|
Lao
Home, 2014 & 15 Trip
Thơ
Mỗi Ngày
Đầu tháng
lòi ra bài này:
/gocsaigon/sg_ten_cua_cuoc_chien.html
Note: Tên trường: Văn Hóa, không phải Văn Lang,
theo Ngô Khánh Lãng, 1 ông bạn cùng học thời đó, cho biết.
Sawada, bị Khờ Me Đỏ hành quyết cùng trưởng phòng UPI, ở Nam Vang [Phnôm Pênh], theo 1 tờ báo của Mẽo, viết về cuộc chiến Mít
sau 40 năm, GCC mới được đọc.
Tên tù tham
lam
Một tên tù
lấn chiếm cuộc
đời em
tham lam và
hung tàn đến vậy
Rút cuộc
cũng không cho phép em
tự mua cho
mình một bó hoa, một thỏi sôcôla
một bộ cánh
thời trang
Hắn không
cho em một chút thời giờ
một phút
cũng không
Hắn coi em
như mẩu thuốc lá trên tay
bặp cho kỳ hết
cả tàn tro
cũng chẳng thuộc về chính em
Thân hắn giờ
trong nhà ngục đảng cộng sản
lại dựng lên
phòng giam linh hồn em
không có cửa,
không có cửa sổ
không một
khe hở
khoá chặt em
trong cô độc
cho đến mốc
meo
Hắn buộc em
phải chịu đựng mỗi đêm
sự cáo buộc
của xác chết
Hắn sai sử
ngòi bút em
khiến em phải
viết thư không ngừng
khiến em kiếm
tìm hi vọng một cách tuyệt vọng
nỗi đau của
em bị chà đạp
thành chút lạc
thú duy nhất trong cõi vô vị của hắn
Cánh chim ấy
của em
bay lạc
trong đường chỉ tay rối rắm của bàn tay hắn
bị bốn đường
chỉ tay giăng mắc
mỗi một đường
trong đó
đều đã từng
dối gạt em
Kẻ độc tài mắt
ráo hoảnh này
Nhưng lại cướp
đoạt thi thể em
chỉ trong một
đêm tóc bạc mái đầu
thêu dệt nên
truyền thuyết, huyền thoại của hắn
khi hắn tưởng
công đức viên thành
thì em đã trắng
tay
nhưng tên tù
này vẫn
bám cứng lấy
tương lai trống rỗng của em
Lại đến ngày
rồi
hắn lại ban
bố mệnh lệnh
em lại phải
đơn độc lên đường
không có
thân thể không có ký ức
dùng sinh mạng
đã bị cướp trắng
gánh gồng đống
sách vở nặng nề
mang đến cho
hắn
Hắn quả là
tên đầu cơ có nghề
chưa từng bỏ
qua
mỗi một cơ hội
để tước đoạt từ em
Vợ
vợ yêu dấu
trong tất cả
mọi thứ hèn mạt
trên cõi đời
này
cớ sao em
khăng khăng
chọn anh để chịu đựng
23/7/1999
C. 815: Tầm Dương
Tuyết dầy Cửu Long Giang
mùa đông năm thứ 10 này
Nước sông biến
thành trứng cá,
Là những cục
băng
Cành cây gẫy
và rớt xuống
Chim đói, từng
đàn hàng trăm con, ngợp đông, ngợp nam
Một con ngỗng
trời, lạc bầy, đói, trong số đó, la lớn giọng hơn cả
Lấy mỏ cố
moi trong lớp băng, tí ti cỏ
Ngủ trên lớp
băng
Đôi cánh lạnh
giá đập chậm dần cố bay lên
Chẳng bao lâu
con ngỗng lọt vô lưới của 1 chú bé ở bên sông
Kẹp con vật
vô nách, chú bé mang ra chợ, bán.
Nhớ xưa kia,
ở miền bắc, tôi bị lưu đầy tới nơi này
Người và
chim; tuy khác nhau, những cả hai đều là khách cả
Thật nhức nhối vô cùng, như là khách viếng thăm,
nhìn con chim, cũng khách viếng thăm như mình,
đau đớn.
Và thế là tôi
xùy cho chú bé tí tiền chuộc, và phóng thích con ngỗng.
Ôi chú ngỗng,
bay lên trời cao, lên tới tận những đám mây – chú bay đi nơi nào lúc
này?
Đừng bay về
phía bắc, nhớ chưa, đừng bao giờ bay về phía bắc, đó là nơi cuối cùng
để mà nghĩ
tới
Ở đó, ở vùng
Water Gale, vẫn còn uýnh nhau, không có hòa bường đâu
Cả triệu
binh lính quần thảo
Lính hoàng
gia, lính phản động đối diện nhau đến trở nên già khằn
Đói, mệt nhoài,
kiệt sức, họ chỉ mong tóm được chú
Những tên lính
hung bạo. Họ sẽ bắn chú, và làm 1 bữa tiệc
Lông của chú
thì họ gắn vào những mũi tên.
Bạch Cư Dị
Bạch Cư
Dị “Thả
Ngỗng Về Trời”. Bạch Cư Dị trải qua kiểm tra dân chính ở tuổi 28, vào
năm 800 và
sau đó, trong khi cần cù nghiên cứu xét nghiệm thêm hơn, theo như được
biết, bị
hỏng mắt vĩnh viễn. Trong một lá thư gửi nhà thơ Nguyên Chẩn, vào tháng
Chạp
815, ông cho rằng mục đích của việc làm
thơ,
trước là để “cứu thế giới” và sau tới “hoàn thiện tính cách của riêng
nhà thơ”.
Ông là nhà thơ làm thơ nhiều nhất thời Đường, hơn ba ngàn bài thơ hiện
có,
trong số có nhiều bài được trích dẫn đầy đủ, nguyên con trong The Tale
of
Genji, của Murasaki Shibiku, một tiểu thuyết gia Nhật có ảnh hưởng của
thế kỷ
11.
Người
là 1 con vật độc nhất có thể cư xử “như là bạn quí” với những nạn
nhân, mà anh ta tính làm thịt, cho đến khi làm thịt họ.
Man is
the only animal that can remain on friendly terms with
the victims he intends to eat until he eats them.
Samuel Butler, c. 1890
Một vị độc giả, còn là
thân hữu, gửi mail cám ơn vì đã khui ra câu trên.
Cái số
báo về loài vật này có nhiều câu thần sầu, cực thần sầu.
Câu sau đây, chẳng tuyệt cú mèo sao:
Một
con chó chết đói ở cổng nhà chủ tiên đoán sự lụi tàn của 1 đất
nước
A dog starved at his master’s gate
Predicts the ruin of the state.
William Blake, 1807
Nhưng
bảo đảm, chuyện này không xẩy ra cho xứ Mít.
Làm gì có chuyện chó chết đói ở cái xứ Hạ Cờ Tây!
Gấu chỉ tiếc
1 tị, là cái tay chủ tờ báo, “quên” 1 câu thần sầu, của Beckett, với
riêng Gấu,
khi áp dụng vào xứ Mít.
Old dogs have more dignity
Comfort them since you pity them
Beckett: Waiting for Godot
(1)
Post thêm
vài câu thú vị:
Khi chim ưng
im lặng, là lũ vẹt huyên thuyên
When the
eagles are silent, the parrots begin to jabber
Winston
Churchill, 1945
Một con chó
ngoan, thưa ngài, xứng đáng 1 khúc xương hoành tráng!
A good dog,
sir, deserves a good bone.
Ben Jonson,
1633
"I am
his highness's dog at Kew; / Pray tell me, sir, whose dog are you?"
reads
an epigram that Alexander Pope wrote in the 1730s and had engraved on
the
collar of one of his puppies, whom he gave to Frederick, Prince of
Wales.
Tớ là chó của
hoàng thân ở Kew
Bạn là chó của
vị nào thế?
Đó là câu mà
Alexander Pope viết, thập niên 1730, và cho khắc vào 1 miếng thẻ, đeo
vào cổ 1
trong những con chó của ông, và sau biếu Frederick, ông Hoàng xứ Wales
Giai thoại
trên làm Gấu nhớ những ngày liền sau 30 Tháng Tư 1975.
Vào đúng những
ngày đó, đám Nguỵ quân bỏ chạy, cứ chui vô cái sân chung cư của Gấu ở,
số
29 Nguyễn
Bỉnh Khiêm Sài Gòn, để trút bỏ đồ lính, thay đồ thường dân – thường là
áo
thung, quần lót, chân trần… chứ gì nữa,
không lẽ tụt luôn cả chim bỏ lại? – và ở ngay lề đường, là 1 chiếc xe
cứu thương,
đầy thuốc.
Bà cụ Gấu nghĩ liền tới thằng con ghiền đang cai ken, rất
cần thuốc
bổ, thế là bèn leo lên xe, khiêng về nhà cả 1 lô.
Liền đó, là
những ngày quân quản, và VC, vẫn cái trò mị dân, và còn để canh chừng
dân Sài Gòn,
cho bộ đội đến ở cùng với dân trong xóm. Một anh bộ đội, chắc là y tá,
bèn làm
công việc thiện nguyện, hàng ngày ghé nhà Gấu, chích thuốc bổ cho thằng
ghiền đang
cai ken.
Anh ta dùng 1
thứ thuốc súng, để đốt cồn, luộc kim ống.
Một lần,
đang
lui cui với cái đèn cồn, ống kim… anh la lớn, Thiệu, Thiệu!
Gấu ngạc
nhiên quá,
nhưng liền đó, Gấu thấy 1 con chó chạy tới!
Anh ta giải
thích, tôi đặt tên nó là Thiệu.
Anh ta thật
cưng con chó.
Ba bài
liên quan tới xứ Mít, và ngày 30 Tháng Tư năm nay:
VC đang bỏ đói đồng bào
thiểu số!
Ethnic
minorities in Vietnam
Out
of sight
Continuing
grinding poverty in Vietnam’s minority regions is a liability for the
Communist
Party
Chính trị học của hồi ức:
Cờ nào, ba que hay cờ máu?
Russia’s
politics of memory
Nemtsov
Bridge
A fight over
the site of a politician’s killing is a proxy for a broader battle
Remembered
with love MEMORY has long been the subject of fierce and often deadly
ideological battles in Russia. Those who control the past also control
the
present.
Born Red
How Xi
Jinping, an unremarkable provincial administrator, became China’s most
authoritarian leader since Mao.
I was only fourteen. The Red Guards asked, “How
serious do you yourself
think your crimes are?”
“You can estimate it yourselves. Is it enough to execute me?”
“We can execute you a hundred times.”
To my mind there was no difference between being executed a hundred
times or
once, so why be afraid of a hundred times? The Red Guards wanted to
scare me,
saying that now I was to feel the democratic dictatorship of the
people, and
that I only had five minutes left. But in the end, they told me,
instead, to
read quotations from Chairman Mao every day until late at night.
Đọc 1 phát thì
tếu làm sao, GCC bèn nghĩ đến lần Gấu bị 1 anh lính gác Bình Xuyên hăm
bắn bỏ,
thời gian mới di cư vô Xề Gòn, đúng bữa hôm sau đi thi Trung Học Đệ
Nhất Cấp, hà,
hà!
Gấu đã kể về
chuyện này, trong Lần Cuối Xề Gòn, nhưng bỏ qua nhiều chi tiết thật thú
vị, khi
ở trong nhà giam Quận Nhất, ở phía đằng sau rạp Đại Nam. (1)
Thí dụ, chi
tiết này:
Trong lúc bị
giam, chung với nhiều tên tù khác, đủ thứ tù, chắc là chờ hỏi cung,
cảnh sát mở
cửa phòng, tống vô 1 thanh niên. Anh này hình như quen biết nhiều, Gấu
thấy anh
ta vẫy 1 người cảnh sát khi đi ngang phòng giam, ở phía bên ngoài, thì
thầm cái
gì vô tai, Gấu hỏi 1 người tù khá lớn tuổi, đứng bên, anh ta bị tội gì,
ông trả
lời:
-Hiếp dâm!
Gấu không hiểu
“hiếp dâm” nghĩa là gì!
Y chang lần
lên xóm đầu tiên:
“Cậu ‘đi’ không”, bà “mắm mì” hỏi.
“Không, tôi không
‘đi’”!
Gấu dõng dạc
trả lời!
(1)
Chỉ có những
người vội vã rời bỏ Sài-gòn ngay những ngày đầu, họ đã không kịp sửa
soạn cho
mình một nỗi nhớ Sài-gòn. Còn những ai ở trong tâm trạng sắp sửa ra đi,
đều tập
cho quen dần với cơn đau sẽ kéo dài. Đều lựa cho mình một góc đường,
một gốc
cây, một mái nhà... để cười hay để khóc một mình. Một mẩu đời, một đoạn
nhạc, một
bóng chiều, một giọt mưa, một sợi nắng... để gọi thầm trong những lúc
quá cô
đơn. Để mai kia mốt nọ, trên đường tha phương cầu thực, nơi đất khách
quê người,
những khi ngọn gió heo may bắt đầu thổi, những khi ngồi bó gối bên
trời, nhìn
lá vàng rơi đầy, lấy tay che thời gian không nổi, hay những đêm tàn
nghe bếp lửa
réo gọi... sẽ nhâm nhi những cọng cỏ tưởng tượng của quê hương. Ôi,"Ôm
em
trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới" (1). Hãy cho tôi thăm lại con phố
Bonard [Bonnard mới đúng], nơi có bót Hàng Ken (Bót Lê Văn Ken, mới
đúng), chú
bé di cư ngày nào ngơ ngác, rụt rè làm quen, tự mình khám phá Sài-gòn.
Gần gốc
cây chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một người đàn ông đánh đập dã man
một người
đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú bé chạy vào trong bót. Chú bị
ăn bạt
tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh vợ, mắc mớ chi tới mày. Đồ con
nít Bắc
kỳ di cư, vô đây làm tàng. Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen
thành phố,
được thời gian gọt giũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là
chừng nào
trên khuôn mặt cô bé. Trên khuôn mặt Sài-gòn.
Một thành phố
mà tôi đã chết ở trong,
nay sống lại,
chỉ để kể về
nó.
GCC nhớ lộn.
Cái vụ bị bắt tống giam nhà giam Quận Nhất, đúng là như trên, và đúng
vào cái
ngày, hôm sau đi thi Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Nhớ là, khóc thảm thiết lạy van tên
cảnh sát, tới buổi chiều, hắn tha. Còn cái vụ bị lính Bình Xuyên hăm
bắn, là liên
can tới vụ bản đồ TP Sài Gòn. Vừa mới vô, là bèn đi thăm nó, để làm
quen, với tấm
bản đồ mua ở 1 tiệm sách, không ngờ, cái chỗ có con lộ ăn thông qua 1
con phố
khác, thì là 1 trại lính Bình Xuyên. Vụ này cũng đã kể đâu đó rồi. Lạ,
là, thực
tình rất sợ, bị bắn bỏ, không hề nghĩ, thằng chả chỉ hăm thằng bé, để
chờ tới
giờ đổi gác, hà, hà!
Saul
Friedlander
[Kafka]:
Le
poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự
tủi hổ và phạm tội
Kafka n'était
pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait
des métaphores
et des associations inattendues, il racontait
des histoires, il était
poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles
soient
directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur,
mais ces
allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas
une foi
religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.
Mưa
Mưa rào. Giữa hai cửa sổ
Một con ruồi đập cánh hàng giờ đồng hồ
Trời nặng như mùa thu,
Trong căn phòng không làm sao thở được
Tôi thương Kafka
Ông chẳng bao giờ có dù
Ngồi trên giường áo khoác ướt đẫm
Mân mê chiếc mũ, ông nói:
Bữa nay Prague mới âm u làm sao
Con chim giận dữ
Một con kên kên đợp chân
tôi. Nó xé giầy vớ thành từng miểng; bây giờ tới cẳng. Nó đợp, xỉa tới
tấp, lâu lâu lại lượn vòng, và đợp tiếp. Một vị lữ hành phong nhã đi
qua, nhìn ngắm một lúc, rồi hỏi tôi, tại làm sao mà đau khổ như thế vì
con kên kên. “Tôi làm sao bây giờ?” “Khi con vật bay tới tấn công, lẽ
dĩ nhiên tôi cố đuổi nó đi, tôi còn tính bóp cổ nó nữa, nhưng loài thú
này khoẻ lắm, nó chồm tới, tính đợp vô mặt tôi, và tôi đành hy sinh cặp
giò. Bây giờ nó xé nát ra từng mảnh rồi.”
“Lạ thật, để cho 1 con vật hành hạ như thế”, vị phong nhã nói. “Chỉ 1
phát là rồi thôi”. “Thiệt ư?” “Làm ơn, làm đi”. “Rất hân hạnh”, vị
phong nhã trả lời, “Tôi chỉ cần về nhà lấy cây ‘sọt-gân’. Bạn có thể
đợi chừng nửa tiếng, nhe?” “Tôi không chắc có qua nổi con trăng nửa giờ
không,” tôi cố nén đau trả lời vị phong nhã. Và rồi tôi gật đầu cam
chịu, ”Thì cũng đành thôi, làm ơn làm đi” “Được lắm”, “Tôi sẽ làm nhanh
chừng nào tốt chừng đó”. Trong khi chúng tôi trao đổi thì con kên kên
lắng nghe, mắt đảo qua đảo lại giữa hai chúng tôi. Lúc này thì tôi biết
rõ, nó hiểu hết mọi chuyện; nó thu cánh, lui lại lấy đà, và rồi, như 1
dũng sĩ ném lao, nó thúc cái mỏ vô miệng tôi thật sâu, thật sâu. Té
ngửa ra sau, tôi cảm thấy khuây khoả khi con vật chìm mãi sâu vào trong
máu tôi, và máu tôi cứ thế tràn ra, lấp đầy mọi hố thẳm, mọi bến bờ.
« Franz
Kafka, écrit George Steiner, vécut l'expérience du pêché originel [ ...
].
Seule une petite poignée d'êtres humains ont experimenté dans leur vie
la
conviction et les conséquences de l'état d'êtres déchus. Comme Pascal
ou Soren
Kierkegaard, [ ... ] Kafka traversa des heures, peut-être des jours au
cours
desquels il identifia sa vie personnelle avec un pêché existentiel
indescriptible. Être vivant, donner la vie, c'était pêcher. » Le sens
kafkaien
de la honte n'a pas été mieux analysé: « Soixante-dix ans après sa
mort, écrivit
John Updike dans sa préface de 1995 aux “OEuvres completes”, Kafka
incarne un
aspect de l'état d'esprit propre à la modernité : un sentiment
d'anxiété et de
haine dont l'origine ne peut être définie et qui ne peut être apaisé. »
Le
sentiment de honte comme un aspect de l'état d'esprit propre à la
modernité ...
Si vous êtes,
comme K. dans Le Chateau, un «
imposteur » prétendant être quelqu'un d'autre, dissimulant votre visage
au
monde derrière un masque, vous connaitrez peut-être le sentiment de
honte et même
de culpabilité. K. ne ressent pas de la honte ou de la culpabilité, car
il
s'est convaincu lui-rnême, avant d'en convaincre les autres, qu'il
était
vraiment et avait toujours été un «arpenteur », K. était passé maitre
dans
l'art de l'aveuglement sur soi, mais pas Kafka. Ainsi, quel est
l'embarras qui
a pèse sur lui et l'a conduit a reprendre Ou
bien ... ou bien?
Steiner
viết, "Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, chỉ 1 dúm người kinh
nghiệm trong
cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị
hoang
hóa. Như Pascal hay Soren Kierkegaard […] Kafka trải qua hàng giờ đồng
hồ, có
thể nhiều ngày, qua đó, ông đồng nhất cuộc đời riêng tư, cá nhân của
mình với cái
tội hiện sinh không làm sao diễn tả ra được. Sống ở trên đời, sinh con
đẻ cái, ăn
ngủ đụ ị… là.. có tội, tội hiện sinh”.
Ý nghĩa "Kafkaen", của tủi hổ, được
John
Updike diễn tả bằng những dòng tuyệt vời sau đây, trong bài tựa cho
“Toàn Tập
Tác Phẩm” của ông, 1995, bẩy chục năm sau khi ông mất:
Kafka nhập thân
1 sắc thái
của tình trạng tinh thần, y chang cái thứ tinh thần đặc dị, của riêng,
của cái
gọi là tinh thần hiện đại - hiện đại tính: một tình cảm âu lo, sao
xuyến, và thù
hằn, mà nguồn gốc không làm sao định nghĩa, và không làm sao làm cho nó
dịu đi được”.
Tình
cảm tủi hổ, nhục nhã là của riêng, đặc dị, “bản năng gốc” của hiện đại
tính!
Tuyệt!
Steiner viết,
Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, Kafka vécut l’expérience du
péché originel…
Chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu
quả, của tình
trạng, bị phế thải, bị hoang hóa, đếch làm sao… thành công! [Seule une
petite
poignée d’être humains ont expérimenté dans leur vie la conviction et
les conséquences
de l’état d’être déchus]
Thì cũng
như…. GCC, sống kinh nghiệm Cái Ác
Bắc Kít!
Đây
là Tội Tổ Tông của nòi giống Mít, theo GCC!
Trong lời Giới
Thiệu, tác giả nhắc tới ý của 1 nhà phê bình, về cái chuyện có quá
nhiều người
viết về ông, và trút tí trách nhiệm lên chính Kafka, người tạo ra cái
sự “trong
sáng tối tăm nhất” trong lịch sử văn học này:
''A glance
at any bibliography of writings on Kafka," wrote Erich Heller, "shows
how problematic it is to add to the super-abundance of books and
articles on
him,"" A common remark, except for the fact that Heller wrote these
lines in 1974- During the thirty-eight years that have gone by since,
thousands
of new titles have been added. Heller elegantly shifts part of the
blame onto
Kafka himself: "Kafka's share of the blame lies in his being the
creator
of the most obscure lucidity in the history of literature, a phenomenon
that,
like a word one has on the tip of one's tongue, perpetually attracts
and at the
same time repels the search for what it is and means."
Saul
Friedlander: INTRODUCTION
Trường hợp
Kafka quả là quái đản. Hằng hằng, hà hà những sách vở, bài viết.. về
ông, đã quái,
quái hơn, là những tác phẩm mới ra lò mới thần sầu làm sao, như thể,
đến bây giờ,
ông mới bắt đầu được đọc!
Cuốn GCC mới
mua, thèm, ngay lần đầu đọc về nó, trên tờ ML. Cái gì gì, tủi hổ, phạm
tội?
Mua về đọc,
thì cái chương viết về Y Sĩ Đồng Quê mới khủng làm sao. Trên Tin Văn đã
giới
thiệu bài viết về nó, của Oz. Nhờ bài viết, Gấu, 1 cách nào đó, lần mò,
vô
được tác
phẩm của Kafka.
Đúng là 1 mặc khải.
Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng
Quê của Kafka
Bạn
đọc Y Sĩ Đồng Quê, và
tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của
một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận
miền
nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có
ngựa, nên phải
mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh
cô hầu
gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la
lớn: "Ta
bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất,
với cỗ
xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng"
("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an
earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của
một vua
Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp
của mình ở
trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của
cô con
dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !
Apr 4, 2015
Một vụ án khác nữa
Mỗi người một vụ án
(Trần Dần)
Những nhận
xét về T. Mann, và về văn chương Đức, qua Thomas Bernhard, quá đúng.
Câu của Mann, tớ ở đâu văn chương Đức ở đó, thứ văn chương mà ông muốn
nói tới, 1 cách nào, là nguyên nhân gây ra Lò Thiêu.
GCC đã tính
viết, khi Sến viết về Mann, qua cuộc phỏng vấn của TV trên Da Mùi,
nhưng
sau thấy chẳng bõ, chỉ cần 1 câu là đủ:
“Sến ở đâu, 'Marie Sến' ở đó” [coi trên
my FB].
Câu của TD làm nhớ tới của
Roland Barthes, nhưng của Barthes cao hơn nhiều, của TD chỉ nhắm tới vụ
án của đám Nhân Văn:
Một nhà văn xuất hiện và mở ra ngay trong
gã cái được gọi là vụ án văn chương.
(Chaque écrivain qui nait ouvre en lui le
procès de la littérature. - R. Barthes. Le degré zéro de l’écriture). (1)
TTT 2006-2015
Thật khó mà
nói, TTT coi ông như là nạn nhân của Trại Tù, bởi là vì rõ ràng là, nhờ
nó, ông
làm lại được thơ, và bẽn lẽn như hồi mới lớn, không dám khoe với bạn
tù!
Brodsky rất
bực khi bị hỏi, thí dụ, tại làm sao chúng đưa ông đi tù. Ông từ chối
chơi, he
refuses to play, và cho biết, hai năm tù là quãng đời hạnh phúc nhất
của ông. Lạ
1 điều, chính cái chuyện ông từ chối làm anh hùng, chính nó, có cái
chất anh hùng,
như tác giả "From Russia With Love" nhận xét, paradoxically enough, his
rejection
of the part of hero was itself heroic.
Bếp Lửa,Tựa
Lần In Thứ Tư (1973)
Malraux có
viết: "Người ta không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không
tin như thế. Trong nhiều năm sau khi quyển sách này được xuất bản,
dường như
tôi đã hì hục viết một BẾP LỬA khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát để cho tái
bản,
tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả bây giờ, sau mười bẩy năm.
Đây không phải
là quyển tiểu thuyết đầu tay của tôi.
Quyển đầu
tay tuy được một nhà xuất bản nhận in năm 1955, vào phút chót tôi đổi
ý, rút lại
sách, quyết định không xuất bản.
Quyển Bếp Lửa
rất có thể đã chịu chung số phận của quyển đầu tay, nếu không may mắn
gặp ông
Nguyễn Đình Vượng [chủ báo Văn, chủ nhà in, nhà xuất bản Nguyễn Đình
Vượng].
Được viết một
hơi – khoảng đâu hai ba tháng – được in ngay sau khi viết – không có
một quãng
cách nào để kịp lùi, nhìn lại – quyển Bếp Lửa là quyển duy nhất của tôi
chỉ có
một lần bản thảo.
Trên trang đầu
bản thảo có đề câu của Rimbaud: Je est un autre [Tôi là kẻ khác], nhưng
khi đưa
in tôi đã xóa bỏ.
Sách in lần
đầu ba ngàn cuốn, chẳng rõ bán được bao nhiêu, chỉ biết ít lâu sau sách
được
mang bán "son". Có hai bài viết về quyển sách: một trên nhật báo Tự
Do tại Sài Gòn, một trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn miền Bắc ở
Hà Nội.
Tiếc là tôi
không có thói quen lưu giữ tài liệu để có thể in kèm vào sách khi tái
bản.
Đại cương
hai bài viết đều là lời chê trách giống nhau: quyển sách bi quan tiêu
cực. Bài
trên tờ Văn Nghệ ở Hà Nội chỉ là một cột điểm sách ngắn vài mươi giòng
nhưng bấy
giờ đã mang đến cho tôi hãnh diện và sung sướng. Hãnh diện là thứ có
ngày nghĩ
lại khiến thẹn thùng. Nhưng sung sướng lúc nào cũng vẫn là sung sướng,
dù cùng
với thời gian có thể lẫn vẻ bùi ngùi.
Tôi sung sướng
nghĩ các bạn tôi ở Hà Nội đọc cột báo ấy, biết được tôi vẫn nhớ họ, đã
viết về
họ, về những ngày tháng ấy của chúng tôi. Họ có thể tức tối căm giận,
nhưng chắc
họ cũng cảm động bồi hồi.
Mười bẩy năm
đã qua.
Kinh nghiệm
dạy cho tôi là lời của Malraux đúng. Tôi đã loay hoay quá lâu với một
quyển
sách. Lần này tôi quyết định đề là ấn bản chung quyết.
Tôi hiểu đã
đến lúc nên viết những quyển sách khác.
Tháng 3 – 73
THANH TÂM
TUYỀN
Trên
tờ Ba Xu, số Mùa Xuân, The Threepenny Review, Spring 2015, trong mục
“Lèm bèm bên ly cà phe & bạn hiền", Table Talk, Alberto
Manguel có đi 1 đường về từ “chung quyết” này.
Bài cực thú. Với 1 đại gia đọc, như
AM này, bạn yên tâm, khi đọc, vì thế nào có vớ được 1 chi tiết bạn
không ngờ, gây
cực khoái, hà, hà!
Ben
scan, và nhân riện, post thêm 1 bài thơ trong số báo, Tên Kép Của Tớ, The Double.
Kép ở đây không có nghĩa là Thằng Bồ, mà là tên thế thân, theo cái kiểu
mà TTT tính chôm câu của Rimbaud; Tớ là 1 kẻ khác.
The Double
My double is
nothing like me.
They say he
smells of lavender,
that he
dances elegantly.
But he looks
like a cadaver
when he
sleeps. Animals can't tell
he's there.
At the park a bird flew
straight
into his chest, and fell
as if it hit
a closed window.
Men like him
are unnatural.
Mothers hold
their children closer
when we pass
by: original
or copy,
we're both a danger.
My double
wants to leave this town.
He tells me
he doesn't believe
we're
twinned. And he's right; we're not bound
by much. But
we don't get to leave.
-Ryan
Teitman
Kẻ Kép
Kẻ kép của tớ
chẳng giống gì tớ
Chúng nói, hửi
có mùi oải hương
Rằng hắn nhảy
đầm rất lịch
Nhưng trông
hắn chẳng khác gì cái xác chết
Khi hắn ngủ.
Lũ thú vật
không thể nói, có hắn đó.
Một con chim
ở nơi công viên
Bay đánh bộp
một phát trúng ngực hắn ta
Và rớt đánh
bịch cũng 1 phát
Như thể đụng
vô kính cửa sổ
Người như hắn
chẳng giống người.
Mấy bà mẹ ôm
chặt con khi hắn - và tớ - đi tới gần
Bản chính
hay bản sao, cả hai đều hiểm nguy
Kẻ kép của tớ
muốn rời thành phố
Hắn biểu tớ,
hắn đếch tin hai đứa sinh đôi
Hắn phán đúng
Hai chúng tôi
không mắc mớ với nhau nhiều
Nhưng biết làm
sao, thì cũng đành, cứ thế, cứ thế.
From
Russia With Love
Last But Not
Least
Saturday /
Sunday, 17 and 18 May, 1997
THERE IS A
CURIOUS interview with Joseph by Michael Scammell in Index on
Censorship,"
which had been established shortly before this, on the initiative of
Stephen
Spender among others, as the organ of the Writers & Scholars
International,
the aims of which were "to promote the study of the suppression of
freedom
of expression". Again, it is surprising to find Joseph so insistent,
this
early in his life in the West, on his right to be judged solely as a
writer, a
poet, and not categorized as a dissident or a victim of oppression. He
sensed
the direction of the interview almost from the start, answering some
factual
questions briefly, but as soon as Scammell, innocuously enough, begins
to lead:
"When did it become clear to you that your poems were not going to be
published generally in the Soviet Union and what was the effect of this
realization upon you?" Joseph shoots back: "I must say that it was
never really clear to me. I always thought that they would be published
one day
and so this idea has had no effect on me at all [ ... ]"
And more of the like
follows. Joseph answers non-commit ally
whenever he can, but as soon as the questioner begins to probe, he
reacts.
"Why do you think they sent you to prison?" "I don't really
know. In any case that seems to me, if you don't mind my saying so, a
typically
western approach to the problem; every event has to have a cause and
every
phenomenon has to have something standing behind it. It is very
complex.
Sometimes there is a cause, perhaps. But as to why they put me in
prison, all I
can do is repeat to you the items in the indictment. My own answer
perhaps
won't satisfy you, but it is very simple. A man who sets out to create
his own
independent world within himself is bound sooner or later to become a
foreign body
in society and then he becomes subject to all the physical laws of
pressure,
compression and extrusion." Joseph refuses, time after time, to don the
mantle of the tragic exile, the martyr, the victim. "How did trial and
prison affect your work?" "You know, 1 think it was even good for me,
because the two years 1 spent in the country were from my point of view
one of
the best times of my life. I did more work then than at any other time.
During
the day 1 had to do physical work, but since it was agricultural
labour, it
wasn't like in a factory and there were lots of period of rest when we
had
nothing to do."
Scammell, perhaps growing
a little exasperated with all this,
finally says: "What is your attitude to people who take a stand and why
have you personally never done so yourself?" Joseph, rejecting both
mantle
of freedom-fighter and that of feeble aesthete (despite the remarks
about
boredom), responds rather defiantly, provocatively, and perhaps equally
exasperatedly: "It is all very simple, really. The point is that the
person who seriously devotes himself to some sort of work - and in my
case belles lettres - has in any case plenty
of problems and difficulties that arise from the work itself, for
instance
doubts, fears and worries, and this in itself taxes the brain pretty
powerfully. And then again 1 must say that any kind of civic activity
simply
bores me to death. While the brain is thinking in political terms and
thinks of
itself as getting somewhere, it is all very interesting, attractive and
exciting,
and everything seems fine. But when these thoughts reach their logical
conclusion,
that is when they result in some sort of action, then they give rise to
a
terrible sense of disillusionment, and then the whole thing is boring."
He develops this: "I think
that for the writer who first
of all concerns himself with his own work, the deeper he plunges into
it, the
greater will be the consequences - literary, aesthetic and of course
political
as well." Joseph is unconvinced of the effectiveness of efforts in the
West to help "unorthodox" Russian writers, casting doubt even on the
publication of such writers in the West: "[ ... ] All you can do is to
help people get published. But I am not sure how helpful this is. 1
suppose it
gives one a pleasant sensation, a sense of not being without hope: up
or down,
you still exist and you still haven't perished. It gives a certain
psychological relief to a man living in rather uncomfortable
circumstances. But
here again you get all sorts of problems arising, because all forms of
comfort
are in a way a sort of escapism." This is interestingly reminiscent of
remarks made by concentration-camp prisoners about the possibly deadly
effect
of hope. It also sheds a little light on Brodsky's natural stoicism,
the need
to live with reality and not with pipe dreams. Scammell pointedly
suggests that
the publication of Brodsky's poetry might have helped him maintain his
position
of independence, influenced his writing. He denies all this: "Maybe it
did
help in some way, but I must confess that I doubt it very much. You
see, I am
not representative in any way, I cannot stand for anything or anybody
except
myself."
So, Joseph establishes the
parameters, right from the start. He
refuses to play. He was an individual in the Soviet Union and he's
damned if
he's going to give up being one now that he is in the West. It seems
that he
knew exactly what he wanted. This was, to say the least, a different
kind of
exile. An exile rather ahead of his time, almost post-Soviet. He
frequently puzzled
those awaiting him with friendly intentions. In some cases, Joseph
seems too
dismissive of liberal opinion. But he is self- consistent.
Paradoxically
enough, his rejection of the part of hero was itself heroic. He covered
all the
bases. The media which was not to be deterred by his ironical comments
continued to describe him as a victim of the totalitarian state, while
those
who knew him better began to develop a more nuanced understanding of
the
East-West dichotomy. His belief in art, his elevation of it (and
language) over
politics, was distinctly sinewy and non-escapist.
Dương
Nghiễm Mậu
LANDSCAPES OF THE MIND
Phong cảnh của tâm hồn
Robert
Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”
Đây có lẽ là
1 bài viết lạ thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1
đứa con nít:
Cái sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra
cánh cửa địa
ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel:
“Lolita”
unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế đó, 1 "phòng
giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".
Quái làm
sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên viên kỹ thuật, và
những
chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy, và phải ngủ khách sạn.
Mộ Tuyết
The System
Two new histories show how the Nazi concentration
camps worked.
Hệ thống “Pha
lê hóa” làm việc ra sao?
Bài điểm
trên tờ Intel về Trại Tù
Nazi độc nhất dành do phụ nữ. Cái tít cuốn sách, "If This Is a Woman",
là
từ
Primo Levi, nhà văn, kẻ sống sót Lò Thiêu Nazi, sau tự vẫn. Bài trên
The New Yorker cũng viết về Trại Tù này
The
concentration camps make sense only if they are understood as products
not of
reason but of ideology, which is to say, of fantasy. Nazism taught the
Germans
to see themselves as a beleaguered nation, constantly set upon by
enemies
external and internal. Metaphors of infection and disease, of betrayal
and
stabs in the back, were central to Nazi discourse. The concentration
camp
became the place where those metaphorical evils could be rendered
concrete and
visible. Here, behind barbed wire, were the traitors, Bolsheviks,
parasites,
and Jews who were intent on destroying the Fatherland.
Ui chao áp dụng vô xứ Mít
y chang:
Lò Cải Tạo chỉ có thể hiểu được, không phải như là sản phẩm của lý trí,
mà của
ý thức hệ của sự kỳ quái, khùng điên, ba trợn. Chủ nghĩa VC Mít dậy dân
Mít, như
là 1 quốc gia thường xuyên, hằng hằng, vĩnh viễn bị kẻ
thù nắn gân, hỏi thăm sức khỏe, nội thù
cũng như ngoại thù…
Trên tờ Lit
Review cũng có bài điểm Trại Tập Trung dành cho phụ nữ này.
Như 1 nhân
viên tình báo Hồng Quân nói với Helm, tác giả cuốn sách, “Người ta
phải hiểu
rằng, đây là một cuộc chiến khủng khiếp, quỉ ma, và mọi người đều mất
hết nhân
tính”, khi giải thích Hồng Quân, giết hại và hãm hiếp tù nhân, trong
ngày giải
phóng họ.
|