Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 



August 12


*

FROM AN UNWRITTEN
THEORY OF DREAMS

In memory of Jean Améry

-Zbigniew Herbert

Từ một lý thuyết chưa được viết ra
 về những cơn mộng

Tưởng niệm Jean Améry

1

Những tên tra tấn ngủ, như thể những giấc mộng của chúng thì màu hồng, và hiền hậu -
những cú xóa sổ sắc dân, ở hải ngoại, hay ở trong nước, ở 1 miền đất như Miền Nam xứ Mít, thí dụ -
thì đều đã được tha thứ, nhờ cái hồi ức ngắn ngủn của con người
một ngọn gió nhẹ lật những trang của những cuốn album gia đình
những cửa sổ mở ra Tháng Tám
cái bóng của cây táo đang nở hoa
ở bên dưới nó một đám người thanh nhã tụ tâp
chiếc xe trần của ông nội sửa soạn cho chuyến đi tới nhà thờ
thánh lễ đầu tiên vòng tay đầu tiên của người mẹ
một đống lửa trại ở 1 khu quang đãng, và bầu trời đầy sao
không điềm triệu, hay bí ẩn, không Khải Huyền
Và thế là chúng ngủ như thể những giấc mộng của chúng thì trọn gói,
đầy thức ăn, đồ uống, những cơ thể đàn bà mát rượi
Với họ, chúng chơi trò chơi dâm đãng trong những bụi cây,
trong những khu rừng nhỏ, và bên trên tất cả
là một giọng nói đừng bao giờ-quên, lãng đãng, bồng bềnh
một giọng trinh nguyên, trong trắng như mùa xuân
ngây thơ, vô tội như 1 tiếng dội, hát về 1 một cậu bé
rình mò một bông hồng trên cây thạch nham.

Chuông hồi nhớ đánh thức không hồn ma, không ác mộng.
Chuông hồi nhớ lập lại sự xá tội lớn lao của nó.

Chúng thức dậy, vào buổi sáng sớm, tràn trề quyết tâm, và sức mạnh
Rất cẩn thận chúng cạo đôi má trưởng giả của chúng
“Cái còn lại” của tóc, chúng bèn chải và bện thành 1 vòng nguyệt quế đầm trong nước lãng quên.
Và nó sẽ rửa sạch, và làm trôi đi tất cả
Chúng thoa cơ thể của chúng bằng 1 thứ xà bông mang nhãn Macbeth.




Bất hạnh là tài sản

Christa Wolf by Economist

Yiyun Li

HOPE IN A THIN SHELL

Hy vọng ở trong 1 cõi nhân gian bé tí: Xứ Bắc Kít

What has That to Do with Me?
Số phận của họ mắc mớ gì đến tôi?
Yiyun Li, đã tự hỏi mình như vậy, khi viết văn, kể ra những câu chuyện về những con người mà bà chẳng thể nào quên nổi,
You were not who you were, but what you were rationed to be, Mi không phải là mi mà là do tem phiếu làm nên.


Kafka: Years of insight


Tưởng niệm 7 năm TTT mất

Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà

Dân khí suy đồi và trách nhiệm con người

Nhà văn Võ Thị Hảo
Gửi cho BBC Việt ngữ từ Hà Nội

Đây cũng 1 thứ cực kỳ tinh anh, của Bắc Kít, theo GCC. Bà này can đảm hơn mấy tên kia nhiều, nhưng óc vẫn bị thiến mất 1 khúc, hay một mẩu, vẫn theo GCC.
 Hoặc cũng đã từng nhận hàng, miệng cũng có mùi chiến lợi phẩm cho nên không thể nói khác đi được.

Christ and the Devil have changed places.
Chúa Ky Tô và Quỉ đổi chỗ cho nhau.

D.M. Thomas Tiểu sử Solzhenitsyn, chương 2: Demons

D.M nhắc tới bài thơ “The Twelve” của Blok, 12 tên Vệ Binh Đỏ, Red Guards, trong đêm tối St Petersburg, gặp ai giết người đó, tàn phá, hủy diệt tất cả cái gì vướng chân chúng trên đường đi: They lust to drink, have pleasure, and uphold the Revolution, chúng ăn nhậu, chơi đồ chơi thỏa thích, dâng cao ngọn cờ Cách Mạng. Đằng sau chúng, là 1 con chó đói – cái thế giới cũ, the old world, chúng tính đâm cho con chó 1 một mũi bayonet, nhưng quay nhìn về phía xa, về phía trước, một hình ảnh như đang dẫn dắt chúng: Trong tuyết dầy, đặc, là 1 ngọn cờ đỏ, và hình bóng chúa Ky Tô: Bearing the flag, leading the cutthroats, walking lightly above the storm- is Jesus Christ.  

Chúa và Quỉ đổi chỗ cho nhau là vậy.

Cuộc chiến Mít, thay vì Chúa Ky Tô, chính là giấc mơ thoát ra khỏi cái kiếp người thê lương ở nơi “Quê Người”, là xứ Bắc Kít.
Hơn cả hình bóng Chúa Giê Su cầm cờ dẫn đường bọn giết người Vệ Binh Đỏ, trong bài thơ của Blok - là hình ảnh về một thiên đàng ở bên ngoài, ở quá lũy tre làng, ở đâu đó ở một Đàng Trong...

Chính Cái Ác Bắc Kít, nằm nơi trái tim mọi tên Bắc Kít, đã đổi giấc mơ của giống Mít – Chúa cho chúng làm người để thực hiện giấc mơ đó - thành đại ác mộng, là một nước Mít như hiện nay.

What has That to Do with Me?
Số phận của họ mắc mớ gì đến tôi?

Yiyun Li, đã tự hỏi mình như vậy, khi viết văn, kể ra những câu chuyện về những con người mà bà chẳng thể nào quên nổi, “You were not who you were, but what you were rationed to be” [Yiyun Li, Hope in a thin shell, Hy vọng ở trong 1 cõi nhân gian bé tí: Xứ Bắc Kít], Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn. Có thể, đất nước Mít, nhất là xứ Bắc Kít, suy đồi đến như hiện nay, là vì họ đã quên đi thời tem phiếu. The day you were lucky enough to get a basin of eggs, you also watched a long line of strangers eyeing you with jealousy, even hatred. Ngày mà bạn nhận hàng Miền Nam, bạn vẫn nhìn thấy cả một dẫy người sắp hàng, nhìn bạn với con mắt ghen tuông và thù hận.

*


*

Note: Đây cũng là 1 cuốn sách gối đầu của GCC [em NT gọi là sách gối mông, và mông của em thì đang bị VC lột ra, để đánh đòn! Take care, please! NQT]. Đọc đến quăn tít mấy góc sách. Có những chương thật thần sầu. D.M. Thomas là 1 nhà văn, thứ bảnh nhất, tôi là tiểu thuyết gia, thi sĩ, không phải nhà viết tiểu sử. Ông nhận viết tiểu sử Solz, như là 1 thách đố, với chính mình. Tin Văn sẽ giới thiệu 1, 2 chương, thí dụ, chương III: Quỉ [Demons]; chương về Pasternak, cái chết của 1 thi sĩ.
Prologue, Lời mở đầu.

*

Người lén đem tác phẩm của Solz qua Tây phương

Khi DT chê NHT, thứ nhà văn vô học như ông ta, có cả đống, ở nước ngoài, để bênh vực bạn văn VC, Gấu bèn lôi tổ sư phê bình Mác xít ra.
*
Trong bài viết trước, khi viết về sự xuất hiện của những truyện ngắn, thay vì truyện dài, của một NHT, Gấu có nhắc tới trường hợp Solzhenitsyn và sự xuất hiện "Một Ngày trong Đời Ivan Denisovich", như một xuất hiện ở vào cuối một giai đoạn. Đây là sự cần thiết của chính văn học, khi nó bị đẩy vào đường cùng, và cùng tắc... biến.
Nên nhớ, Nước Nga Đỏ chưa hề vơ Một Ngày vào dòng chính, chưa từng hợp thức hoá cho nó. Nhà nước cần nó, không có nghĩa, nó thuộc vào dòng chính.
Nói rõ hơn, với NHT, không có "đổi mới", mà có sự lại làm mới văn học, renouveau, như là một thử thách, một rủi ro bắt buộc, nếu muốn thoát ra khỏi bế tắc, nếu nhà văn không muốn chết ngạt.
G. Steiner, khi điểm cuốn "Alexander Solzhenitsyn: A Century in His Life", của D. M. Thomas, (583 trang, New York, nhà xb St. Martin's Press 1998)  trên NY Times Book Review, March 1, 1998, cũng đã nhấn mạnh đến sự kiện này:
"Khi Khrushchev bật đèn xanh cho "Một Ngày trong Đời Ivan Denisovich", với ông ta, đây là một hành động mang tính chính trị giai đoạn: Anh tù Ivan là một nông dân, không phải một trí thức. (Khruschev cho rằng khẩu phần nhà tù như trong cuốn sách mô tả là vượt định mức). Nếu ông ta tiếp tục làm cho xong, việc tẩy uế chủ nghĩa Stalin, cuốn sách cũng chẳng thể kéo dài, và nhân lên mãi, niềm vinh quang ngây ngất của nó. Cùng với sự xuất hiện của "Một ngày", chỉ trong "một đêm", Solzhenitsyn trở thành nổi tiếng. Ông tới gặp Anna Akhmatova, nhà thơ vĩ đại nhất khi đó hiện còn sống của nước Nga. Bà hỏi: "Liệu anh chịu được lâu, vinh quang?... Pasternak chịu, thua. Thật khó kéo dài vinh quang, nhất là thứ đến muộn." Một lời cảnh cáo nóng bỏng"
[Một linh hồn lưu vong]
Bây giờ với Tuổi Bụi, NHT cũng làm một toan tính như vậy.
Không phải ăn theo, không phải kiệt cạn, như Đoàn Cầm Thi nhận định, như ông Tây trích dẫn trong bài viết.
Ở đây, chúng ta cần phân biệt  một số thuật ngữ như "lại làm mới", "đổi mới", "cởi trói" và hoàn cảnh lịch sử khi chúng xuất hiện, và chúng ta nhận ra, có gì tương tự, giữa câu cảnh cáo của Akhmatova, và lời cầu chúc đừng thuận buồm xuôi gió của Hoàng Ngọc Hiến.
Sự xuất hiện của truyện ngắn NHT đúng là một cách ăn theo hiện tượng cởi trói trong văn học. Lợi dụng nhà nước ra lệnh, hãy cởi trói... sơ sơ cho tụi nó, nhờ đó xuất hiện những Cù Lao Tràm, Đứng Trước Biển, Ly Thân... , Nguyên Ngọc bèn nhét kèm thêm, cho ăn theo, một hai truyện ngắn của NHT.
Gấu tôi bỗng nhớ tới vị sư già ở Tàng Kinh Các, trong Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung, thấy mấy thằng ngu chỉ say mê giết người, toàn lựa những sách dậy giết người để mà đọc, để mà học, bèn nhét xen vô những cuốn kinh Phật...
Một cách nào đó, phải đọc NHT theo tinh thần đó, tinh thần giải độc.
Câu cảnh cáo NHT, của HNH là phải hiểu theo cách đó:
Này đừng có thuận buồm xuôi gió, rồi lại trở thành một thứ Trần Mạnh Hảo, một thứ...
*
Khi phải so sánh giữa hai ông khổng lồ, một về văn, và một về thơ, ở thời tận cùng của chủ nghĩa cộng sản ở Liên xô, thiên hạ nói, sự xuất hiện của Solzhenitsyn, là để tố cáo Lò Cải Tạo Nga, và đồng thời chấm dứt nó. Còn Brodsky, như Coetzee nhận xét, là người đánh cái dấu chấm hết to tổ chảng, cho cái gọi là văn học Xô Viết.

Gấu tôi nghĩ, với Việt Nam, có vẻ như cả hai, Bảo Ninh thì tố cáo và chấm dứt huyền thoại cuộc chiến và cùng với nó, huyền thoại Phù Đổng về người lính cụ Hồ, còn Nguyễn Huy Thiệp, chính là người đánh dấu chấm hết cho văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, của miền Bắc, thứ văn học đến liền sau thất bại của Tự Lực Văn Đoàn, chính nó mới là cái nền đẻ ra cuộc chiến, đẻ ra anh bộ đội cụ Hồ. Thiệp bị nhập nhằng, bị gán bậy vào đổi mới là vậy, theo nghĩa, văn học hiện thực miền bắc đưa đến chiến thắng miền nam, còn Thiệp là người, khi cái văn học hiện thực đó bị "lão hoá", bèn "đổi mới" nó!

Bởi vì rõ ràng là, thiếu một ông Thiệp, thì cả một đống những nhà văn của trào lưu đổi mới đó, đều là hàng giả, đồ cuội. Một cách nào đó, chính họ mới ăn theo NHT. Điều này giải thích, cả đám ôm lấy Thiệp, coi như là thần tượng của họ, nhưng khi thần tượng không chịu a dua, cá mè một lứa với họ, khi Thiệp cố gắng đổi mới thực sự, chính mình, thì cả bọn la lên, thằng này hết thời rồi!
[Trường hợp DTH, xin để riêng ra, như một số nhà văn nhà thơ khác, đã thực sự tin vào chủ nghhĩa CS, gia nhập cuộc chiến với lòng hăng say, sau vỡ mộng, bèn chống lại nó].
Thiệp không hề tin vào văn học hiện thực, càng không tin vào đổi mới. Nông dân, thứ thiệt, của miền đất đó, nhưng ông không bị hớp hồn bởi chủ nghĩa Cộng Sản, như một quỉ, hoặc như một cứu rỗi. Khác hẳn bất cứ mọi trường hợp khác. Ngay cả Pasternak, ngay cả Solzhenitsyn, suốt cả một thời trẻ trung của họ, đều đã từng tin tưởng, và chiến đấu cho chủ nghĩa đó.
Bởi vì Demon, và Savior, chỉ là một. Trước 1975, là Savior. Sau 1975, biến thành Demon. Vẫn chỉ là một thứ.
Nên nhớ, không phải Dos là người đầu tiên nhắc tới Demon, Quỉ. Quỉ của Pushkin - viết năm 1830, một trăm năm trước cơn phẫn nộ của Stalin, giáng xuống đầu nông dân Nga - mô tả một chiếc xe ngựa bị bão tuyết làm mất phương hướng, mấy con ngựa kéo xe bị quỉ xúi giục và cứ thế lao vào địa ngục. Tới thời Dos, Những Con Quỉ [thường được dịch là Lũ Người Quỉ Ám, 1871], Quỉ biến thành Kẻ Cứu Rỗi, Vị Cứu Tinh. Hãy tưởng tượng, 1921, ông Hồ đói rét, run lẩy bẩy ở Paris, đọc Lênin, và sảng khoái la lên, cứu tinh đây rồi, đây là tri âm tri kỷ, kẻ đồng điệu, người đồng hành...
Bởi vì tầng lớp trí thức miền bắc đã đón nhận quỉ sứ như kẻ cứu rỗi, như thế đó. Họ thực sự tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ là cơ may, cơ hội đổi đời. Chính niềm tin này là nền tảng của, thí dụ, "Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm", của những cảnh tượng thật bi hùng, bi tráng, bi thương, trai tráng làng, người người trích máu tay, làm đơn tình nguyện xin đi chiến trường miền nam.
Nhưng 1975, tất cả đều chưng hửng. Đều vỡ mộng. Hãy tưởng tượng tâm trạng của DTH lúc đó.
Như một nhà tiên tri, Kafka đã nhìn ra từ bao lâu cảnh này, trong Y sĩ đồng quê. Độc giả Việt, đọc ông, mà cứ nghe ra giọng của DHT, vào đúng cái ngày cay đắng nhục nhã đó:
"Ta đã bị bội phản! Bội phản!"


Nhìn lại TLVD

NT vs VC

Tôi khinh bỉ mùa thu trên tóc em...

Em Nhã viết về Phạm Công Thiện


Quách Thoại Page
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

D. M. Thomas, trong “Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta”, chương “Cái chết của một thi sĩ”, đã nhận xét, về cuốn Dr. Zhivago:
Bác sĩ  Zhivago không chính trị một cách lộ liễu, như nhiều người tại Tây Phương hô hoán, một cuốn tiểu thuyết nhằm lên án, tố cáo... Nhưng nhà cầm quyền Xô Viết nhận ra, đây đúng là một kẻ thù chết người đối với chế độ. Bất cứ một trang là một sự chơn chất, nhiệt thành, cho một điều gì hết sức lớn lao, thực hơn nhiều, so với bất cứ  một chế độ chính trị nào, đâu phải chỉ cái thứ chính quyền toàn trị, xây dựng bằng hàng triệu người chết, lao động khổ sai, và một thứ ngôn ngữ vô nghĩa.
[Every page asserted a fidelity to something infinitely greater and more truthful than any political system, let alone a creed built on millions of deaths, slave labor, and a dead and a meaningless language].

Giả như áp dụng nhận định trên cho Thơ Ở Đâu Xa, những vần thơ làm ở một nơi chốn không thể làm thơ, liệu có khiêm cưỡng chăng?
Không! Chúng còn bảnh hơn cả Dr. Zhivago, theo nghĩa, thơ bảnh hơn văn, càng bảnh hơn tiểu thuyết, thứ văn chương bình dân. Người ta chẳng kể, về một nhà văn nữ hàng đầu thế giới, vừa nhặt gạo, vừa trông ông bố nằm bệnh, vừa viết tiểu thuyết, khi được in ra, mấy dấu chấm trên mấy chữ i, toàn là sạn gạo!
Nhà văn nữ Tuý Hồng chẳng đã, vừa nấu cơm, vừa [Tôi] nhìn tôi trên vách  [bếp]?

Nên nhớ, khi Pasternak được tin, Nobel trao cho ông vì Dr. Zhivago, ông rất bực. Ông nghĩ ông phải được Nobel như là nhà thơ.
Pasternak mất ngày 30 Tháng Năm 1960 [sau 30 Tháng Tư một ngày!] Đám tang của ông là một sự kiện khác thường, và, hầu như bí ẩn: Có lẽ đây là dấu báo đầu tiên, chỉ cho thấy, cái nhà nước uy quyền tột bực, hiển hiện ở khắp mọi nơi như thế đó vậy mà không thể lấn lướt thơ ca, … simply could not overcome poetry.

Thông báo giải thưởng Nobel, tháng 10, 1958, tiếp theo sự ra mắt Dr. Zhivago tại Tây Phương đã bùng ra chiến dịch tố cáo, bôi nhọ Pasternak, bắt đầu từ tờ Sự Thật. Tiếp theo, Hội Nhà Văn trục xuất ông. Bí thư Thành Đoàn gọi Pasternak là một con heo ỉa đái vào cái máng ăn của nó. Pasternak từ chối giải thưởng, nhưng cũng không yên thân. Ông gần 70, sức khỏe tồi tệ, chiến dịch làm nhục làm ông hoàn toàn suy sụp. Người tình, Olga Ivinskaya, sợ ông bị tim quật chết, và căng hơn, có thể tự sát, bèn năn nỉ ông viết thư cho Khrushchev, xin cho ở lại nước Nga, vì nếu rời nước Nga, là chết.

Ông mất ngày 30 Tháng Năm 1960. Thông báo chính thức, nhỏ nhoi, và, cáo thị độc nhất về đám tang, là một bản viết tay, dán ở kế bên quầy bán vé đi Kiev Station, ở Moscow, từ đó đi tới Peredelkino, một 'colony' ở ngoại vi thành phố Moscow, là nơi nhà văn cư ngụ:
“Vào 4 giờ chiều ngày Thứ Năm, 2 Tháng Sáu, linh cữu Boris Leonidovich Pasternak, nhà thơ vĩ đại nhất của Liên Xô hiện nay, sẽ được đưa về lòng đất”.
Cáo thị bị bóc, lại dán tiếp, nhiều lần, bởi một bàn tay vô danh.
Nghi lễ Chính Thống giáo đã được cử hành tại nhà riêng, một cách êm ả, vào buổi chiều hôm trước đám tang.
Sáng hôm sau, bốn danh thủ dương cầm – Stanislav Neigauz, Andrei Volkosky, Marya Yudia [bà đã từng nói với Stalin, ông là một kẻ tội lỗi lớn lao, a great sinner] và Sviatoslav Richter đã chơi nhạc vài tiếng đồng hồ tại nhà.
Trong số những người khiêng quan tài, có Andrei Sinyavsky và Yuli Daniel [sau bị truy bức, bách hại vì những bài viết chống đối, ly khai của họ], và Lev Koplev [Solz đưa ông này vô, làm một nhân vật trong Tầng Đầu]. Họ nhập vô một biển cả, những khuôn mặt rầu rĩ, tiếc thương: bạn bè, sinh viên, học sinh, công nhân, và dân quê. Một viên chức Hội Nhà Văn bước ra từ một chiếc limousine lớn, mầu đen, tính ké tí vai, khiêng quan tài nhà thơ, nhưng đám sinh viên la to, đi chỗ khác chơi.

Giỗ đầu

Gấu đọc Dr. Zhivago thời mới lớn, thời gian thường qua nhà ông anh nhà thơ, đói ăn đói cả đọc. Cùng đọc với bà cụ. Hai bà cháu cùng mê đọc. Và cùng mê Dr Zhivago. Em Lara ở trong truyện đẹp hơn nhiều so với Lara khi được chuyển thể thành phim, nhưng bắt buộc phải như vậy thôi.

Trên VN thư quán có cuốn này.

Về già, sắp [sắp gì nữa] đi xa, bèn tự hỏi, hay là BHD là từ…  Lara?
Như 1 nữ thi sĩ Bắc Kít, mối tình tội nghiệp kéo dài suốt 1 thời già cằn, từ những ngày đầu tiên ra được hải ngoại?
Như 1 cô Hồng Con của làng Thanh Trì, sau bị cả 1 miền đất bỏ chết đói?
Bởi là vì “Bác sĩ Zhivago” quả là mối tình đầu của Gấu.
Italo Calvino cũng có 1 bài thật là tuyệt về Pạt: “Pạt và Cách Mạng”.
Chắc là phải đi 1 đường về.. Lara.
Về Pạt, đúng hơn.

Về Pạt, thật nhã


Benjamin: Kẻ tản bộ