|
25 June, 2012
Album
Ai Tín
Nhà văn
Nguyễn Mộng Giác
Pháp Danh
Thiền Ngộ
sinh ngày
mồng 4 tháng 1 năm 1940 tại Xuân Hòa, Bình Định, Quy Nhơn
Mất ngày
mồng 2 tháng 7 năm 2012 lúc 10:15 pm tại tư gia (Westminster,
California,
USA)
Da Mau
Xin thành thực
chia buồn cùng tang gia, và cầu chúc linh hồn bạn Giác sớm siêu thoát.
Tin Văn/NQT
và bạn hữu
Như Tiếng
Sách Rơi
Trần Mộng Tú
Tiễn bạn văn
Nguyễn Mộng Giác
Bạn bè tan
như đá vụn
theo nhau
lăn xuống chân đồi
ngọn đồi dần
dần sạt lở
tiếng rơi
như tiếng sách rơi
Tiếng sách
rơi khô trong hạ
thả vào võng
gió chênh vênh
một chút âm
dư vương lại
cũng tan
theo nắng, nhẹ tênh
Từng mảnh đá
lăn từng mảnh
có chút bụi
nào bay xa
có giọt
sương nào đọng lại
có giọt lệ
nào như hoa
Văn chương
theo người thinh lặng
chữ nghĩa
theo người bốc hơi
giấy mực
theo người khô cạn
bạn ơi sách
ơi… mây trôi
Tiếng những
bàn chân rất chậm
tiễn ai về
cuối chân trời
như tiếng
sách từng cuốn một
rơi xuống từ
trên đỉnh đồi
Cúi xuống nhặt
lên một cuốn
mở ra trắng
xóa hàng hàng
giấy mỏng
thơm như áo liệm
bìa thơm như
nắp áo quan
tmt
Ngày 2 tháng
7 năm 2012
Truyện dài Đường
Một Chiều, kể một vụ án mạng mà
người phạm tội không biết là mình phạm tội, được giải thưởng Văn Bút
của Việt
Nam Cộng Hòa năm 1974.
DDTK
Note: Đây là
giải thưởng của PEN Việt Nam, như PEN Mẽo, PEN Canada…Không phải của
nhà nước VNCH.
Cần phải nói rõ, vì ngoài giải thưởng
PEN, còn giải thưởng của VNCH, còn gọi là giải thưởng của… ông Diệm!
GCC giới thiệu
Ezra Pound
Note: Thú thực,
không nhớ nguồn của bài giới thiệu này!
Hình như từ Butor mũi lõ, không phải Mít
Butor!
GCC giới thiệu
1 truyện ngắn của Joyce trong Dubliners.
Thương Ẩn, là từ Lý Thương Ẩn.
Eveline
Post thêm
bài này của Prospero, thần sầu!
James
Joyce's "Ulysses"
Why you
should read this book
Trầm Tư
Trong bọn,
chỉ có Nguyễn Tử Lộc là sớm sủa làm quen với tư tưởng, thí dụ, của một
F. R.
Leavis, phê bình gia lý tưởng là một người đọc lý tưởng, từ đó văn
chương tùy
thuộc hoàn toàn vào những từ ngữ của nhà thơ, hay tiểu thuyết gia mà
kinh nghiệm
đã đem tới cho họ. Và ở đây, là tiếng Anh, một thứ tiếng nói sức mạnh
của nó
thuộc về đất, như tổ tiên của họ là những người dân quê... Khi người ta
thêm
vào đó, rằng lời nói, theo một trật tự cổ xưa, là một dạng văn hóa nghệ
thuật
phổ thông, rằng người ta nói thay vì đọc, hay lắng nghe la-dô, đài,
Nguyễn Tử Lộc
đã sớm nhận ra sự đa dạng của một chủ nghĩa tự chủ mang tính đồng quê,
thuộc về
đất và những người đã chết của nó (la terre et ses morts) (1), anh có lẽ đã linh
cảm, định mệnh của một tiếng nói, như hồi
nhớ về biết bao nhiêu
con người (Thanh Tâm Tuyền).
Nếu
muối mất vị mặn của nó, làm sao có lại được.
(Évangile theo thánh Matthieu). Nhà văn theo một nghĩa nào đó, là muối
của đất,
hay ngắn gọn hơn, là đất. Marguerite Yourcenar, thuộc Hàn lâm viện Pháp
ghi nhận,
trong tiếng Anh của người Mỹ, dirt, dơ dáy, là đất, theo nghĩa của
người làm vườn;
một thứ đất mầu mỡ, sẵn sàng để trồng trọt: Cho thêm tí dơ vào chậu
bông này
đi. (Put a little more dirt in this flower pot.)
Hiểu như thế,
một nhà văn, khi bị bứng ra khỏi đất, anh ta trở nên sạch, theo nghĩa
vô dụng,
hết xài, đã bị thiến. Cũng theo nghĩa đó, nỗi nhớ bùn là thê thảm nhất,
trong mọi
nỗi nhớ. Anh ta phải động viên mọi sức lực, quyền năng, nghệ năng, biến
sở đoản
thành sở trường, biến chữ thành đất: Chúng ta đi mang theo quê hương.
Sự thành
công của dòng văn chương di dân viết bằng tiếng Anh là một ví dụ.
Vả chăng,
kinh nghiệm ăn nhờ ở đậu là rất một mình, mỗi người một kiểu. Bạn luôn
đau nỗi
đau nhớ nhà, nhưng tệ hại hơn, còn nỗi đau vong thân: tiến trình biến
thân quen
thành xa lạ, hờ hững. Người viết chưa gặp phải tình trạng này, nhưng
hình như một
số người Việt về nước đã gặp cảnh chua xót. Cứ nghe như quê hương nói
mát nói mẻ:
Ơ kìa, anh/chị này, tôi không quen! Ôi nỗi
xa lạ hờ hững, không phải của một dáng dấp chưa từng gặp, mà từ chính
người yêu
dấu, thân thương mới ngày nào còn là của
mình!
Nhưng Nguyễn
Tử Lộc đã chẳng cần tới mấy chuyện đó. Chẳng cần thứ kinh nghiệm đó.
Anh ở lại
mãi mãi, sau 1975, vì bạo bệnh. Đám tang anh, có Nguyễn Đạt, J. Huỳnh
Văn, Phạm
Kiều Tùng, Phạm Hoán, tôi... đi sau quan tài. Hình như chỉ thiếu Nguyễn
Tường
Giang. Sau anh là Joseph Huỳnh Văn. Mới đây thôi (20/2/95), vậy mà cũng đã hai
năm mấy rồi.
Suu-Kyi
về nhà
Thơ Mỗi Ngày
Your
telephone call
Your
telephone call broke in
While I was
writing a letter to you.
Do not
disturb me when
I’m talking
to you. Our two
absences
cross,
and one love
rips itself apart
like a
bandage
Adam
Zagajewski
Điện thoại
em
Điện thoại
em reo
Trong lúc
anh đang viết thư cho em
Đừng làm phiền
anh khi
anh đang nói chuyện với em chứ. Hai
cái vắng của chúng ta đụng nhau đánh cộp
Và một tình
yêu rách bươm ra
như miếng băng
CLOUD
Poets build
a home for us-but they themselves
can't dwell
in it
(Norwid in
the poorhouse, Holderlin in a tower).
At dawn mist
above the forest,
a journey,
the rooster's husky call,
the
hospitals are shut, uncertain signals.
At noon we
sit in a cafe on the square,
we observe
the azure sky
and a
laptop's azure screen;
a plane
writes out the pilot's manifesto
in clear,
white script,
perfectly
legible to the farsighted.
Azure is a
color that happily
promises
great events,
and then
sits back and waits.
A leaden
cloud draws close,
terrified
pigeons rise
gracelessly
into the air.
Storms and
hailstones gather
in dark
streets and squares,
and yet the
light doesn't die.
Poets,
invisible like miners,
hidden in
the shafts,
build a home
for us:
lofty rooms
rise
with
Venetian windows,
splendid
palaces,
but they
themselves
can't dwell
in it:
Norwid in
the poorhouse, Holderlin in a tower;
the jet's
lonely pilot
hums a
lullaby; awaken, Earth.
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
Mây
Thi sĩ xây
nhà cho chúng ra – nhưng họ thì không thể ở trong đó
(Norwid
trong viện tế bần, Holderlin, một ngọn tháp)
Rạng đông, sương
mù trên khu rừng
một chuyến đi,
tiếng gọi khàn khàn của con gà trống
Bịnh viện đóng
cửa, những tín hiệu không rõ rệt
Trưa, chúng
ta ngồi cà phê quảng trường Bưu Điện Xề Gòn
Nhìn bầu trời
thiên thanh
Và màn hình
thiên thanh của cái laptop
Một cái máy
bay vẽ ra bản tuyên ngôn của viên phi công
bằng 1 thứ
chữ sáng sủa, màu trắng
đọc thật rõ
với những kẻ viễn thị
Thiên thanh
là màu hớn hở
hứa hẹn những sự kiện lớn
rồi ngồi xuống,
và đợi
Một đám mây
màu chì tới gần
Đám bồ câu
khiếp sợ bay lên,
chẳng tí duyên
dáng, vào bầu trời
Dông tố, mưa
đá tụ tập
Trong những
con phố và quảng trường
Tuy nhiên ánh
sáng đếch, hoặc chưa, chịu chết
Thi sĩ, vô hình
như mấy anh thợ mỏ
ẩn náu trong hầm
Xây nhà cho chúng ta
Những căn phòng
cao ngất dâng lên
với những cửa
sổ Vienne
những cung điện
tuyệt trần
Nhưng, chính
họ - những thi sĩ, trong có GCC, tất nhiên –
không thể ở, trong đó.
Norwid trong
viện tế bần, Holderlin trong 1 ngọn tháp;
Viên phi công
ư ử một bài ru em
Hãy thức giấc,
Trái Đất
Lục bát Tô Thùy Yên
Nhân nói đến
lục bát, mới đọc bài viết của DTL về Lục Bát Cung Trầm Tưởng, và bỗng nhớ
tới
Phan Nhật Nam, lần “mới” gặp Tháng Tám năm ngoái. Anh phán, lục bát
đúng là cửa
tử của thơ Mít. Gấu phản biện, phải nói, nó còn là cửa sinh nữa, thí dụ
lục bát
CTT, lục bát Viên Linh.... và dẫn câu của Brodsky, thơ vần, nói chung,
thơ cổ
điển... cho thấy rõ sự kém cỏi của những
nhà thơ dởm, bắt đầu làm thơ bằng thơ tự do.
Ý này thì Borges cũng đã nói rồi.
Nhưng quả thế thật. GCC
rất sợ thơ lục bát của những đấng đếch làm được thơ, đếch
phải thi sĩ!
Cứ thấy lục
bát là co rúm người lại!
Thơ lục bát
Cung Trầm Tưởng còn rất nhiều bài hay, đâu chỉ có mấy bài PD phổ nhạc.
DTL, cũng
nhà thơ, đúng ra nên viết về những bài được ít nói đến mới phải. Bài
viết
của bạn
ta nhảm, chẳng nói được tí chó gì về cõi thơ lục bát, của CTT, cũng như
của nhiều
nhà thơ khác.
Hai câu thơ lục
bát sau đây của CTT mà chẳng bảnh sao:
Tháng Giêng
buốt sẻ đôi đằng
Nửa chì mưa đục,
nửa băng giá hồn
[Nhớ đại
khái, không biết có đúng không]
GCC cũng có
tí kỷ niệm với CTT. Ông có ghé nhà Gấu, khi Gấu chưa có Gấu Cái, [BHD
thì cũng không còn, hà hà!], và căn
nhà còn
là nơi tụ họp bạn Xì Tẩy, và Gấu khi đó nổi danh là "Mòng", và CTT,
cũng như MT, là những đại cao thủ trong cõi Xì Tẩy.
Mai Thảo "đến chỉ
một lần",
sau đó, phán, trên chốn giang hồ, ăn tiền của tụi nó thấy tội quá!
Toàn thứ học
đòi đánh Xì, mua con Ách thứ năm, thứ sáu...
Ý MT muốn nói, nhìn thấy trên mặt bàn có ba con Xì rồi, thì thứ Mòng,
như Gấu,
vẫn tin, còn 1 con nữa nằm trong cỗ bài, đâu có biết là nó là con Tẩy
nằm dưới
đáy chiếu bài!
Về nick Mòng
này, Phạm Đình Chương nói, “lịch sự” hơn. Ông là bạn của Hiếu Chân, ông
anh rể
của Gấu, và chắc có nghe MT loan truyền về Gấu Mòng.
Và bèn nói với HC, anh có
thằng em nổi tiếng “phong nhã” trên chốn giang hồ!
Lên xe tiễn
em đi , chưa bao giờ buồn "xế"!
Giới thiệu
Cung Trầm Tưởng, tốt nhất, là một người sống cùng thời với ông, và sống
những
ngày "chưa" chiến tranh, tuyệt vời [chiến tranh chưa hứa hèn những điều
khủng khiếp], của Miền Nam, như ông.
Thời của "Paris
có
gì lạ không em"? "Ga Lyon đèn
vàng", "Cho anh một tí Paris.... "
Những bài
thơ tình của thời đó, mới đích thực là thơ "thời cuộc".
"Tình nhớ" mà mắc mớ gì tới phản
chiến?, "ông bạn" Đặng Tiến có lẽ đi Paris mất tiêu rồi, không sống
"Những ngày ở Sài Gòn", khi đó, nên không cảm nhận ra chăng?
Xin đừng
nghĩ là Gấu chọc quê: Những ngày đẹp như thế, bỏ qua, ai mà không tiếc?
Ui chao, mấy
cách đây chỉ vài... phút, ông bạn nhà thơ hậu duệ Cao Chu Thần, mail
cho Gấu,
mà còn nhắc tới cái câu, "Buổi sáng tôi chào Good Evening..." để mà
xuýt xoa, cảm khái, tiếc hùi hụi "không khí thời chưa chín" [chưa chiến]
Nơi tôi làm
việc là tầng lầu trên cùng một building, bất động sản của người Pháp;
tôi là
chuyên viên kỹ thuật lo sửa chữa máy móc, trông coi đường dây liên lạc
vô tuyến
điện thoại, viễn ký, viễn ảnh từ Sài Gòn tới những thành phố lớn, thủ
đô các quốc
gia trên thế giới. Do hoàn cảnh địa dư, buổi sáng tôi có thể chào buổi
chiều,
"Good Evening", với một đồng nghiệp ở California; nếu rảnh rang, tôi
có thể hỏi thăm hoặc bông đùa đôi câu với một nữ điện thoại viên ở
Hongkong, hoặc
Tokyo… Buổi chiều, tôi có thể biết thời tiết một Paris buổi sáng; tôi
hỏi thăm
những đồng nghiệp không bao giờ gặp mặt, có phải tuyết bắt đầu rơi, mùa
đông ở
nơi xa xôi đó có gì tương tự với những ngày giá lạnh của miền quê hương
cũ…
Những ngày ở
Sài Gòn (1965)
Giấc mơ
Paris chính là giấc mơ phản chiến.
Một mai qua
cơn mê, anh bèn đi Paris, anh bèn làm thi sĩ!
*
Gấu này cũng
có một vài kỷ niệm với Cung Trầm Tưởng.
Gấu quen
ông, cùng thời gian quen... Cao Bồi. Cũng trên cái chiếu xì, tại nhà
Gấu. Cao Bồi
hình như chỉ ghé một, hoặc hai lần. Hai người hình như cũng không quen
nhau.
Cái nhà nhà nước cấp, khi Gấu còn độc thân, ở chung cư NBK, sau này, rước Gấu Cái, bằng thuyền, từ Cai Lậy về,
đám bạn
Xì bèn dạt qua nhà NDT, cũng kế bên, cũng thuộc một chung cư, khác, của
Bưu Điện.
Nhưng với
thi sĩ, với thơ, tuyệt nhất là những vần lục bát của ông.
Mùa đi bỏ lại
gốc dừa cội măng
Tháng Giêng
buốt sẻ đôi đằng
Nửa chì mưa
đục nửa băng giá hồn
Đọc, một
phát, ở trong cái "không khí thời chưa chín" đó, là nó bèn cắm sâu vào
hồn
bạn.
*
Pamuk, trong
Hồi Ức Istanbul, có nói đến cái không khí tuyệt vời trước khi
tai họa đổ ập xuống:
Ôi, ôm Em
trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới [khi ở trong Trại Tù VC]
Đúng là cái
không khí của thời của Gấu, thập niên 1960. Viết về cái thời đó, không
dễ, cả ở
hai phiá của cuộc chiến. Gấu muốn nói, giữa mấy anh VC nằm vùng, và lớp
người
như Gấu, không thể nào chọn VC được.
Cái bát cơm tám thơm quá
thơm,
thành ra ngần
ngại.
[Câu này là
muốn nhắc tới “dụ ngôn” của Nguyễn Đức Quỳnh, CS như chén cơm gạo Tám
Thơm, trộn
thuốc độc, Quốc Gia như chén cơm gạo hẩm, trộn cứt]
Lạc Đường là
một thí dụ. So với nó, thái độ ngậm miệng ăn tiền, [hitman], của HPNT,
coi bộ lại..
có lý!
Gấu đọc Lạc
Đường, chịu không nổi, thú thực.
Sượng quá,
biến thành hà!
[Thân em như
củ khoai hà, cho chó lảng, cho gà gà chê!]
Điều này, có
một tay, viết blog, lạ làm sao tiên đoán được:
Hồi ký và tiểu
sử: hai thể loại hung hiểm, có thể làm gãy tay bất kỳ ai dám chạm vào.
Blog Nhị
Linh
Nothing reveals a poet's
weakness like classic verse and that why it's so universally dodged
Brodsky [Intro to Anna Akhmatova's Poems, selected
and edited by Lyn Coffin. Norton]
Không gì tố cáo cái yếu kém của
một nhà thơ cho bằng thơ cổ điển, và chính vì thế mà mấy nhà thơ Mít
dởm của chúng ta tránh nó như tránh... hủi!
Thơ lục bát: Một duyên
phận long đong
TYT
Note: Tay này đặt ngược vấn đề!
Thơ lục bát không long đong, nhưng nhà thơ long đong, nếu đụng vô nó,
mà không đủ nội lực.
Đây là nhận định của hơn 1 nhà văn, nhà thơ, trên thế giới, khi cho
rằng, ‘truyền thống’, trong có lục bát, tất nhiên, là một thách đố, đối
với những nhà thơ dởm, và chính vì nó, truyền thống [ở đây, là lục
bát], mà đẻ ra ba thứ thơ nhảm nhí, như tự do, không vần, tân hình
thức, những nhà thơ cách tân, canh tân, hậu vệ, mở miệng....!
Trong quá khứ, cũng có hơn 1 nhà thơ Mít, đụng vô lục bát, mà thành
công, thí dụ, Cung Trầm Tưởng, [Bùi Giáng nữa, ở 1 số bài, thí dụ như
khi ông dịch Apollinaire], Đồng Đức Bốn, Viên Linh, [nhớ đại khái vài
cái tên]
TTT phải đến khi vô tù mới trở lại được với truyền thống, một phần là
vì hoàn cảnh, cái khó nó bó cái khôn, nhưng theo Gấu, chính ở trong tù
ông mới ngộ ra được truyền thống, một phần là do, cái gọi là bạo lực
trong thơ của ông tới được cõi viên mãn của nó: thiền.
Source
Cung
Trầm Tưởng
Đêm Sinh Nhật
mưa rơi đêm
lạnh Saigon
mưa hay trời
khóc đêm tròn tuổi tôi?
mưa hay trời
cũng thế thôi
đời nay biển
lạnh, mưa bồi đất hoang.
hồn tu kín xứ
đa mang
chóng hao
tâm thể, sớm vàng lượng xuân
niềm tin tay
trắng cơ bần
cuối hoàng
hôn lịm bóng thần tượng xưa.
đêm nay trời
khóc trời mưa
gió lùa ẩm đục,
trời đưa thu về
trời hay thi
khóc ủ ê?
cổ cao áo
kín đi về buồn tôi.
Nguồn Dac
Trung
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Phiên
Khúc 17
Bắc Kinh,
khuya 1/6/1991
Tưởng niệm
năm thứ nhì ngày 4/6
Dâng Tặng:
Em đã không
nghe ba mẹ khuyên ngăn, trốn khỏi nhà qua khung cửa nhỏ nhà vệ sinh,
khi em cầm
ngọn cờ ngã xuống, tuổi mới mười bảy. Tôi thì vẫn sống, đã 36. Trước
vong linh
em, còn sống tiếp chính là phạm tội, làm thơ tặng em càng là một sự sỉ
nhục. Kẻ
sống phải câm miệng, lắng nghe lời từ mộ phần. Viết thơ cho em, tôi
không xứng.
Tuổi mười bảy của em vượt lên hết thày ngôn ngữ và vật kiến tạo bởi bàn
tay con
người.
Tôi vẫn sống
Còn có cái
danh thối không lớn không nhỏ
Tôi không có
can đảm và tư cách
Cầm một bó
hoa tươi hoặc một bài thơ
Bước tới trước
nụ cười mười bảy tuổi
Tôi biết
Mười bảy tuổi
không có bất kỳ oán trách nào
Tuổi mười bảy
cho tôi biết
Đời sống đơn
sơ không hoa lệ
Như sa mạc
nhìn không thấy tận cùng
Không cần
cây cỏ không cần nước
Không cần
hoa điểm tô
Cũng đã có
thể gánh chịu mặt trời bạo ngược
Mười bảy tuổi
ngã xuống trên đường
Đường từ đó
mất hút
Mười bảy tuổi
ngủ giấc dài trong bùn đất
An lành như
trang sách
Mười bảy tuổi
đến với đời
Không luyến
lụy điều gì
Ngoài lứa tuổi
thơ ngây trong trắng
Mười bảy tuổi
khi ngừng hơi thở
Không tuyệt
vọng, như là kỳ tích
Đạn xuyên
qua dãy núi
Co thắt làm
nước biển điên cuồng
Vào thời khắc
tất cả loài hoa,
Chỉ có một
màu
Mười bảy tuổi
không có tuyệt vọng
Không hề tuyệt
vọng
Mười bảy tuổi
tình yêu chưa tròn vẹn
Để lại cho
người mẹ tóc bạc kín đầu
Người mẹ đã
khóa trái cửa, nhốt chặt
Tuổi mười bảy
ở nhà
Người mẹ từng
cắt đứt huyết thống gia tộc cao quý
dưới ngọn cờ
hồng
Được ánh mắt
em, lúc lâm chung, thức tỉnh
Bà đem di
chúc của mười bảy tuổi
Đi khắp tất
cả mộ phần
Mỗi một lần
bà sắp quỵ ngã
Mười bảy tuổi
đều dùng hơi thở vong linh
Đỡ bà đứng vững
Dìu bà lên
đường
Vượt lên lứa
tuổi
Vượt lên cái
chết
Mười bảy tuổi
Đã vĩnh hằng.
TTT 2012
Bếp Lửa trong văn chương
Ghi
chú
trong ngày
Công nhân
bây giờ không còn là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
TDBC
Anh hề VC nằm
vùng này có bao giờ tự hỏi, có khi nào công nhân là giai cấp lãnh đạo?
Đọc những dòng
anh ta viết về chế độ VNCH mới cực nhảm:
Những người
tự nhận là “quốc gia”, trước đây thuộc Việt Nam Cộng Hòa và những người
chống cộng
triệt để tin rằng chỉ có lật đổ chế độ cộng sản hoặc xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của
Đảng Cộng sản mới có thể xây dựng lại đất nước. Họ cho rằng chế độ Việt
Nam Cộng Hòa ở Miền Nam trước 1975 mới là chế độ dân chủ tự do, hơn hẳn
chế độ
hiện nay
và mơ ước “bao giờ cho đến ngày xưa”. Tuy nhiên họ chưa có cách nào hữu
hiệu để
lật đổ chế độ cộng sản và Việt Nam Cộng Hòa chỉ là một chế độ dân chủ
phôi
thai, còn rất nhiều khiếm khuyết và sự bất tài, yếu kém của những người
lãnh đạo
chính là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến sự thua trận và
tan rã của
Việt Nam Cộng Hòa.
Có ai mơ mộng
chuyện “bao giờ cho đến ngày xưa” đâu, nhưng anh hề này cũng phải nhận
ra 1 điều
VNCH là chế độ bảnh nhất, của nước Mít. Đây là 1 sự thực lịch sử.
Dân Mít mong,
giá mà có 1 chế độ VC như nó, bây giờ, thì đỡ khổ, chứ đâu có phải là
chuyện “bao
giờ cho đến ngày xưa”?
Chẳng thế mà
1 tên VC chính hiệu, Đông A, B mà
cũng còn nhận ra “sự thực lịch sử”, chế độ ta
khốn kiếp hơn chế độ Ngụy.
Không lẽ tên VC này cũng mơ “bao giờ cho đến
ngày xưa”?
Dân Mít thực
sự không cần một đảng phái, mà chỉ cần 1 người. Một người như “the
Lady”, một
người như Solzhenitsyn, một người như Liu Xiaobo, như Mandela, thí dụ.
Dân Mít
quá sợ Đảng, Phong Trào rồi, vì chúng, thằng nào cũng khôn, nhất là lũ
Bắc Kít,
có thằng nào chịu thằng nào đâu?
Đầu óc như
thế mà cũng viết mới lách.
Lúc nào cũng nghĩ Ngụy là Kít, Cách Mạng là số 1, thì
làm sao khá được?
NQT
Tuy nhiên họ chưa có cách nào hữu hiệu để lật
đổ chế độ cộng
sản….
VNCH có khi
nào có ý nghĩ... lật đổ chế độ cộng sản?
Nó có.... Bắc Tiến bao giờ đâu?
Cái sự thua trận tan rã của VNCH thì có rất nhiều lý do, và có thể nói,
nó phải
như thế, để lòi ra cái lũ VC như hiện nay, cũng nên!
*
Đây cũng là
1 con đường, mà đám khốn kiếp VC nằm vùng đã từng vọng tưởng:
Trách nhiệm
của HPNT, trong vụ Mậu Thân Huế, là: Ông không trực tiếp giết người,
nhưng xúi
người ta làm thịt người. Một cách nào đó, trường hợp của ông tương tự
như của
Heidegger.
Chính cái
không khí Huế, trước đó, cái khí thế bừng bừng của Cách Mạng mà người
hùng có mặt
trên từng cây số, đã đưa đến thảm sát Mậu Thân.
Những con đường
của một tư tưởng: Số đặc biệt về Heidegger
Heidegger,
la question du Nazisme: Heidegger và vấn đề Nazi. Liệu cảm tình của
Heidegger,
hoặc sâu thẳm, hoặc nhất thời, với Nazi, làm tổn thương toàn bộ tư
tưởng, triết
học của ông?
Une trahison
de la philosophie dès Être et Temps:
Một sự phản bội ngay từ Hữu thể và Thời
gian. Triết gia Heidegger, chính ông ta, đã chịu thần phục ý thức
hệ Nazi,
và đem cả triết học đặt dưới chân ý thức hệ đó.
Nazi, par
conviction profonde. Heidegger không phải chỉ gia nhập chủ nghĩa Nazi.
Ông là một
Nazi từ trong xương trong tuỷ, par conviction.
[Le Magazine
Littéraire số Tháng Sáu 2001]
*
HPNT hỏi Văn
Cao, sao bặt tiếng sau Cách Mạng Mùa Thu, và Văn Cao trả lời, do cái vụ
giết
người nên không làm sao làm nhạc có lời được nữa.
Sự thực, như GCC đoán mò, Văn Cao muốn nói
tới "hai lần trách
nhiệm" của ông, trong Cách Mạng Mùa Thu, vừa đích thân làm đồ tể, vừa
làm
đồ tể gián tiếp qua bài Tiến Quân Ca.
Gấu nghĩ,
HPNT không đủ "cảm quan" để đọc ra điều này.
Thành thử,
ông chỉ lo đính chính, ông không tự tay giết người. (1)
Thú thực Gấu
rất tởm đám VC nằm vùng, không phải vì chúng nằm vùng, mà vì sau đó,
không có tên
nào nói được 1 câu nào ra hồn, hay có được thái độ, ứng xử nào coi
được, thí dụ
như Jane Fonda, chẳng hạn.
Chế độ VHCH, cứ lấy 1 thí dụ, những dân biểu Hạ Viện
chẳng hạn, hoàn toàn do dân bầu ra. Gấu có anh bạn, Trần Công Quốc, có
thế lực
nào đâu, đi từng nhà xin phiếu, dân tin anh bỏ phiếu cho anh, làm gì có
1 tên đại
diện nào của VC được như thế, tên khốn nằm vùng này phải biết hơn ai
hết sự thực
rành rành ra như thế. Vậy mà xưng xưng viết:
Tuy nhiên họ chưa có cách nào hữu hiệu để
lật đổ chế
độ cộng sản và Việt Nam Cộng Hòa chỉ là một chế độ dân chủ phôi thai,
còn rất
nhiều khiếm khuyết và sự bất tài, yếu kém của những người lãnh đạo
chính là một
trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến sự thua trận và tan rã của
Việt Nam
Cộng Hòa.
Bất tài? Một
tên học lớp 1 chăn trâu, thì có tài ư?
Mi có cách nào hữu hiệu không, để lật đổ chế độ CS
hiện nay?
VNCH ở Miền Nam làm sao lật đổ chế độ CS ở Miền Bắc?
Sao
mi không kể, trong những
nguyên nhân tan rã của Miền Nam VNCH là do dung dưỡng những tên VC nằm
vùng như
mi? Có khi nào mi “đau”, vì đã đóng góp không nhỏ vào nguyên nhân đó,
như một
PXA, thí dụ, đến nỗi chết không nhắm mắt, hay Võ Đại Tướng, không thể…
chết được,
cứ sống hoài mà năn năn tội lỗi?
Có bao giờ
mi cảm thấy nhục, vì là 1 tên VC nằm vùng?
NQT
Lolita
vs BHD
Cali
Tháng Tám 2011
Thú thực
Gấu
không nghĩ có ngày được đọc lại những trang TSVC. Đọc 1 phát, là kỷ
niệm cũ những
ngày mới quen Joseph Huỳnh Văn trở lại. Cái truyện ngắn dịch Joyce, anh
thích lắm,
cái dòng giới thiệu, “mười lăm truyện ngắn trong Dubliners đúng là mười
lăm mảnh
đời xé ra từ xứ Ái nhĩ lan, từ thành phố Dublin nghèo khổ.”
Không có
Joseph, không có Tử Lộc, là GCC không viết cho tờ TSVC. Lúc đó GCC quá
chán đời
rồi. Quá chán viết nữa. Bao nhiêu bài viết phê bình đọc sách, dịch
dọt, vứt thùng rác sạch, thế rồi bây giờ lại được đọc lại, trước khi đi
xa,
cảm khái
chi đâu.
Sau 1975,
GCC chỉ còn có 1 người bạn, là Joseph HV.
Trước 1972, thì cũng đã
thế rồi. Những
lần chịu không nổi, là mò tới anh, anh bày 1 cái chiếu ra ở dưới bếp,
không phải chỉ để nhậu, mà là để cho thằng bạn mình ngồi xuống, khóc.
Đến nhà như
thế, mà hầu như chưa 1 lần Gấu nói gì với mấy đứa nhỏ, cũng như bà xã
anh, dù 1 câu
chào hỏi.
Nhớ có lần khóc khủng khiếp quá, rống lên như bò, chắc thế, cả nhà chạy
xuống bếp, bà xã anh và mấy đứa nhìn Gấu sợ quá, không hiểu chuyện gì
xẩy ra
Lần nói chuyện
đầu tiên với bà xã anh, là qua điện thoại, sau khi anh mất. Bà có vẻ
bực đám bạn
trẻ, sau 1975. Theo Bà, mấy người bạn cùng ngồi bàn cà phê bữa đó giá
mà biết
anh bị tim, ngất đi, cứ để anh nằm xuống, nghỉ ngơi một lát, có thể anh
chưa mất.
Họ hoảng quá chở anh tới 1 tay bác sĩ ở gần đó, tay này hoảng quá, kêu
chở ngay
đi nhà thương, do di chuyển nhiều, vết thương vỡ ra...
Không
phải như vậy, theo NDT, cũng có mặt bữa đó. Anh nói, Joseph đang ngồi,
gục xuống, và đi liền lúc đó....
Ghi lại ở
đây, để gia đình hiểu rõ về lúc ra đi của anh.
Chỉ có mấy
người bạn cũ của anh ấy những ngày trước 1975 là tôi còn nhớ, chị viết,
trong mẩu
giấy gửi anh bạn, nhà thơ HT, thay mặt Gấu tới nhà đốt nén hương trước
bàn thờ
của anh.
Lạ là GCC
không phải thứ hay khóc, trước người khác, tuy bi lụy. Như thể có 1
đấng nào đó
biết, GCC rất cần khóc, nên ban cho Gấu Joseph HV. Anh nói, mi bi lụy
quá.
Và với NLV:
Tội thằng Trụ quá.
Y chang Bà
Trẻ của Gấu than thở, uổng quá, mi dư sức đi tu, làm đệ tử Phật, nhưng
bi lụy
quá, thành ra sống cũng khó, mong gì tu.
Rồi những
bài thơ của Joseph nữa. Những bài viết của Tử Lộc.
Cám ơn tất cả các bạn, và… quê nhà, ở bên
đó.
NQT
Ui chao, giá
mà Gấu đi tu, nhỉ!
Không đi tu thì thờ Cô Ba cũng thế!
Hà,, hà!
Từ trước
1975, đúng hơn, từ lúc xin làm đệ tử Cô Ba, Gấu gần như chẳng gặp bạn
văn, đừng
nói bạn quí. Điều mà Gấu tự hào, là chưa từng ngửa tay xin tiền bạn, để
đi hút,
hoặc chích; trước 1975, thì cũng dễ, nhưng cả sau 1975; và điều này là
nhờ Gấu
Cái, bà lo gia đình, lo mấy đứa nhỏ, Gấu chi phải lo cho thân Gấu, về
mặt cơm
đen!
Bạn C có lần
ra Bưu Điện kiếm Gấu, trao tiền [hình như 20 đô, hồi đó quí lắm, của
bạn Luận,
1 trong Thất Hiền từ Mẽo gửi về cho], mà còn phải gật gù khen, cậu hơn
tớ, tớ chẳng biết kiếm tiền, chỉ trông vào Viện Trợ
Mẽo!
Ý anh muốn
nói, từ bà con đi thoát được. Nhưng cái cụm từ “Viện Trợ Mẽo” còn có ý
nghĩa
khác: Thời gian Gấu còn ăn bám bà cụ C, mỗi lần bà cô của bạn C. tức
phu nhân Đại
Tá Út, tỉnh trưởng Bạc Liêu, về Sài Gòn, là bạn C trịnh trọng thông báo
Thất Hiền,
Viện Trợ Mỹ tới rồi, hà, hà!
Cho tới khi
gặp Joseph.
Biết anh
cùng đám bạn cũ của Gấu làm tờ TSVC, Gấu vì quá quí anh nên cầm lại cây
viết.
Không phải
hoàn toàn không cầm đến cây viết, nhưng chỉ những khi kẹt quá, thì đành
ghé VL,
lấy tiền, rồi sau đó, viết bài cho tờ TT, trừ.
Sau này, về
già, Gấu tự hỏi, giả như tình cờ gặp bạn quí, ngửa tay xin tiền đi
chích, thì
sao, nhỉ?
Hà, hà!
|
|