháp. Thật lố bịch. […] Người ta trở thành thi sĩ (nếu như
người ta có
thể trở thành thi sĩ, nếu như người ta không phải ai nấy đã là thi sĩ
từ trước
!) không phải để là Pháp, Nga, vân vân…, mà để là tất cả. Hoặc nữa:
người ta là
thi sĩ vì người ta không phải là Pháp. Quốc tịch là thải loại và kết
nhập.
Orphée làm nổ tung quốc tịch hay mở rộng nó đến độ tất cả (hiện tại và
quá khứ)
đều được bao gồm trong đó.”
Kẻ Lạ Lạ
Thành
thử cái việc dịch thơ là quá cần thiết. Còn v/v sợ sai ý nguyên tác,
theo Gấu,
ngay cả dịch sai đi, do ngu dốt, thì cũng vẫn được như thường, trừ khi
cố ý dịch
sai.
Và dịch, nhiều khi rất cần đến sự tưởng tượng.
Câu của Borges sau
đây, cũng
có thể áp dụng cho việc dịch thơ.
Ông nhắc tới 1 câu của Byron, trong Hebrew
Melodies (1815):
Nàng
bước trong cái đẹp, như đêm
She
walks in beauty, like the night
Borges
phán:
Để
chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra một em, cao, tối,
tall, dark,
bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó, là 1 người đàn bà cao, tối, và cứ
thế, cứ
thế.
Nhạc
TCS, bản Phôi Pha hình như
cũng có nhắc tới hình ảnh này, Gấu tức thời
không nhớ
ra.
Câu
thơ của Huy Cận, nhờ 1 anh thợ sắp chữ hiểu sai, mà
thành hay,
cũng là 1 thí dụ về dịch thơ, mà dịch sai ý của tác giả.
Theo
giai thoại, khi đọc câu thơ “củi 1 cành khô lạc giữa dòng”, anh thợ sắp
chữ phán,
ngu quá, “lạc giữa dòng”, thì có ghê gớm chi đâu, phải là, “lạc mấy
dòng”!
Khi
Huy Cận đọc câu thơ, đã sửa, toát mồ hôi, than, tay này mới bảnh sao,
câu của
anh ta mới đúng, còn câu của tớ, sai!
Không phải là
Gấu cường điệu khi phán, dịch thơ thì cũng giống như khám phá ra Lò
Thiêu!
Ấy là bởi vì,
đúng như cái bà Nobel Jelinek phán, sau Lò Thiêu mà còn làm thơ, thì
phải có Lò
Thiêu ở trong thơ: Trong thơ của thế giới qua 1 số tác giả trên TV giới
thiệu,
như Charles Simic, Czeslaw Milosz, Adam Zagajewski,
Wislawa Szymborka,
có nỗi đau Lò
Thiêu, Lò Cải Tạo, Lò Lưu Vong, Lò Gulag… đủ thứ Lò của thế kỷ ở trong đó.
Trong khi Mít,
ngay cả 1 nhà văn lưu vong, sợ rằng cũng chưa từng có, nói gì nhà thơ!
Có lẽ phải nói,
đúng hơn, Mít có những nhà văn đã từng tự xưng là lưu vong, khi bỏ chạy
VC, bị
hải tặc hãm hại, và sau đó, khi đã cơm no ấm cật tại xứ người, thì lại
mò về, và
coi mình bây giờ là nhà văn di dân, chứ không còn lưu vong nữa!
Ngay cả những
nhà thơ ở không về, trong thơ họ có tí mùi Lò nào đâu.
Nếu có, thì là mùi Lờ!
Đọc thơ của họ,
chỉ thấy
rặt 1 trò chơi chữ, gọt chữ, chơi 36 kiểu, nào tân hình thức, nào vác
cầy qua núi…
chỉ thấy nhục cho chữ Mít, dân Mít, đó là sự thực.
Gấu này đâu
có thù hằn, khi viết, khi đụng tới họ? DTL, ngoài đời, là 1 bạn thân,
nhưng khi
Gấu viết về anh, rất nặng nề, thí dụ, có dịp gặp nhau thì lại mừng mừng
rỡ rỡ. Cứ
áo thụng vái nhau, thì biết bao giờ thơ Mít mới có mùi thơ thế giới?
Nếu có, thì
lại mùi Mai A ư?
VC làm chết
oan mạng 3 triệu người ở cả hai miền, khi cố tình gây cuộc chiến, tìm
đủ mọi cách
nhử Mẽo vô Miền Nam, bằng cú ngụy tạo đầu độc tù Phú Lợi, đưa đến ăn
cướp Miền
Nam, tạo tội ác Lò Cải Tạo, y chang cái cú đốt Quốc Hội Đức, do
Hitler phịa
ra, để mở ra cuộc làm cỏ dân Do Thái, đưa đến Lò Thiêu.
Cái chết của bao dân Mít
khi vượt biển tìm tự do, đúng là do VC gây ra, tuy nhiên, khi đám
khốn kiếp
nhà văn Mít lưu vong bò về, là chúng làm nhục những oan hồn này, không
phải VC.
Đâu có phải Mít hải ngoại
không biết, gửi tiền về là dung dưỡng chế độ VC, làm
chúng sống dài, sống dai, sống mãi, nhưng làm sao bỏ ruột thịt?
Ai cũng về,
chúng cũng có thể về, quê hương mà, họ hàng mà, làm sao bỏ, tuy nhiên,
về xin VC kiểm duyệt tác phẩm, được viết ở tự do, ở hải ngoại, bằng 1
thứ chữ Mít tự do, thì có đúng
là làm
nhục chữ Mít không?
Có huyền thoại,
cứu tử 1 nền văn học Miền Nam, trước 1975, của mấy đấng bỏ chạy ngay
những ngày
đầu sau 30 Tháng Tư.
Có sự thực,
1 nền văn học ai điếu, ngay sau 30 Tháng Tư, 1975, ở hải ngoại, của
những kẻ
may mắn thoát chết, nhìn về những kẻ đang khốn khổ trong ngục tù CS, mà
chúng
đinh ninh, không làm sao có ngày về.
Có huyền thoại, một nền
văn học hải ngoại kéo dài văn học Miền Nam trước 1975.
GNV, ngay khi vừa mới ra được ngoài này, đã "phản biện" huyền thoại cà
chớn
này, trong bài viết cho báo Việt
của băng đảng Hậu Vệ, khi còn tin tưỏng ở
chúng:
“…. dòng văn
chương hải ngoại, nhiều người vẫn coi là dòng văn chương Miền Nam kéo
dài. Ngay
một tác giả như Lê Minh Hà vốn sống ở Miền Bắc, nghĩa là không sống ở
một Miền
Nam trước 1975, mà còn lầm lẫn khi đọc nó, lần đầu, vẫn không tin là
cái mới. Trong bài trả lời phỏng vấn, đăng trên Văn Học (Cali) tháng
Bảy, 1998,
bà viết:
"Ai đó đã nói văn học hải ngoại là văn học Miền Nam nối dài cũng có cái
lý
của họ vì khi đọc, tôi thấy diện mạo văn học hải ngoại rất gần với văn
học Miền
Nam trước 75."
Rất gần, nhưng không thể
là một được. Vẫn những đề tài muôn
thuở (của một Miền Nam?) ‘ít mang tính công dân’, nhiều tính xã hội,
nhiều tính
cá nhân, riêng tư, vẫn những khóc lóc hờn giận, vẫn những cuộc tình
trắc trở...
nhưng ở trong những tác giả như Hoàng Nga, thí dụ vậy, có một điều vô
cùng khác
biệt với những nhà văn nữ Miền Nam trước 1975: cuộc tình của những nhân
vật
trong truyện Hoàng Nga giữa một nam, một nữ là đồng đẳng, trước cuộc
đời và trước
cái chết. Trong khi đó, những cảnh đời, những cuộc tình, ở trong Thụy
Vũ chẳng
hạn, không đồng đẳng: người nam hơn người nữ ở cái chết đang chờ đợi
ngay sau
cuộc tình, người nữ thất vọng thì đã sẵn những snack bars, cứ ‘tự
nhiên’ biến
thành mèo đêm, cứ ‘tự nhiên’ lao vào lửa...; gần như không có một chọn
lựa nào
khác cho họ cả.
Riêng về mặt sex, cũng vậy, rất đồng đẳng, và thoát ra ngoài
‘truyền thống’: ở những tác giả nữ trước 1975, sex là một thách đố (và
từ đó một
khí giới khi viết), trước đạo đức, dư luận, (hãy nhớ lại những nhận xét
‘thô bỉ’
đối với Vòng tay học trò của
Nguyễn Thị Hoàng: người ta muốn đồng nhất tác giả
với nhân vật trong truyện. Ở đây, lại thấy Derrida, khi ông khẳng định,
chẳng
có chi ngoài văn bản, và sự cần thiết, của một cái chết, của tác giả.
Chỉ có
cái chết của tác giả [Roland Barthes], mới giải phóng bản văn ra khỏi
mọi sợ hãi!).
Bây giờ, ở hải
ngoại, nhà văn nữ hết còn trông cậy vào sex, để nói lên ý hướng nổi
loạn của họ.
Nói như vậy không có nghĩa là văn học hải ngoại mất chất ‘muôn đời’ của
một người
nữ Việt Nam, nhưng để nhìn ra một sự thực: đã có một ý hướng đạo đức
‘mới’,
trong cách nhìn chính thân thể mình, của Giới tính Thứ nhì: họ hoàn
toàn tự do,
khi sử dụng bất cứ ngôn ngữ nào, kể cả ngôn ngữ thân xác. Ý thức chính
trị của
một Hoàng Nga, vẫn thí dụ vậy, rất cao, bà biết bà muốn gì, khi viết,
khi sống,
khi để cho những nhân vật của bà sống, hoặc chết. Ở đây, tôi muốn nhắc
lại một
ý niệm toán học, vốn đã được Michel Foucault sử dụng khi liên hệ những
cơn điên
và những bài thơ, của cùng một Holderlin: chúng là những isomorphism
[2]. Là một,
nhưng không phải là một. Văn chương hải ngoại rất gần với văn chương
Miền Nam
trước 75, nhưng không thể nhập (nhằng) lên nhau được.”
Tản mạn về cái
mới
Sau 1
chấn động đẩy cả 1 dân tộc
ra biển, những kẻ sống sót, nhìn về tương lai phiá trước, thì giờ đâu
mà than
khóc, “kéo dài” 1 nền văn học đã mất?
Nếu kéo dài, thì làm sao có những
nhà phê bình như Thầy Cuốc, Thầy Phúc, bởi vì chính VP đã từng phán,
Miền Nam
trước 1975, không có phê bình gia.
Rồi những người viết cầm bút sau 1975, như
Hoàng Nga, thí dụ, họ đâu muốn kéo dài 1 thứ văn học chẳng có họ, họ
cũng chẳng
nợ nần gì nó?
Toàn phán nhảm,
vậy mà cũng xúm lại khen!
Trường hợp Linda Lê, như
đoạn trích dẫn
trên cho thấy, bà đâu có coi bà là nhà văn Pháp đâu. Nhưng Thầy Phúc
không chịu,
khăng khăng bắt phải là Tây, phải thuộc về dòng chính.
Đâu có phải viết văn bằng
tiếng Tây,
thì thành Đầm đâu.
Kundera, đã tiên liệu có
những đầu óc
thiển cận như vậy, và bèn giới thiệu trường hợp nữ văn sĩ tchèque, viết
văn bằng tiếng Pháp, trong bài "Lưu vong giải phóng theo Vera Linhartova":
Khi
Linhartova viết bằng tiếng Pháp, liệu bà còn là một nhà văn
tchèque? Không.
Bà trở thành một nhà văn Tây? Cũng không luôn.
Bà thì ở đâu đó.
"Đâu đó" như ngày xưa Chopin đã từng, như sau này, mỗi người mỗi
cách, Nabokov, Beckett, Stranvinsky, Gombrowwics, đã "đó đâu". Lẽ dĩ
nhiên, mỗi cá nhân sống đời lưu vong của mình, theo kiểu của mình,
không ai bắt
chước ai, và kinh nghiệm của Linhartova chỉ là một trường hợp giới hạn.
Nhưng điều đó chẳng ngăn cấm được, những bản văn tới bến của bà lóng
lánh như
những viên kim cương, và người ta không thể nói về lưu vong như trước
nữa, nếu
đã đọc chúng!
Kundera:
Gặp gỡ
Ui chao hành lạc trong bất lực
và đau đớn!
Thảo nào, cứ đòi về hoài!
Charles
Simic
Against
Winter
The truth is
dark under your eyelids.
What are you
going to do about it?
The birds
are silent; there's no one to ask.
All day long
you'll squint at the gray sky.
When the
wind blows you'll shiver like straw.
A meek
little lamb you grew your wool
Till they
came after you with huge shears
Flies
hovered over your open mouth,
Then they,
too, flew off like the leaves,
The bare
branches reached after them in vain.
Winter
coming. Like the last heroic soldier
Of a
defeated army, you'll stay at your post,
Head bared
to the first snowflake.
Till a
neighbor comes to yell at you,
You're
crazier than the weather, Charlie.
The Paris
Review, Issue 137,1995
Chống Đông
Sự thực thì
mầu xám dưới mi mắt anh
Anh sẽ làm gì
với nó?
Chim chóc nín
thinh; không có ai để hỏi.
Suốt ngày dài
anh lé xệch ngó bầu trời xám xịt
Và khi gió
thổi, anh run như cọng rơm.
Con cừu nhỏ,
anh vỗ béo bộ lông của anh
Cho tới bữa
họ tới với những cây kéo to tổ bố
Ruồi vần vũ
trên cái miệng há hốc của anh
Rồi chúng cũng
bay đi như những chiếc lá
Cành cây trần
trụi với theo nhưng vô ích.
Mùa Đông tới.
Như tên lính anh dũng cuối cùng
Của một đạo
quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng
về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi
người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng
hơn cả thời tiết, Charlie.
Cái cú dịch
thơ của Gấu, thú thiệt, nó giống như cái cú phát giác ra Lò Thiêu, khi
đọc
Steiner! Sướng mê tơi, mà cũng khổ mê tơi.
Đơn giản thì
nó như thể này: Không thể không dịch thơ thế giới, sau khi Bắc Kít ngộ
độc nặng
với dòng thơ Vệ Quốc của Liên Xô!
Bắc Kít ăn
cướp được Miền Nam, 1 phần là nhờ thơ Mai A Mai Iếc.
[Thế còn cái
Cô Mai Cô Mốt của Thầy đâu rồi? Ghi tạm ở đây, tính sau].
Những dòng
thơ giết người Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm, là từ đó mà ra, và còn từ
giấc mơ
tuyệt vời có từ khi có giống Mít, nhằm giải trừ lời nguyền BHD là giống
Tiên, Gấu
là giống Rừng, [Rồng], không thể ăn đời ở kiếp mí nhau được.
Bài viết này,
mới manh nha bắt đầu, nhưng sẽ có cái tên là Ngợi ca cho cái vụ dịch
thơ, để ‘phản
biện’ K!
Hà, hà!
Nhân
Ngày
Tình Yêu
Cả 1 dòng sông đứng lại chờ
[nhạc]
Thơ TMT không
‘tục lụy’, như thơ DTL. Thí dụ, DTL có những câu như “tôi hôn người,
hôn môi, rất
tham” [?], TMT, không:
Môi
tôi mùi
thuốc còn thơm hơi
Tuyệt!
Thơ TMT
gần với cõi thơ Bà Huyện Thanh Quan, nhưng lâu lâu, cũng “hạ
trần”, nhất là hai câu này, quái thay, lại làm nhớ đến 1 thần nữ trong
văn học
Tầu:
Tôi xa người
như xa cơn mưa
Tóc tôi còn
ướt đến bây giờ
Đến bây giờ,
đến bao giờ, đến hoài hoài, đến mãi mãi!
Ngày tình
nhân
Love me
TMT
Chiều
ngu ngơ
phố thị
Bài thơ này,
mở ra cõi thơ của Gấu, làm, đúng những ngày vừa tới xứ lạnh, gặp lại cô
bạn ngày
nào, nhưng đầu óc thì vẫn ở trại tị nạn!
Thành thử cô
bạn cũng bực, và có lần hỏi, thế còn cái cô ‘còn chút mồ hôi’ đâu rồi?
Đọc, thì cũng
nên đọc thêm cái mẩu Bụi, và cái câu thơ thần sầu, chúng
mình chỉ là hai hạt bụi
lỡ thương nhau, rồi sau đó, hát 1 khúc TCS, ngày sau sỏi đá cũng cần có
nhau,
thì mới đủ bộ!
Sikiew nổi
tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của nó.
Ngay những
giấc mơ của họ cũng đầy bụi.
Chúng mình
chỉ là hai hạt bụi lỡ thương nhau.
Người xưa
thèm nắm áo đề thơ.
Có lần anh mơ thấy em.
Và sau đây là bài thơ nắm áo:
Chiều ngu ngơ phố thị...
*
Môi
tôi mùi thuốc còn thơm hơi
Trong Yêu của Chu
Tử, có xen, sau cơn mưa, thằng đàn ông với
gói thuốc, rút 1 điếu, làm 1 hơi, mắt lim dim, mặc xác em nằm tê hê, và
tác giả,
kẻ kể chuyện, thay mặt người đàn bà, mọi người đàn bà, chửi toáng lên,
nó coi
mình không bằng hơi thuốc lá của nó!
Già quá rồi,
quá đát rồi, nói chuyện ngày tình nhân, không sợ con nít nó cuời cho ư….
Bất giác nhớ
đến bài thơ sau đây, do Czeslaw Milosz tuyển chọn.
ANNA SWIR
1909-1984
Poems about
an old woman are rare, as if there were a tendency to relegate her to
the realm
of half-existence. But Polish poet Anna Swir returns to that subject
several
times with love and compassion.
Thơ về bà già
thì hiếm, như thể, có khuynh hướng coi bà già thuộc ‘nửa cõi’, [chân
trong chân ngoài,
huyệt; hay, giường?].
Tuy nhiên nhà
thơ nữ Ba Lan,
Anna Swir, trở
lại với đề tài này vài lần, với tình yêu và cảm thông
THE GREATEST
LOVE
She is
sixty. She lives
the greatest
love of her life.
She walks
arm-in-arm with her dear one,
her hair
streams in the wind.
Her dear one
says:
"You
have hair like pearls."
Her children
say:
"Old
fool."
Translated from the Polish
by Czeslaw
Milosz and Leonard Nathan
Mối tình vĩ đại nhất
Nàng sáu bó,
sống mối tình
lớn lao nhất của nàng.
Nàng dạo bước,
tay trong tay với người tình
Tóc nàng chảy dài theo gió
Người yêu nịnh
nàng:
“Tóc em như
ngọc trai”.
Mấy đứa con
của nàng thì gật gù:
“Đúng là bà
già khùng!”
*
READING HISTORY
for Hans Magnus
At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet.
With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.
How vast, dark, and impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,
Someone who is walking away from me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,
Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.
*
THE VOICE AT 3:00 A.M.
Who put canned laughter
Into my crucifixion scene?
Charles Simic
*
Last Meal
The waiter was dressed in black
and wore a hood
and when we told him we needed a little more time,
his pencil froze in
the air above his pad.
And later when he came back
to ask if we were finished, we shook our
heads no,
our forks still raised over our empty plates.
BILLY COLLINS
TLS JANUARY 21 2011
Note: Hai
bài thơ trên, thật tình cờ, cùng đề tài! Một nặng, một nhẹ, và đều,
khôn kham!
ENCOUNTER
We were
riding through frozen fields in a wagon at dawn.
A red wing rose in the
darkness.
And suddenly
a hare ran across the road.
One of us pointed to it with his hand.
That was
long ago. Today neither of them is alive,
Not the hare, nor the man who made
the gesture.
O my love,
where are they, where are they going-
The flash of
a hand, streak of movement, rustle of pebbles.
I ask not out of sorrow, but in
wonder.
Wilno, 1936
Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004
Gặp gỡ
Chúng tôi đi
qua những cánh đồng băng giá trong một chiếc xe ngựa vào lúc rạng đông.
Một
cánh đỏ
dâng lên trong đêm tối .
Bỗng chợt, một
con thỏ rừng băng qua đường.
Một người
trong đám chúng tôi giơ tay chỉ
Chuyện đó
lâu lắm rồi. Bây giờ chẳng còn ai trong số họ còn sống,
Con thỏ rừng,
không, mà cái người giơ tay chỉ, cũng không.
Ôi tình yêu
của tôi ơi, họ đâu cả rồi, họ đi đâu tất cả rồi -
Cái
nhoáng một cái của cánh
tay đưa lên, cái giật 1 cái của chuyển động, cái tiếng rì rào của những
viên sỏi.
Tôi hỏi,
không phải là do buồn rầu, mà do ngạc nhiên, hoặc ngỡ ngàng.
Nhân
Ngày
Tình Yêu
Cả 1 dòng sông đứng lại chờ
[nhạc]
Ngày
tình nhân
Love me - Pablo Neruda
Chiều
ngu ngơ
phố thị
Art2all.net
*
hãy nói cho
em biết
đặng lệ
khánh
Thời giờ có
đủ không anh
Để sống lại
từ đầu
Còn đủ ngày
tháng không anh
Để sống cho
ngày sau
Ta có còn đủ
thời gian
Để đừng hỏi
mình quen
nhau từ bao giờ
Ta đang có một
khung trời
xanh cho
mình ngẩn ngơ
Em đang cắt
những dây trói
Em ghét mũ
nón buộc ràng
Em muốn cởi
đôi giày vướng víu
Em sẽ đi
chân trần thênh thang
Anh đừng
quay đầu nhìn lại
Anh sẽ hoá
đá
Sẽ nát tan
Em sẽ không
còn ai để hỏi
Ta còn được
bao nhiêu thời gian
Còn được bao
nhiêu lửa
Trong trái
tim đã mòn
Ta sẽ sống
như chưa hề được sống
Sẽ tận cùng
như không tận cùng hơn
Những dấu hỏi
sẽ là lời giải đáp
Chỉ có ta,
Anh và Em,
Và những
tháng năm buồn
Đặng Lệ
Khánh
Note: To TV.
Happy
Valentine’ Day
*
On
Valentine’s Day
Gởi em bài
thơ Giáng Sinh
Làm cho một
người quen
Giáng Sinh
có hai màu
xanh và đỏ
Và cây
thông,
và quà cáp
Và ngọn lửa
trong lò sưởi
Anh giữ lại
màu xanh
Chỉ gởi em
màu đỏ
Thông đã tàn
Đèn đã tắt
dư hương còn
nguyên đó
Anh gởi em
Lò sưởi đã
đóng
Nhưng lửa vẫn
còn
Đủ thắp ngọn
nến hồng
Cắm lên chiếc
bánh hình quả tim
Nho nhỏ
Màu đỏ
Anh gởi em
Happy
Valentine’s Day
To You
K
Re: Irises
Anh
T. có chắc ở đây nói đến Cầu Vồng không ?
Iris
là hoa iris, bán đầy dẫy ở đây (VN không thấy), có đủ màu sắc rất đẹp,
hơi
giống hoa glayeuls nhưng mềm mại hơn, cánh mỏng manh hơn, và nhụy cũng
như vài
cánh hoa có vân giống như lông . K thấy hay bán trong chợ nhất là loại
hoa màu
tím sẫm , bó chung với các loại khác như cúc daisies … để cắm trong
bình .
Tongue
ở đây là một phần của cánh hoa thường nằm dưới như chiếc lưỡi thè ra
vậy .
Buổi
tối, làm sao mà thấy cầu vồng ? Hơn nữa, at the edge of the rain là ở
nơi mà
mưa không rơi đến, ở bên lề một cơn mưa .
Tks.
Sẽ coi lại, và sửa sau. NQT
Anh
Tru oi,
K
da tranh dich tho, vi dich tho kho lam . Anh Son dich tho J.P. vi
tho ong
ay gian di, khong the hieu sai y duoc . Con nhung nha tho khac, nhat la
nhung
nha tho tri thuc, y tuong cu cao xa voi voi thi van cua ho cung ... rac
roi lam
, dich sai cung ky` . Anh goi tho cua anh cho a2a di , tho anh cung hay
vay .
K
Tks. Re: tho cua toi.
Nhưng không thể không dịch, dù dịch sai. (1)
Tho
J.P, truoc 1975 bao Van dich,
cung bi che
la dich sai, dung cai bai TTS dich do!
NQT
(1)
Tôi xin kết luận những
triển luận này về những người biệt xứ bằng việc trích dẫn Marina
Tsvetaieva, nữ thi sĩ Nga có một số phận bi thảm, Tị nạn ở Pháp, ngày
6/7/1926, bà đã viết cho Rainer Maria Rilke: “Goethe đã nói ở đâu đó
rằng người ta không thể thực hiện được cái gì lớn lao bằng tiếng nước
ngoài – điều đó, bao giờ tôi cũng thấy có vẻ sai. […] Làm thơ đã là dịch rồi, từ tiếng
mẹ đẻ sang một thứ tiếng khác, bất kể đó là tiếng Pháp hay tiếng Đức.
Không một ngôn ngữ nào là tiếng mẹ đẻ. Viết thơ là viết dựa theo
một cái gì đó. Vì thế tôi không hiểu tại sao người ta lại nói nhà thơ
Pháp hay nhà thơ Nga, vân vân... Một nhà thơ có thể viết bằng tiêng
Pháp, anh ta không thể là một nhà thơ Pháp. Thật lố bịch. […] Người ta
trở thành thi sĩ (nếu như người ta có thể trở thành thi sĩ, nếu như
người ta không phải ai nấy đã là thi sĩ từ trước !) không phải để là
Pháp, Nga, vân vân…, mà để là tất cả. Hoặc nữa: người ta là thi sĩ vì
người ta không phải là Pháp. Quốc tịch là thải loại và kết nhập. Orphée
làm nổ tung quốc tịch hay mở rộng nó đến độ tất cả (hiện tại và quá
khứ) đều được bao gồm trong đó.”
Linda Lê
I lost two
homelands, but I sought a third: a space for the imagination, a domain
that
held room for artistic needs that were still not entirely clear to me.
I lost a
real city, but I sought a city of the imagination. I picked poetry as
my
province relatively late, later than many others do
Adam
Zagalewski: Another Beauty
[Tôi mất hai
quê nhà, nhưng tôi kiếm quê nhà thứ ba: một không gian cho sự tưởng
tượng, một
miền cư ngụ của những nhu cầu nghệ thuật chưa hoàn toàn rõ ràng đối với
tôi.
Tôi mất một thành phố thật nhưng tôi kiếm một thành phố của sự tưởng
tượng. Tôi
lượm lên thi ca khá muộn, so với những người khác, và coi đây là quê
nội của
mình.]
All writing
is a species of remembering
Mọi cái viết
thì đều là một thứ chủng loại của hồi nhớ
ADAM ZAGAJEWSKI
ENCOUNTER
We were
riding through frozen fields in a wagon at dawn.
A red wing rose in the
darkness.
And suddenly
a hare ran across the road.
One of us pointed to it with his hand.
That was
long ago. Today neither of them is alive,
Not the hare, nor the man who made
the gesture.
O my love,
where are they, where are they going-
The flash of
a hand, streak of movement, rustle of pebbles.
I ask not out of sorrow, but in
wonder.
Wilno, 1936
Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004
Gặp gỡ
Chúng tôi đi
qua những cánh đồng băng giá trong một chiếc xe ngựa vào lúc rạng đông.
Một
cánh đỏ
dâng lên trong đêm tối .
Bỗng chợt, một
con thỏ rừng băng qua đường.
Một người
trong đám chúng tôi giơ tay chỉ
Chuyện đó
lâu lắm rồi. Bây giờ chẳng còn ai trong số họ còn sống,
Con thỏ rừng,
không, mà cái người giơ tay chỉ, cũng không.
Ôi tình yêu
của tôi ơi, họ đâu cả rồi, họ đi đâu tất cả rồi -
Cái
nhoáng một cái của cánh
tay đưa lên, cái giật 1 cái của chuyển động, cái tiếng rì rào của những
viên sỏi.
Tôi hỏi,
không phải là do buồn rầu, mà do ngạc nhiên, hoặc ngỡ ngàng.
Note: Bài
thơ trên, liệu có thể xếp vào mục, thơ dành cho Valentine?
Có thể lắm chứ!
GNV nghĩ đến mấy từ “O my love”, của Milosz, và, chỉ đến khi được đọc
bài thơ
này, thì mới ngộ ra được câu thơ của TMT:
Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay.
Giọt
Mưa
Trời Khóc
Từ "sao", của TMT, và từ "wonder", của Milosz, tương tự, nhưng ở
Milosz, có nhiều người, có con thỏ rừng; ở TMT, là "thời gian được sắp
xếp lại thành bài thơ",
theo ý Brodsky [... that any
poem is reorganized time]: cái thiên thu gặp cái hiện tại.
Giống, mà,
cũng không giống.
The Lovers
In the woods
one fair Sunday,
When we were
children,
We came upon
a couple lying on the ground.
Hand in
hand, ourselves afraid
Of losing
our way, we saw
What we
first thought was a patch of snow,
The two
clutching each other naked
On the bare
ground, the wind
Swaying the branches over them
As we stole
by, never to find out
Who they
were, never to mention it afterwards
To each
other, or to anyone else.
Charles
Simic: Master of Disguises
Tình nhân
Trong khu rừng,
một Chủ Nhật đẹp trời,
Khi chúng tôi
còn là hai đứa con nít,
Hai đứa chợt
bắt gặp một cặp nằm trên mặt đất.
Hai đứa chúng
tôi, tay trong tay, sợ bị lạc,
Chúng tôi thấy
cái gì gì, thoạt đầu lại nghĩ là một mảng tuyết.
Hai thân hình
ôm dịt lấy nhau, trần truồng cả hai.
Trên mặt đất
trần.
Gió đùa những
cánh lá phủ lên họ.
Và khi hai đứa
chúng tôi tuồn qua,
Chẳng hề biết,
Họ là ai,
Chẳng bao giờ
nói chuyện này, sau đó,
Giữa hai đứa
mí nhau,
Hay bất cứ một
ai.
Tôi xa người như xa cơn mưa
Tóc tôi còn ướt đến bây giờ
Nhớ tôi người có châm điếu
thuốc
Nhớ tôi người có đi trong mưa
Tuyệt!
Đọc bài trên, thì phải bù bằng
bài này.
MUSIC HEARD
Music heard with you
was more than music
and the blood that flowed
through our arteries
was more than blood
and the joy we felt
was genuine
and if there is anyone to
thank,
I thank him now,
before it grows too late
and too quiet.
Adam Zagajewski
[From Eternal Enemies]
NGHE NHẠC
Âm nhạc
nghe với anh thì còn hơn
cả âm nhạc
và máu chảy ở trong tim
thì còn hơn cả máu
và niềm vui mà chúng ta bỏ lại
thì đúng thứ con nai vàng
và nếu có ai để mà cám ơn
tôi cám ơn người ấy - thường
hay vuốt tóc tôi – vào lúc này
trước khi quá muộn
và quá im ắng
*
Tôi xa người
nắng buồn trên vai
Môi tôi mùi
thuốc còn thơm hơi
Người xa tôi
một dòng sông trắng
Dẫy núi bên
kia có ngậm ngùi
Tôi xa người
hàng cây bâng khuâng
Nước dâng
chiều xuống nhớ muôn trùng
Người xa tôi
có ra đứng ngóng
Một cánh
chim bay ở cuối rừng
Tôi xa người
như xa cơn mưa
Tóc tôi còn
ướt tới bây giờ
Nhớ tôi người
có châm điếu thuốc
Nhớ tôi người
có đi trong mưa.
Người xa tôi
gió cũng lặng thinh
Tôi rung nỗi
nhớ ở quanh mình
Người như suối
chảy qua rừng vắng
Cả một dòng
sông đứng lại chờ
9/93
Câu thơ
"Nhớ tôi người có đi trong mưa" làm nhớ cái cảnh GNV bỏ cái quán hẹn,
khi BHD đến trễ, chờ đúng 5 phút không thấy là bỏ đi, “hoàng hạc nhất
khứ bất
phục phản”!
Sau này, anh
nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y
khoa, suốt
quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn
nói, con
này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ
(có lần
anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Câu thơ ‘Nhớ
tôi người có châm điếu thuốc’, thì lại làm bật ra bài thơ sau đây :
Buồn như cái
hộp quẹt ở trong nhà,
Khi ai cũng
bỏ hút thuốc lá!
Hai câu sau
đây, mà chẳng “ướt” sao?
Buồn như cục
xà bông
Khi BHD bước
ra khỏi cái bồn tắm!
Sad as a
Ship in a Bottle
Sad as a
matchbox in a house
Where
they've stopped smoking.
Sad as a
soap of a movie queen
After she
steps out of the shower.
Sad as the
love pill
In a pocket
of a dead man.
Happy as a
mouse in a rocking chair.
Happy as a
pair of dentures ...
No, wait a
minute! Something's wrong here!
Sad as a
maybug in June.
Sad as a
hotdog-eating champion
Having
dinner in a fish restaurant.
Charles
Simic: Master in Disguises
Buồn như 1
con tầu nằm trong 1 cái chai
[GNV
thích,
cảnh ngược lại!]
Buồn như cái hộp diêm quẹt
ở trong nhà
Khi ai
cũng
bỏ hút thuốc lá
Buồn như
cục
xà bông của nữ hoàng điện ảnh
Khi nàng
bước
ra khỏi cái vòi hoa sen
Buồn như
viên Viagra
Trong túi
1
thằng cha đã ngỏm
Vui như
chú
chuột
Trên cái
ghế
lắc la lắc lư
Vui như
cặp
răng giả....
Ấy chết,
xin
lỗi, có gì lộn ở đây !
Buồn như
con
bọ ăn lá cây
Vào 1
ngày
tháng Sáu
Buồn như
anh
chàng vô địch ăn hotdog
Một bữa
ăn tối
tại cửa hàng chuyên phục vụ món cá
*
Nguyễn Thị
Hoàng
1938 -
Vết Thương
Cuối Cùng
một đêm kia
trái tim tôi ngừng đập
máu thôi hồng
và tóc sẽ thôi đen
sẽ khô cạn hết
đôi hồ nước mắt
thôi còn ai
âu yếm gọi tên em
đừng xua đuổi
tôi đã nguyền trốn tránh
chân thôi đi
và miệng sẽ thôi cười
thôi cô độc
bởi không còn kiêu hãnh
nỗi ê chề
đau đớn của riêng tôi
ở trên đó
sao sương mờ mịt lắm
hồn tôi bay
quanh quĩ đạo mặt trời
xin vũ trụ
chút hương nồng lửa ấm
kẻo khi xưa
quen lạnh lẽo trên đời
người ta sẽ
cười vui và tiếp tục
trong thiên
đường và địa ngục trần gian
đôi mắt ấy
chưa một lần biết khóc
bởi đôi tay
chưa hứng lấy điêu tàn
em từ giã và
mang theo hờn tủi
suốt một đời
như bóng núi chơ vơ
anh dù đến
dù đi, em mòn mỏi
suốt một đời
hấp hối nỗi bơ vơ
em sẽ nói với
vì sao thứ nhất
gọi giùm tên
một kẻ dưới xa kia
viên ngọc
quí đã tan tành nước mắt
bởi yêu người
tôi chọn kiếp điên mê
( Tập san
VĂN )
Nguồn Gió O
Bài thơ này,
không thấy đề tác giả làm năm nào, tạp chí Văn khi ra hải ngoại, hay
trước
1975, tại Miền Nam.
GNV thích nhất
câu:
Thôi cô độc
bởi không còn kiêu hãnh.
Cái tít "Vết
thương cuối cùng", thì chắc là để nhắc tới vết thương đầu tiên, “vết
thương dậy
thì”, "em lên anh nhé”, "mưa không ướt đất"…. của 1 thời xa xưa...
-Nằm yên…!
Trần Thị
NgH.
-Em đã biết
tay anh chưa?
TTT
Hoặc là Thượng
Đế thần thông, và, đếch ra cái chó gì, nhìn từ cái thế giới mà ông ta
tạo ra.
Đúng
là 1 Lão Tặc Thiên!
Hoặc là Thượng
Đế thì OK, và thế giới bị tuột ra khỏi tay của ông ta, và nếu như thế,
ông ta đâu
có thần thông chó gì!
Trường phái
Epicurus
[Czeslaw
Milosz trích dẫn]
Liệu tôi có
thể nói với họ: làm đếch gì có Địa Ngục,
một khi mà họ
học được từ trái đất, Địa Ngục là cái đó đó?
You who
were born this night
To tear us from the Devil’s might
-
TRADITIONAL POLISH CAROL
Đấng sinh
ra đêm nay
Để kéo chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Đồng dao Ba Lan
[Czeslaw Milosz trích dẫn]
Whoever
considers as normal the
order of things in which the strong triumph,
and the weak fail, and life ends with death,
accepts the devil's rule
Kẻ nào coi ‘cái xứ mình nó
thế’- tức, coi bình thường, cái trật tự sự vật theo đó kẻ
mạnh
thì thắng,
kẻ yếu thì thua, và đời thì chấm dứt bằng cái chết - kẻ đó chấp nhận
luật của Quỉ.
Czeslaw Milosz
A Few
Memories
Shu Ting
A wine cup
knocked over
Stone paths
float in moonlight
On green
grass, pressed down
A lost red mountain flower
Eucalyptus
trees turn
Crowded
stars kaleidoscope
By the rusty
iron anchor
Eyes reflect
a dizzy sky
A book
raised to block off candlelight
Fingers held
gently between lips
In thin
crisp silence
Dreams are
half-awake
Translated
by Luo Hui, with Zheng Danyi and Martin Alexander
Vài kỷ niệm
Ly rượu đổ
Lối sỏi bập
bềnh dưới ánh trăng
Trên cỏ
xanh, bông hoa núi mầu đỏ đánh mất,
bị nghiền nát
Rừng bạch đàn
biến
sao trời chen chúc
thành kính vạn hoa
Bên chiếc
neo sắt rỉ
Mắt phản chiếu
bầu trời loạng quạng
Cuốn sách
nâng lên che ánh nến
Ngón tay nhẹ hờ trên môi
Trong nỗi lặng ròn, mỏng
Mộng chập chờn
*
One
Generation
Gu Cheng
Black night
gave me black eyes
But I use
them to search for brightness
Translated
by Luo Hui
Một
thế hệ
Đêm đen cho
tôi mắt đen
Tôi dùng
chúng để tìm ánh sáng
ASIA
LITERARY REVIEW, Winter 2010
*
LEOPOLD
STAFF 1878-1957
This poem
was written immediately after World War II. in Poland, among the ruins,
of
which those in the figurative sense were even more oppressive than the
physical
ones. There was literally nothing. How could a poet react to that
situation ?
What was left was to do what a child does, who when trying to draw a
house
often starts with the smoke from the chimney, then draws a chimney, and
then
the rest. So this is a poem of naked faith.
FOUNDATIONS
I built on
the sand
And it
tumbled down,
I built on a
rock
And it
tumbled down.
Now when I
build, I shall begin
With the
smoke from the chimney.
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz
Bài thơ này
được viết liền tù tì sau Đệ Nhị Chiến, ở Ba Lan, giữa những điêu tàn,
từ đó bật
ra điều này: cái cảm quan mang tính biểu tượng lại tỏ ra hung hăng hơn,
so với cảm
quan vật chất.
Chẳng còn gì hết, đúng là như thế, cái lai quần của Chị Út Tịch cũng
chẳng còn!
Nhà thơ phản
ứng ra sao trước tình cảnh đó?
Cái còn lại
để làm là cái mà đứa bé làm: nó vẽ 1 căn nhà, và thường bắt đầu bằng tí
khói
bay ra từ ống khói, rồi tới ống khói, và sau đó, tiếp tục phần còn
lại.
Như vậy, bài
thơ là 1 niềm tin trần trụi.
Có thể Bác H.
đã hình dung ra căn nhà này, khi sắp đi xa, và di chúc lại cho dân Mít:
Thắng
trận giặc này, Mít ta sẽ cây nhà Mít to bằng trăm ngàn lần nhà cũ!
Bằng
khói!
Khói gì?
Khói thuốc!
Lâu rồi, GNV đọc 1 cái phóng sự về dân ghiền
ở trong nước, tay ký giả cho biết,
bài hát, đúng hơn, câu hát mà họ cực mê là "một làn khói trắng ru đời
vào
quên lãng…".
Lần
đầu tiên Gấu nghe bản nhạc này, “Bài không tên số 7”, là ở nông
trường cải tạo
Đỗ Hòa.
Khi đọc bài phóng sự, Gấu mới thấm: Cú độc của VC, sử dụng ma túy đánh
Mỹ Ngụy, bây giờ mới cho thấy hậu quả của nó [cái gì gì, second-hand
effect, gậy
ông đập lưng ông?]
Một trong những lý do Mẽo rút khỏi Miền Nam, là GI lậm nặng
ma túy.
Xây Nhà
Tôi xây nhà
trên cát
Sụp
Tôi xây nhà
trên cục đá
Sụp
Thế là bây
giờ, bắt đầu từ đầu,
tôi sẽ xây
nhà bằng tí khói từ ống khói
Hoặc là Thượng
Đế thần thông, và, đếch ra cái chó gì, nhìn từ cái thế giới mà ông ta
tạo ra.
Đúng
là 1 Lão Tặc Thiên!
Hoặc là Thượng
Đế thì OK, và thế giới bị tuột ra khỏi tay của ông ta, và nếu như thế,
ông ta đâu
có thần thông chó gì!
Trường phái
Epicurus
[Czeslaw
Milosz trích dẫn]
Liệu tôi có
thể nói với họ: làm đếch gì có Địa Ngục,
một khi mà họ
học được từ trái đất, Địa Ngục là cái đó đó?
You who
were born this night
To tear us from the Devil’s might
-
TRADITIONAL POLISH CAROL
Đấng sinh
ra đêm nay
Để kéo chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Đồng dao Ba Lan
[Czeslaw Milosz trích dẫn]
Whoever
considers as normal the
order of things in which the strong triumph,
and the weak fail, and life ends with death,
accepts the devil's rule
Kẻ nào coi ‘cái xứ mình nó
thế’, tức, coi trật tự sự vật, theo đó, kẻ
mạnh
thì thắng,
kẻ yếu thì thua, và đời thì chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận
luật của Quỉ.
Czeslaw Milosz
Poetry
Liu Xiabo
Wait for Me
with Dust
for my wife, who waits every day
Nothing
remains in your name, nothing
but to wait
for me, together with the dust of our home
those layers
amassed,
overflowing, in every corner
you're
unwilling to pull apart the curtains
and let the
light disturb their stillness
over the
bookshelf, the handwritten label is covered in dust
on the
carpet the pattern inhales the dust
when you are
writing a letter to me
and love
that the nib's tipped with dust
my eyes are
stabbed with pain
you sit
there all day long not daring to move
for fear
that your footsteps will trample the dust you try to control your
breathing
using
silence to write a story.
At times
like this
the
suffocating dust
offers the
only loyalty
your vision,
breath and time
permeate the dust
in the depth
of your soul
the tomb inch by inch is
piled up from the feet
reaching the chest
reaching the throat
you know
that the tomb
is your best resting place waiting for me there
with no
source of fear or alarm
this is why you prefer dust
in the dark,
in calm suffocation
waiting, waiting for me
you wait for
me with dust
refusing the
sunlight and movement of air
just let the dust bury you altogether
just let
yourself fall asleep in the dust
until I return
and you come
awake
wiping the
dust from your skin and your soul.
What a
miracle - back from the dead.
ASIA
LITERARY REVIEW WINTER 2010
Đợi Tôi với Bụi
Gửi vợ tôi, người mà ngày
nào cũng đợi
tôi
Chẳng còn gì
trong tên em, chẳng còn gì,
ngoài chuyện
đợi anh, cùng với bụi trong căn nhà của chúng ta
những lớp bụi
vun thành đống,
chồng chất lên nhau, ở mọi xó xỉnh,
em cũng đâu
có muốn mở toang mấy bức màn
để ánh sáng ùa
vô, làm phiền sự bất động của chúng
trên những
giá sách, mẩu giấy nhãn viết tay bụi phủ đầy
trên chiếc thảm
những hoa văn hít đầy bụi
khi em viết thư cho anh
và tình yêu
với ngòi bút chấm bụi
mắt anh xót như bị dao đâm
em ngồi đó
suốt ngày không dám di động
sợ bước chân
của em chà đạp bụi em cố gắng kìm nhịp thở của em
viện tới sự
im lặng để viết một câu chuyện.
Vào những lúc
như thế
bụi nghẹt thở
dâng hiến sự
trung thành độc nhất
tầm nhìn của
em, hơi thở và thời gian
tẩm đẫm bụi
ở tận thâm sâu
của tâm hồn em,
nấm mồ từng
chút từng chút
cao dần, từ chân
lân tới ngực, tới cổ họng
em biết nấm mồ
là nơi
yên nghỉ tốt nhất của em
trong khi chờ đợi anh ở đó,
chẳng còn nguồn cơn của sự sợ hãi,
hay báo động
đó là lý do tại sao em thích bụi
trong bóng tối, trong sự nghẹt thở
im ắng
đợi, đợi anh
em đợi anh với
bụi
từ chối ánh
mặt trời và sự chuyển động của không khí
cứ mặc kệ bụi
chôn em cùng tất cả
cứ mặc cho mình
thiếp đi trong bụi
cho đến khi
anh trở về
và em thức dậy
rũ bụi trên da
và tâm hồn.
Phép lạ, phép
lạ - trở về từ cõi chết.
Bài thơ
trên, bản tiếng Anh, xuất hiện lần thứ nhất, trên Asia
Literary Review, số Mùa Đông 2010.
|
|