|
Thơ mỗi ngày
Thơ mỗi ngày
JULIA
HARTWIG 1921-
Expectation
of an imminent
calamity. Many people have lived through such a moment, but they
haven't left
poems about it. Yet those moments are an integral part of history, of
many
cities and countries.
Ngửi thấy mùi thảm họa. Nhiều
người Mít
đã trải qua một khoảnh khắc như thế, nhưng họ quên không để lại 1 bài
thơ.
Tuy
nhiên, những khoảnh khắc này là 1 phần toàn thể của lịch sử, của nhiều
thành phố
và xứ sở.
Boys kicking a ball on a vast
square beneath an obelisk
and the apocalyptic sky at
sunset to the rear
Why the sudden menace in this
view
as if someone wished to turn
it all to red dust
The sun already knows
And the sky knows it too
And the water in the river
knows
Music bursts from the
loudspeakers like wild laughter
Only a star high above us
stands lost in thought with a
finger to its lips
Translated from the Polish by
Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh
Czeslaw
Milosz giới thiệu, trong A Book of
Luminous Things
Đầu năm
mà đọc bài thơ này thì
hơi bị nhảm.
Nhưng biết đâu đấy, đúng là
dịp đọc nó?
Ở bên trên chúng
ta
Trẻ con chơi đá
banh ở một công viên rộng lớn
bên dưới Đài
Kỷ Niệm Điện Biên
và bầu trời
tận
thế thì đỏ mọng,
‘không gian
bỗng đỏ rực, rồi đêm xuống trùm lên tất cả’
Tại sao cái sự
hăm dọa bất thần như thế
Như thể có 1
người nào đó ao ước biến tất cả thành bụi đỏ
[Có phải đốt
sạch Trường Sơn,
thì cũng đốt]
Mặt trời biết
điều đó
Bầu trời cũng
biết điều đó
Nước sông Sài
Gòn cũng biết luôn
Nhạc “Như có
Bác H trong ngày vui như thế này”,
bỗng ré lên
như 1 tiếng cười man rợ
từ chiếc loa
của Ban Thông Tin Phường Bến Nghé
Chỉ có 1 ngôi
sao ở thật cao trên đầu chúng ta,
thì vẫn
như lạc lõng trong suy tư,
với ngón tay
đặt lên đôi môi
*
BHD
[1947-28.8.2005]
L'adieu
Apollinaire
(1880-1918)
J'ai
cueilli ce brin de
bruyère
L'automne est morte
souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur
terre
Odeur du temps brin de
bruyère
Et souviens-toi que je
t'attends
Lời
vĩnh biệt
(1)
Ta đã hái nhành lá cây thạch
thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết
rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng
được nữa
Mộng trùng lai không có ở
trên đời
Hương thời gian mùi thạch
thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó
...
(2)
Ðã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ
bao
Thu còn sống sót đâu chăng
nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu
chào
Anh nhớ em quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng
xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm
tháng
Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán
tam
(3)
Mùa thu chiết liễu nhớ chăng
em ?
Ðã chết xuân xanh suốt bóng
thềm
Ðất lạnh qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn
Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng
mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm
mùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh
tại
Thạch thượng khuê đầu nguyệt
diểu mang
Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ
cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như
mơ
Nét mi sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì
ngủ yên
Bùi
Giáng (1925-1998) dịch
(Ði vào cõi thơ, tr 80-82, Ca
Dao xuất bản, Sàigon, Việt Nam)
Nguồn
Thơ dịch
THANH TÂM TUYỀN
MALLARMÉ
Le vierge, le vivace et le bel
aujourd’hui
Va-t-il nous déchirer avec un coup d’aile ivre
Ce lac dur oublié que haute sous le givre
Le transparent glacier des vols qui n’ont pas fui
Un cygne d’autrefois se souvient que c’est lui
Magnifique mais qui sans espoir se délivre
Pour n’avoir pas chanté la region òu vivre
Quand du stérile hiver a resplendit l’ennui
Tout son col secouera cette blanche agonie
Par l’espace infligée à l’oiseau qui le nie
Mais non l’horreur du sol òu le plumage est pris
Fantôme qu’à ce lieu son pur éclat assigne
Il s’immolise au songe froid de mépris
Que vêt parmi l’exil inutile le Cygne .
Ngày trinh nguyên, phơi phới thắm tươi
Chừng đập cánh say sảng lộng rách
Hồ đặc quên dưới giá ẩn hiện
Gương băng cánh chim xưa không bay
Con thiên nga thuở cũ nhớ mình
Kỳ vĩ nhưng tự do vô vọng
Bởi chốn dung thân không hót tụng
Khi mùa đông trơ ánh chán chường
Vùng thoát giấc trắng xóa tiêu hồn
Không gian chim rẽ rúng hãm
cầm
Nào rớt bùn nhơ thân vấy tởm
Ma quỷ tinh anh tự đọa trầm
Ngây sững chiêm bao lạnh
khinh mạn
Lốt Thiên Nga ngày hão phiêu
vong .
Aux arbres
YVES BONNEFOY
Vous qui vous êtes effacés sur son
passage,
Vous qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles garants que Douve même morte
Sera lumière encore n’étant rien.
Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.
J’entends à travers vous quell dialogue elle tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.
Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la mediation de votre austérité.
Với
cây rừng.
Rừng cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không
Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong
linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng
thinh
Ta nghe qua rừng giọng nàng
gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ
đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước
đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù
sông nước mịt mù
Sấm âm u dội rền đầu ngọn
cành
Những hội đám sét thắp rực
đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh
ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp
rừng.
Thơ dịch
5
năm TTT ra đi
Fyodor
Dostoevsky, Những Con
Quỉ
Như ngộ
ra tình yêu, khám phá
ra biển, sự khám phá Dos đánh một cái dấu ngày tháng quan trọng lên đời
một người,
và cú này thường xẩy ra khi vừa mới lớn; đám lớn tuổi mò tới những tác
giả
thanh thản hơn. Vào năm 1915, tại Geneva,
tôi ngốn ngấu Tội ác và Hình phạt, qua bản dịch tiếng Anh rất dễ đọc
của
Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết này, mà những nhân vật của nó là
một tên
sát nhân và một em điếm, đối với tôi, có vẻ khủng khiếp chẳng thua gì
cuộc
chiến đang bủa vây quanh…
Borges
Nếu
chúng ta coi cuốn Buồn
Nôn của Sartre được viết trên cái nền là khúc nhạc Jazz, Ôm em trong
tay mà đã
nhớ em những ngày sắp tới, Some of these days, I will miss U, honey,
thì cái
bóng của cuốn Tội Ác và Hình Phạt, mà tay Đại khư khư cầm trên tay phủ
lên toàn
thể những ngày tháng ở Hà Nội, của Tâm, của Đại, "khủng khiếp chẳng
thua
gì cuộc chiến vây quanh" những ngày 1954, và
sau cùng là,“đi và ở đều là những chọn lựa miễn
cưỡng, chia lìa hoặc
cái chết.”
Ngày 22
tháng 3 năm nay,
2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về
thơ của
ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ
Thanh Tâm Tuyền phải
được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra
thế giới
bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta
khó cảm
hay yêu thơ của ông.”
Năm năm
đã qua, liệu đã đến
lúc chúng ta giải phóng nhà thơ ra khỏi thời của ông, như cách nhìn của
Steiner
về nhà văn và thời của người đó, rằng, tất cả văn chương lớn thì giầu
có hơn,
và vượt ra ngoài vòng ôm của một thời, that all literature is richer
than any
single subsequent time could possibly appreciate in full. (1)
Đây
cũng là ý của Bakhtin,
khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai của môn nghiên cứu văn học
Nga:
“Tác giả và những người đồng thời với họ nhìn, công nhận, và đánh giá,
chủ yếu
về điều gần gụi với những ngày của chính họ. Tác giả bị cầm tù bởi thời
của anh
ta, bởi sự hiện diện của chính anh ta. Thời tiếp thời và những thời kế
tiếp
nhau như thế sẽ giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm tù, và giới học giả
được vời
tới để tham sự vào sự giải phóng này” (1)
(1)
Reading George Steiner,
[Đọc Steine], Nathan A. Scott, Jr. and Ronald A. Sharp biên tập, The
Johns
Hopkins University Press.
Sở dĩ
Gấu này phải đợi 5 năm
nhà thơ ra đi, là để được hân hạnh tham dự vào cái công cuộc giải phóng
nhà thơ
ra khỏi câu phán tuyệt vời trên, nó đóng chặt nhà thơ vào thời của ông,
và sự
hiện diện của chính ông!
*
Dưới
đây, là nhận xét của Ngài
Tiên Chỉ VP, về cuộc di cư 1954:
Thật
vậy, hiệp định đình
chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ
được họ [CSMB]
thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng
thời,
không muộn hơn một ngày nào.
Lúc ấy chính quyền quốc gia
lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào Miền
Bắc. Di
cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì vào theo nhà
nước để
lãnh hương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và
chết giữa
đám con cháu v.v...
Võ
Phiến: Bắt Trẻ Đồng Xanh
Bài viết này GNV đọc ngay khi
vừa ra lò, chỉ nhớ mài mại. Bây giờ, được đọc lại, mới hỡi ơi, vì cách
nhìn của
VP về cuộc chiến Mít, về chính quyền VNCH…, mới hạn hẹp làm sao.
Cả bài viết, nhằm mục đích
tố
cáo Miền Bắc, không hề bỏ qua 1 ngày nào, trong cái việc làm sao ăn
cướp cho được
Miền Nam, đồng thời tố cáo cái thái độ ‘nhảm nhí, tầm phào’, của VNCH,
cả trong
chiến địch di tản, di cư 1954, như những dòng trên cho thấy!
I had not thought there were
so many
Whose sole delight in life
Was to bring misery to
others.
How the crowds adore them!
How they cheer their endless
wars!
It makes me lose my faith.
Braving this January wind and
snow,
After a night of bad dreams
And spells of anger at him
For dying young and leaving
me here
To beat with raw fists
Against the padlocked
cemetery gate,
Begging man or god to let me
in.
Charles Simic: Master of Disguises
Cha ở trên
Trời
Tớ đâu có nghĩ là có nhiều tên
khốn kiếp đến như thế
Niềm vui độc nhất của chúng ở
trên đời
Là đem đau khổ đến cho những
người khác
Làm sao mà đám đông ngưỡng mộ
chúng!
Làm sao mà đường ra trận lúc
nào cũng đẹp lắm đối với tất cả một lũ đó!
Điều này làm tớ mất niềm tin
Bất chấp Tháng Giêng này với
gió và tuyết
Sau một đêm đầy những giấc mộng
xấu
Trút hết giận dữ lên ông ta
Tại làm sao mà lại đi xa sớm
như thế,
bỏ mặc tớ ở đây,
chống lại, chỉ bằng hai nắm
tay trần,
cái khoá cổng nghĩa địa.
Năn nỉ, van xin, con người hay ông trời, hãy cho
tớ vô bên
trong đi
Ouvrez-moi cette
porte où je frappe
en pleurant !
Dust of
Snow
The way
a crow
Shook down on me
The dust of snow
From a hemlock tree
Has given my heart
A change of mood
And saved some part
Of a day I had rued.
Robert Frost
Bụi
Tuyết
Cách
con quạ
Giũ xuống người tôi
Bụi tuyết
Từ cành thông
Làm lòng tôi
Thay đổi
Một chút vui
Trong một ngày buồn
Nhiều
nhà thơ nổi tiếng của
Hoa Kỳ đã làm thơ ca ngợi cây Giáng sinh trong đó có Robert Frost. Bài
thơ về
cây Giáng sinh của nhà thơ nổi tiếng này rất dài mà tôi thì không dám
dịch thơ
nên tôi xin thay thế bằng một bài thơ rất ngắn cũng nói về cây trong
mùa Đông.
Tôi thích bài thơ này vì cái không khí lạnh lẽo tĩnh lặng của nó.
Bản
dịch của nhà văn Nguyễn
Quốc Trụ post lên đây để bạn đối chiếu cho vui.
Cái
cách mà con quạ từ trên cây
thông
rũ bụi tuyết xuống người tôi làm cho trạng thái của trái tim
của tôi
thay đổi, và, đã cứu được một phần nào đó của 1 ngày mà tôi hối tiếc.
Blog Hải Hà
*
Trong
nguyên tác, tác giả không
hề cho chúng ta biết, là ông vui, hay là buồn.
Bản dịch của HH, theo tôi, có tính chủ quan ở
chỗ đó,
Nhưng
động từ ‘save’ này,
khiến chúng ta đoán mò, rằng ông nhà thơ hối tiếc 1 ngày đã qua, và nhờ
cái cách rũ tuyết của con quạ lên người ông, [cử chỉ đó làm thay đổi
trạng thái của
trái tim của ông], sự hối tiếc của ông về ngày hôm đó đỡ đi 1 phần
nào.
Đó là
"cách" của Gấu này hiểu bài
thơ trên.
Trân
trọng, và chúc mừng Năm
Mới tới HH và gia đình.
NQT
Note: Bài thơ này cũng khó
nhá lắm.
TV link 1 trang net, liên
quan tới cách hiểu bài thơ:
Dust Of
Snow Analysis
Theo
như cái "còm"
dưới đây, thì "hemlock tree" không phải là cây thông, mà là 1 thứ cây
độc,
và lời giải thích của tác giả cái “còm”, theo Gấu, thật tuyệt, và có
lẽ, đúng
nhất!
Ashok Limaye from India
Comment 57 of 78, added on
May 18th, 2007 at 1:51 AM.
Sincerely,
this poem is one
of the best poems I have ever heard of or read. There are so many
interpretations to this poem that I could talk about it for ages, but
instead
of that, I’m going to explain the way I see it.
The way a
crow – The crow
represents the death and is a symbol of bad luck.
Since crows are dark, they
represent the comparison of good (snow, white) against evil (crow,
black).
Not only is this understandable but something interesting is that
“Black-Krow on Snow” is currently my “MSN” nickname and it has been so
for a long
time. In some way, Robert Frost and I share the same thoughts. It might
be a
reason for which I have become a fan of most of his work. He has
probably
gone through “dark, sad, black” parts of life, just like me, and then…
Shook down on me the dust of
snow – The narrator receives “dust of snow” on him. The act of
receiving
represents a trigger. The dust of snow is another comparison of “good”
against
“evil” or “clean” against “dirty”
From a hemlock tree – This is
the part that has exploded in my mind when I looked up in an Internet
dictionary and learned that hemlock is a dangerous and venomous tree
specie. Add
this to the crow and you notice an extremely powerful coincidence and
aura of
death and bad luck. This creates an enormous sensation in me,
just like anxiety. It pretty much describes the worst thing you would
encounter.
Has
given my heart
A change of mood
And saved some part
Of a day I had rued –
This
represents the reaction created by the trigger. It triggers a good
feeling in
the narrator because the all of this makes him realize that his “rued”
day was nothing bad compared to this. In fact, it was so extreme
compared to
his bad day that finally, he notices that he has passed a great day and
it
changes his mood. This means
that when Robert Frost went face to face with
death, he changed his mind about his life and
became more
optimistic and
confident about it.
*
Quả là
1 bài thơ thần sầu.
Bất giác Gấu nhớ tới bài thơ đầu tiên mà Gấu được đọc, của Frost, khi ở
trại
tị nạn
Thái Lan: Dừng Ngựa Bên Rừng Chiều Tuyết
Phủ.
Bài thơ này được 1 nhà xb lấy ra 1 mẩu, làm cái tít cho 1 cuốn sách
dậy tiếng Anh. GNV học tiếng Anh từ cuốn này: "Promises To Keep",
"Những lời hứa phải giữ".
Cái tay
nào, hay, phái đoàn nào, hay Cao Uỷ Tị Nạn, khi dùng cuốn sách đó cho
người tị nạn học tiếng Anh, quả là
có tính tiên tri, vì nó cảnh báo:
Mi có
nhiều lời hứa phải giữ
lắm đấy, thay vì mặt dầy bò về!
Nhớ chưa, mấy anh mấy chị mấy
ông mấy bà nhà văn tị nạn hải ngoại Mít?
Robert Frost
Stopping by Woods on a Snowy
Evening
Whose woods these are I think
I know.
His house is in the village,
though;
He will not see me stopping
here
To watch his woods fill up
with snow.
My little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse
near
Between the woods and frozen
lake
The darkest evening of the
year.
He gives his harness bells a
shake
o ask if there is some
mistake.
The only other sound's the
sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark
and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I
sleep,
And miles to go before I
sleep
Dừng ngựa
bên rừng buổi chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng
Ngựa của tôi chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy cái chuông
nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
*
SMALL
OBJECTS
My
contemporaries like small
objects,
dried starfish that have
forgotten the sea,
melancholy stopped clocks,
postcards
sent from vanished cities,
and blackened with illegible
script,
in which they discern words
like "yearning;'
"illness;' or "the end."
They marvel at dormant
volcanoes.
They don't desire light.
Chuyện
nhỏ
Người
cùng thời với GNV thích ba chuyện nhỏ,
sao biển khô, quên mẹ mất biển
cả từ đời nảo đời nào,
những chiếc đồng hồ buồn ngưng
chạy, những tấm bưu thiếp,
gửi từ những thành phố đã biến
mất,
đen thui với những chữ không
làm sao đọc được,
như ‘khát khao’, ‘bịnh’ hay, ‘sau
cùng’.
Họ ngỡ ngàng trước những ngọn
núi lửa đã nguội, và đang ngủ.
Họ đếch thích ánh sáng
LIFE IS
NOT A DREAM
In the
beginning, freezing
nights and hatred.
Red Army soldiers fired
automatic pistols
at the sky, trying to strike
the Highest Being.
Mother cried, perhaps
remembering
the sentimental stories of
her childhood.
Coldwater Street ran beside the river
as if trying to outrace it-
or to reach its distant
sources,
still pure beyond a doubt, recalling the dawn's joy.
If life
is a dream,
then the phoenix may actually
exist.
But in Krakow
life revived
under the sign of common
pigeons:
in the Planty
Gardens,
alongside veterans
clad in the tattered uniforms
of at least three armies,
young beauties made
appearances,
and music-loving plane trees
donned
their finest new foliage
outside Symphony Hall.
Should
one honor local gods?
A beggar at the marketplace
in Lucca
moved from stand to stand
garnering tributes-proud as
Diana.
It's more difficult to find
nymphs
where we live, though,
and great Pan didn't leave
his calling card.
Important memories-stern
monuments
to monotheism - were
inscribed
only in the trees and on
church walls.
We
tried courage, since there
was no exit.
We tried cunning, but it
failed.
We tried patience and fell
asleep.
We wrote poems like leaflets
and leaflets
like pages from burgeoning
epics.
Dreams grew like hibiscus flowers.
Dark wells opened in the
night.
We tried cynicism; some of us
succeeded.
There was great joy, don't
forget.
We tried time; it was
tasteless, like water.
Finally,
much later, for
unknown
reasons, the clocks began
to revolve ever faster above
us,
as in archival, silent films.
And life went on, inevitable
life,
so skeptical, so practiced,
coming back to us so
insistently
that one day we felt the
taste of ordinary failure,
of common tragedy upon our
lips,
which was a kind of triumph.
Đời thì không phải là 1 giấc
mơ
Vào lúc
thoạt đầu, thì là những
đêm lạnh giá, và hận thù
Hồng Quân bắn súng lục như điên
Lên bầu trời, tính hăm dọa Thượng
Đế.
Mẹ khóc, có lẽ nhớ những câu
chuyện làm mủi lòng khi còn là 1 cô bé
Con phố Coldwater Street
chạy kế bên con sông,
Như muốn vượt lên nó –
hay là tới được những nguồn
xa xôi,
vẫn trinh nguyên, vượt quá hồ
nghi, gợi nhớ niềm vui rạng đông
Nếu đời
là 1 giấc mơ,
thì chim phượng hoàng hẳn là có thực.
Nhưng cuộc sống ở Krakow đã sống lại
dưới dấu hiệu của những con
chim bồ câu chung:
tại công viên, dọc theo những
cựu chiến binh,
trong những bộ quân phục rách
bươm, của ít nhất là ba thứ quân đội,
những em xinh như mộng khoe
nhan sắc,
và những cây tiêu huyền mê âm
nhạc
xúng xính trong những tàng lá
đầu tiên tuyệt vời của chúng,
ở phía bên ngoài Viện Âm Nhạc
Hòa Tấu.
Liệu ai
đó có nên vinh danh
những vị thổ thần?
Một
đấng ăn mày ở Chợ Bến Thành
nhích nhích,
từ 1 chỗ lạy ông đi qua, tới 1 chỗ lạy bà đi lại,
thu gom những đồng
bạc Cụ Hồ,
ấy chết xin lỗi, những lời vinh danh, tưởng niệm – hãnh diện như
Diana.
Tuy nhiên,
thật
quá khó, để mà tìm những nàng ‘nymphs’,
và vị thần Pan vĩ đại thì lại quên không
để lại tấm thẻ gọi điện thoại.
Những kỷ niệm
quan trọng – những đài tưởng niệm lạnh lùng thờ độc thần –
thì chỉ được khắc ở
trên cây hay trên tường nhà thờ.
Chúng ta thử can đảm,
kể từ khi không còn lối ra.
Chúng ta thử bịp,
nhưng thất bại.
Chúng ta thử kiên
nhẫn, và ngủ gục.
Chúng ta làm thơ
như những tờ rơi, tờ rớt
như những trang sách
từ những sử thi, hùng ca đang nở rộ.
Những giấc mơ mọc
lên như những bông dâm bụt.
Những cái giếng âm
u mở vào ban đêm
Chúng ta thử trò đểu
giả; có vài tên thành công
Có niềm vui lớn, đừng
quên
Chúng ta thử thời
gian; nó nhạt thếch như nước lã.
Sau cùng, mãi thật
lâu sau đó,
Không hiểu vì những
lý do gì, những cái đồng hồ tích tắc trở lại,
nhưng chạy ngược chiều, nhanh như
chưa từng như thế, ở trên đầu chúng ta,
Như trong những
cuốn phim câm, chứa trong kho.
Và cuộc đời
lại
tiếp tục, cuộc đời không thể nào tránh được,
Thật nản, thật thực
dụng.
Nó trở lại với chúng
ta thật nhẫn nại, thật nài nỉ, dai như điả đói
đến một ngày nào đó,
chúng ta cảm thấy mùi của sự thất bại bình thường,
của bi kịch chung,
ở trên môi của chúng ta,
giống như là 1 thứ
chiến thắng.
Adam
Zagajewski: Eternal
Enemies
It
seems that the voice we
humans own
Will never sound, never
celebrate,
Only a wind from the age of
stone
Keeps on knocking at the
black gate.
And it seems to me that under
the sun
I alone remain-this honor's
mine,
Simply because I was the
first
Who wanted to drink the
deadly wine.
1917
Akhmatova
Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có
đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ
đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng
đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn
độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của
tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là
người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc
THE LAST TOAST
I drink
to the house, already
destroyed,
And my whole life, too awful
to tell,
To the loneliness we together
enjoyed,
I drink to you as well,
To the eyes with deadly cold
imbued,
To the lips that betrayed me
with a lie,
To the world for being cruel
and rude,
To God who didn't save us, or
try.
1934
Akhmatova
Bữa nhậu chót
Ta uống
mừng căn nhà đã hoàn
toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời ta, thật dễ sợ
nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô đơn mà ta và mi
cùng chia sẻ
Mừng mi nữa chứ, làm sao
không?
Mừng đôi mắt lạnh lùng chết
người
Mừng cặp môi thốt lời dối trá
Mừng thế giới quá tàn nhẫn,
thô bạo
Mừng Ông Trời đếch thèm cứu
vớt,
và cũng chẳng thèm thử cứu
vớt,
chúng ta.
Như một
đề tài, cái chết là
một thứ thuốc thử mầu tốt để xét nghiệm đạo hạnh của một nhà thơ. Thể
loại ‘ai
điếu’ thì thường được sử dụng để rèn luyện trò thương thân, hay dành
cho những
chuyến đi siêu hình nhằm thể hiện tính cao ngạo ngầm của kẻ sống sót
đối với
nạn nhân, của đa số (những kẻ còn sống) đối với thiểu số (những người
đã chết).
Anna Akhmatova không mắc mớ gì đến chuyện này. Bà chăm chút đến cái tư
riêng của
những người đã nằm xuống, thay vì biến họ trở thành những trường hợp
chung, kể
từ khi bà chỉ viết về 1 thiểu số, và như vậy, thật dễ dàng cho bà, khi
phải nhận
dạng trong bất cứ trường hợp. Bà giản dị viết về họ, coi họ như là
những cá nhân
mà bà đã từng quen biết, và là người mà bà cảm thấy sẽ không bị sử dụng
như là điểm
khởi đầu cho bất cứ một hướng đi nào, cho dù đặc biệt ra sao.
Lẽ
đương nhiên, những bài thơ
như thế không thể được in ra, ngay cả chuyện viết ra mặt giấy, hay là
chép lại,
thì cũng không. Chúng chỉ có thể được ghi vào trí nhớ, bởi nhà thơ, hay
cùng lắm,
bởi dăm ba bạn thân, kể từ khi mà bà không thể nào tin tưởng được cái
trí nhớ của
riêng bà. Đôi khi, gặp 1 người bạn thân như vậy, tại 1 nơi chốn riêng
tư, bà sẽ
nói, này, này, đọc lại một cách lặng lẽ bài này, hay bài kia, hay cái
sự chọn lọc
đó, như là 1 cách thức để sắp xếp cái ngăn kéo của hồi nhớ, dành riêng
cho thơ.
Đừng bao giờ nghĩ, đây là 1 thứ trò chơi quá trớn, hay cường điệu, hay
thái quá:
con người ở đây có thể bị biến mất, biệt tăm biệt tích, mãi mãi, chỉ vì
những điều
còn nhỏ nhặt hơn là 1 mảnh giấy với vài hàng chữ trên đó. Ngoài ra, bà
không sợ,
quá nhiều, cho riêng bà, hay cho cậu con trai đang ở tù, mà bà quá
tuyệt vọng dõng
dã 17 năm trời, chờ mong ngày nhận được giấy phép ra trại. Một mẩu giấy
với vài hàng
chữ trên đó gây mất mát, tổn hại rất nhiều, đối với người chủ của nó,
hơn là đối
với bà, một người chỉ còn có thể mất hy vọng, hay là mất luôn cái đầu,
nghĩa là,
trở thành điên loạn.
Hỡi ơi, những ngày của cả
hai, - mất hy vọng và điên cái đầu - sẽ đếm được, khi nhà cầm quyền
kiếm thấy “Kinh
Cầu”, một vòng những bài thơ diễn tả tình cảnh, sự thử thách, của 1
người đàn bà,
con trai bị bắt, và đứng đợi dưới chân những bức tường nhà tù với gói
đồ thăm
nuôi, hay chạy hối hả từ những nha sở này, tới nha sở khác để có được
tin tức về
số phận của con. Bây giờ, thời gian chung quanh bà, thì mang tính tự
thuật, đúng
như thế, tuy nhiên, sức mạnh, quyền uy, của “Kinh Cầu” thì hệ tại ở
điều, là, 1
tự sự, 1 tự thuật, một nói về mình, như của Akhmatova, là của chung, ai
ai thì
cũng xêm xêm như vậy, [chồng con cải tạo, mẹ hay vợ đi thăm nuôi…, cả
Miền Nam
là như thế, và đó là tự thuật]. “Kinh Cầu” cầu nguyện cho những người
cầu nguyện,
khóc than cho những người khóc than: mẹ mất con, vợ biến thành góa phụ,
đôi khi
thành cả hai, như trường hợp của tác giả. Đó là bi kịch khi bản đồng ca
cứ thế tàn
tạ, cứ thế lịm đi trước nhân vật.
Joseph Brodsky
|
|