|
Về Quách Thoại
Còn gì
chăng?
Tôi bưng mặt
khóc bên thềm cửa
Trời đất
rưng rưng
Em không để
cầm tay
Khi người
thi sĩ ấy chết trơ trụi
Không một lời
trối trăng từ biệt
Mắt khép
không đợi vuốt
Nửa đêm
Còn gì
chăng?
Tôi ngồi
khóc bên bờ sông trôi mãi
Em bỏ đi
Những ngiười
thân nhất đều hắt hủi
Giữa xứ sở
đau thương tôi chịu đọa đầy
Khi người
thi sĩ ấy đã gặp
Người tình
ngàn đời là vô cùng
Trong hồn đất
Còn gì
chăng?
Tôi bé nhỏ
và tôi than thở
Em bỏ đi
Em cũng chẳng
trở về
Những vì sao
rụng bỗng đầy lệ nhân gian
Người thi sĩ
bay vào miền đất lạ
Không nhớ mảy
may biển gió cát muôn trùng
Ở đây tôi
còn mở mắt
Dìu linh hồn
lang thang
Thanh Tâm
Tuyền
Liên Đêm Mặt
Trời Tìm Thấy
Quách Thoại
Page
Bia mộ
"QT" mũi lõ, Oscar Wilde!
"Tôi để
thiên tài của tôi trong đời tôi"
Đường Trương
Minh Giảng
Phía bên
trái, lui lại 1 tí là Chợ TMG. Tới 1 tí, phiá bên phải, là hẻm nhà
Joseph Huỳnh
Văn, quá tí nữa, phiá bên trái, nhà Ngọc Dũng, Chợ Vườn Xoài, nhà ông
anh rể của
Gấu, Nguyễn Hoạt [Hiếu Chân], rồi tới Cổng Xe Lửa số 6, Nhà Thờ Ba
Chuông…
Nhà Lý Hoàng
Phong, tác giả Sau Cơn Mưa, anh ruột
Quách Thoại cũng ở khu này
Trúc Sĩ có 1
truyện dài “Xóm Vẹc” (?), là viết về khu này.
Lần độc nhất,
Gấu gặp LHP, là cái lần ông ở trong hẻm đi ra ngoài phố, chắc thế, kiếm
sạp
báo, kiếm bài viết của Gấu, cũng là bài điểm sách đầu tiên trong đời,
về “Sau
Cơn Mưa” của ông. Nhìn thấy Gấu, [ông chắc biết], ông giơ tay cầm tờ
báo, vẫy vẫy,
ra ý chào, đồng thời ra ý khoe, hay khen, và nói, nghe nhiều người nói
về bài viết của
anh, kiếm thấy nó rồi!
Ông là chủ tờ Văn Nghệ, còn
là
tờ báo vứt truyện ngắn đầu tay “Những Con Dã Tràng” của Gấu vô
thùng rác.
Gấu không gửi
cho báo Văn Nghệ, mà cho tờ Sáng Tạo, nhưng TTT đọc, tính đăng, thì báo
ngỏm,
ông bèn chuyển hết số bài vở còn lại, cho Văn Nghệ, chắc thế.
Gấu thấy tên
của Gấu, ký là Sơ Dạ Hương, ở Hộp Thư Tòa Soạn, thì đoán vậy.
Bài điểm sách
của Gấu, là trên tờ nhật báo Dân Chủ
của Vũ Ngọc Các. TTT kêu Gấu viết phụ
trang Văn Học. Đây cũng là nơi - nếu tin theo hồi ức của Mai Thảo,
trong “Chân
Dung 15 nhà văn” (?) – Mai Thảo lần đầu tiên gặp Thanh Tâm Tuyền, bạn
quí sau này
của ông, và lầm với 1 tay thợ sắp chữ, và tay này còn láo lếu dám hỏi
xin ông một
điếu thuốc lá!
Cũng
trong Chân Dung,
Người kể chuyện, đã lôi Rượu Chưa Đủ,
truyện ngắn thần sầu mở ra cõi văn Dương
Nghiễm Mậu, từ 1 thùng rác, 1 tòa soạn, một tờ báo, không nhớ báo nào,
vì hình
như ông cũng không nói ra, và Gấu đã lầm với tờ Văn, nhưng 1 vị bạn văn, cho biết,
khi đó, chưa có tờ Văn.
Phải viết rõ
như thế, để giải thích cái vụ ra sạp báo đầu ngõ.
Ba cái hình
cũ về Sài Gòn, trên TV, với riêng Gấu, là cả 1 trời kỷ niệm, đẹp thần
sầu, nhưng
cũng đầy bi thương, tan nát!
Rạp Đa Kao,
khi đó, là nơi Gấu hay chở 1 em tới coi ciné.
Hồi đó, ở Phú Nhuận, sống nhờ Bà
Trẻ, gia đình sống bằng cái sạp bán đồ mã não của Bà Trẻ ở Chợ Phú
Nhuận. Không còn ở hẻm Xóm Đội Có nữa, mà
dời qua hẻm
Nguyễn Huỳnh Đức, đằng sau Hội Đồng Xã Phú Nhuận. Em ở xóm Đội Có cũ,
người
quen xưa, thì cứ cải luơng như vậy cho nó tiện, vì em rất mê đọc truyện
trên mấy
tờ nhựt báo… Đâu có dám đưa em đi rạp gần nhà, khu Phú Nhuận, mà phải
tới Rạp Đa
Kao!
Bữa nào
Gấu
kể tiếp, sợ Gấu Cái bực!
Thoại's
Summer
"Hair,
dit-il". [Hãy thù ghét, hắn ta nói]
Linda Lê hiện
giữ mục "Trở về mái nhà xưa" [Trở về với những tác giả cổ điển,
"retour aux classiques"] cho tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire.
Số Tháng Chín [?], là bài viết về William Hazlitt: Thuốc độc và ngòi viết.
Bà viết: Hiếm
nhà văn, rành cái việc, thù ghét, cho ra hồn.
Anh hãy vì
em làm thơ tình ái, thì nhiều lắm, nhưng hãy nói cho em biết, cái thú
thù ghét,
nó ra làm sao, cái đó coi bộ khó!
Le Plaisir de hair, Thú
thù ghét, là tên một tác phẩm của nhà văn người Anh Hazlitt
(1778-1830), mới
[lại?] được dịch ra tiếng Tây. Người dịch Patrice Oliete Loscos, nhà xb
Alllia,
48 trang, 6,10 Euro.
Khi ta chết,
hãy nhớ chôn theo cùng với ta một tên phê bình! Nguyễn Tuân đã từng dặn
với lại.
Đâu phải ai
cũng di chúc một câu hiển hách như vậy!
Nhưng bi giờ,
có lẽ một ông phê bình chưa chắc đã dễ ghét, so với ông biên tập!
Linda Lê viết,
cái ông nhà văn Anh cổ này không có thói quen ăn mày tình yêu của đồng
loại, rất
trọng nguyên tắc, không thèm ve vuốt độc giả của mình, và luôn sẵn sàng
bảo vệ,
và ngợi ca, lòng thù hằn: "Trong tinh thần con người, có cái nhân chi
sơ,
tính rất dễ để lòng thù hằn rủ rê, quyến rũ, une aspiration vers lui, và
từ đó, là cái thú khốn kiếp, bệnh hoạn, nhưng cũng rất ư là sung sướng:
làm một
kẻ độc ác, tàn nhẫn, être méchant, hãy độc
ác. Đây là một cái nguồn sảng khoái không bao giờ cạn. Lòng tốt
trinh
nguyên chẳng mấy chốc trở nên đục ngầu, thiếu nét sáng tạo, và thiếu
lửa. Sự
đau khổ là một nỗi chua cay dịu dàng, nhưng người ta chẳng bao giờ "lại
được
đau khổ như những ngày đó đó". Tình yêu, với một tí ti "ẩn dụ",
hãy cứ để cho nó đến, rồi đi, chẳng mấy chốc trở thành chán chường. Chỉ
có lòng
thù hằn là bất tử!" (1)
Ui chao thảo
nào bạn quí của Gấu thù Gấu khủng khiếp như thế!
Mi đi muộn
quá. Hết mẹ nó mùa vượt biển từ đời thuở nào rồi!
Tại sao mi
không đi theo…. Cô Ba? Tụi tao đứa nào cũng thủ sẵn một bài ai điếu
thật là mùi
cho mày rồi!
Tưởng đứng đắn,
đàng hoàng, ai ngờ cũng thèm…. phở!
*
Ông nói,
" Đạo đức là cấu trúc. Tôi chỉ có một sự tò mò lớn lao là hiểu biết
những
con người, một ao ước lớn lao là khai phá". Ông tính đem đến cho cái từ
"đạo đức" này một ý nghĩa chi?
Naipaul: Một
nhà văn mất mẹ nó ý thức đạo đức ở trong tác phẩm chẳng là gì dưới mắt
tôi, tôi
chẳng thèm quan tâm tới thứ nhà văn này. Evelyn Waugh? Tay này có một
tham vọng
đạo đức? Làm gì có. Nếu có, thì đó là cơ hội. Proust? Bạn đặt trọng tâm
đạo đức
tác phẩm của ông ta vào chỗ nào? Một thứ kịch xã hội?
Ông thực quá
khắt khe với Proust.
Bà vợ,
Nadira Naipaul, [tố thêm]: Còn Gabriel Garcia Marquez? Một thằng cha
bất lương,
bạn của lũ bạo chúa. Salman Rushdie hả? Một gã thủ dâm trí thức.
Vào năm
1967, trong cuốn Lần Viếng Thăm Thứ Nhì, một thứ phóng sự về Ấn Độ, ông đã từng
nói: "Tất cả những
tự thuật Ấn Độ đều được viết bởi, vẫn chỉ có một người:
dở dang". Phải chăng, đây là
định nghĩa Willie? [nhân vật chính trong Nửa
Đời Nửa Đoạn, La Moitié d'une vie,
tác phẩm của Naipaul].
Vâng, đúng
như vậy. Cám ơn đã để ý tới điều này.
[Tạp Chí Văn
Học Pháp, số Tháng Chín 2005. Naipaul trả lời phỏng vấn] (2)
Cái định nghĩa của
Naipaul, có thể áp dụng cho xứ Mít.
Hạn hẹp hơn, cho thi sĩ Mít, theo nghĩa, họ thiếu 1 nửa, 1 cái gì đó.
Thiếu
Thầy.
Nửa đời nửa đoạn: Cái xứ
mình nó thế!
Đọc, dịch, thơ văn nước
ngoài, và đưa mắt nhìn họ, nhất là đám thi sĩ, Gấu thật ngỡ ngàng: Họ
thật
rành
nhau, thật quí nhau. Đọc Adam Zagajewski viết về Milosz, về Brodsky,
hay đọc Milosz
viết về Brodsky, về Pasternak, ui chao thật là sướng điên lên được.
Cái đó, Mít quá thiếu.
Không chỉ thiếu Thầy, mà còn thiếu cả bạn.
Những
dòng viết
về bạn của Mít, không thù tạc, thì [ngấm ngầm] thù ghét, dè bỉu, thằng
đó mà viết
cái gì, thí dụ.
MT, thấy bạn mình đi tù VC là coi như chết rồi, đi 1
đường thật
khốn nạn về người bạn thân nhất của mình. VP, lấy tiền Mẽo, viết về văn
học Mít
trước 1975, tại Miền Nam, bèn chơi xả láng đám ST, cho bõ lúc còn ở
ngoài
Trung, tụi mày làm Trời ở Sài Gòn!
"I permitted myself
everything except complaints"
“Tôi cho phép tôi tất cả, trừ phàn nàn”
Brodsky phán
Cả 1 dòng
văn học "chiến tranh" của Miền Nam sặc 1 mùi than van, thương thân
trách phận, nhược tiểu da vàng, con cờ của ngoại bang…. Chỉ
đến khi vô tù, hay ra được hải ngoại, thì
mới có tí tự hào về mình, nhưng cũng chỉ ngưng ở đó. Bài học tù VC
kể như
tiêu!
*
Cũng
không có gì đáng tiếc. Với nhà văn, có
khi gặp trên trang sách là đã đủ. Kinh nghiệm cho tôi thấy việc gặp gỡ
ngoài đời
ít khi thực sự có ích cho việc đọc văn của nhau. Những nhà văn
ngoài đời lớn
và đẹp hơn tác phẩm của chính họ thường, phần lớn, là các nhà văn loại
xoàng.
Những nhà văn lớn, thực sự lớn, thì thường lớn trong tác phẩm hơn là
trong cuộc
sống, do đó, những cái chúng ta thấy ngoài đời thường nhàn nhạt, có
khi, thậm
chí, nhạt thếch, so với những gì chúng ta đọc trên trang giấy. Dĩ
nhiên, tôi
không hoàn toàn phủ nhận tác dụng của các cuộc tiếp xúc. Chúng có thể
làm nảy nở
tình bạn hoặc gợi ra một số khía cạnh nào đó khi đọc. Nhưng chúng cũng
đầy bất
trắc. (1)
Nếu
đúng như thế, thì Gấu sợ rằng ngoài đời Thầy Kuốc không được đẹp trai
cho lắm,
vì tác phẩm của Thầy đâu thuộc hạng xoàng!
Thảo nào NXT đếch thèm bắt tay Gấu: Gặp làm gì thằng chó chết đó!
Đầy bất trắc!
Hà,
hà!
Bài viết của
Thầy thì cũng thuộc dạng “ai điếu”, nhân cái chết của 1 vì đàn anh về
tuổi đời,
bèn vin/vịn vào, để đi 1 đường tự đề cao mình.
[Thầy mới đi
thêm 1 đường "vịn xác chết" nữa, ở đây]
Văn chương
Thế Uyên ra sao thì cũng đã nhiều người nói rồi. Ông thuộc thứ mà
Barthes gọi
là người dùng văn, “écrivant”, sử dụng chữ viết cho những mục đích ở
bên ngoài
sáng tạo, “Nghĩ trong một xã hội tan rã”, thí dụ, không quá chú trọng
tới câu
chữ, khác thứ mà Barthes gọi là “écrivain”.
Văn Thế
Uyên, qua thời của ông, là trở nên lỗi thời.
Không chỉ
ông, mà rất nhiều tác giả Miền Nam cùng thời với ông, bây giờ, không
làm sao đọc
được nữa.
Ngay cả TTT, như 1 đấng bạn văn, rất thân với Gấu, đã
có thời
rất mê TTT, bây giờ phán, đọc lại, không thấy “phê” như hồi mới lớn
đọc
ông!
[Trong bài
viết dưới đây, hai tác giả nổi cộm, một Booker, một Nobel, giải thích
tại làm
sao mà họ vưỡn mê Flaubert, qua Madame
Bovary.
Barnes: Tui
quên không nhắc vị điều khiển chương trình, our moderator, là Mario đã
mê Emma
Bovary 40 hoặc 50 năm rồi.
Llosa:
Đúng
như thế, Tuyệt đối đúng như thế.
TV sẽ đi bài
này, tuyệt lắm. Một kinh nghiệm về đọc văn, viết văn, và mê gặp nhà
văn!]
Thích.
Dù phải nói
thật là không thích lắm! (1)
Vẫn cái giọng
khen 1 cú, thoi cho 1 cú: Người ta nói Võ Phiến chẻ sợi tóc làm tư,
nhưng tôi thấy,
lâu lâu, ông quên… chẻ!
Mai Thảo ư? Hồi đầu gặp ông, nghe ông phán về
thơ, đọc thơ,
hãi quá, sau hóa ra Người chỉ rành thơ tiền chiến!
*
Gặp làm chó
gì thằng chó đó!
Brodsky có
kinh nghiệm này rồi: Do cứ phải nhìn cái bản mặt của Lenin ở bất cứ mọi
nơi, mà
ông có được cái sự chán chường, ghẻ lạnh chế độ Liên Xô:
A writer's
biography is in his twists of language. I remember, for
instance, that when I was about ten or eleven it occurred to me that
Marx's dictum that "existence conditions consciousness"
was true only for as long as it takes consciousness to acquire
the art of estrangement; thereafter, consciousness.
....
All that had
very little to do with Lenin, whom, I suppose, I began to despise even
when I
was in the first grade-not so much because of his political philosophy
or
practice, about which at the age of seven I knew very little, but
because of
his omnipresent images which plagued almost every textbook, every class
wall,
postage stamps, money, and what not, depicting the man at various ages
and
stages of his life. There was baby Lenin, looking like a cherub in his
blond
curls. Then Lenin in his twenties and thirties, bald and uptight, with
that
meaningless expression on his face which could be mistaken for
anything, preferably
a sense of purpose. This face in some way haunts every Russian and
suggests
some sort of standard for human appearance because it is utterly
lacking in
character.
Brodsky: Less than one
Ui chao Gấu
cũng rơi đúng vô trường hợp… Lê-nin!
Đám đệ tử Thầy
Kuốc có lần mail chửi, tại làm sao mà mi lôi đầy hình ảnh mi, gia đình,
bạn bè lên trang… Tin
Văn?
Đừng nghĩ là
Gấu phịa!
Ai không biết,
nhưng riêng với Thầy Kuốc, vì Thầy hay khoe súng của Thầy, nên có 1 vị,
chỉ mong được gặp, coi có đúng như ‘văn kỳ thanh nhất kiến kỳ hình’!
[Nghe tiếng lâu rồi, đọc văn lâu rồi, bi giờ mới được gặp mặt].
Vị này,
chắc cũng nhiều người biết, nhất là độc giả talawas.
“Văn kỳ
thanh…” Ui chao lại nhớ BVCC: Lần đầu gặp tác giả “Cơ Hội Của Chúa” ở
Hà Nội,
anh mượn câu nói cổ xưa đó, để welcome Gấu.
Nhưng anh nói
thêm, phê bình thì “em” thua, viết văn, viết tiểu thuyết, thí dụ, thì
nhường đàn
em 1 tí nhé!
Chú
thích hình: Từ trái qua phải: Nguyễn Thanh Sơn, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn
Quốc Trụ, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, buổi tối tại quán cà phê
Rendez-vous (Điểm Hẹn) bên Bờ Hồ Hà Nội (tháng Sáu 2001).
@ Bảo
Ninh,
6/2001
Quách
Thoại by LHP
Bài thổi NXT
của Đặng Tiến thật tuyệt (1), nhưng cũng thật hỏng, là vì ông
này cũng bị vết thương
di tản như PD: Người bỏ chạy cuộc chiến, nhờ ưu đãi của VNCH, và trong
thâm tâm, thì lại rất mê VC, thành ra tìm đủ mọi cách đưa thơ của NXT
vào cái dòng
suy tư đó.
Khốn nạn
nhất,
là so sánh thơ NXT với của Nguyễn Chí Thiện:
“Anh không thuộc loại người làm
thơ để ném vào sứ
quán.”
Nếu
nói về vinh danh, thứ hàng xịn, chỉ sau khi chết mới được hưởng, như
của Walter
Benjamin, thí dụ, (2), thì NXT, và ngay cả TTT, làm sao so được với NCT?
Nguyễn
Chí Thiện
Trong tôi còn lại chi? Gia
đình, bạn bè. Những bài thơ, chắc chắn rồi, đã được đọc, được ghi thầm.
Đúng một lúc nào đó, ký ức nhanh chóng bật dậy, đọc, cho mình tôi,
những bài thơ. Luôn luôn, ở đó, bạn sẽ gặp những tia sáng lạ. Thời gian
của điêu tàn làm mạnh thơ ca… cõi thơ êm đềm ngự trị bên trên sự bình
thản của vũ trụ."
Sự tương phản càng nổi
bật, khi so sánh những dòng thơ của một "ngục sĩ" Nguyễn Chí Thiện –
mộc mạc, chơn chất - với những dòng thơ của một sĩ quan cải tạo như
Nguyễn Xuân Thiệp trong "Tôi Cùng Gió Mùa". Như "hắn" và ông Thanh Vân,
‘mỗi người một mặt bằng khác nhau’, số phận của Nguyễn Chí Thiện nghiệt
ngã hơn nhiều: ông từ chối những chói lòa của thơ văn cách mạng, từ
chối làm cai tù, chấp nhận làm ngục sĩ liên miên. Ông đâu biết trút nỗi
đau của ông vào đâu, nên đành cứ nhè ông Hồ mà "vạc", nhè chế độ mà
"chửi", rồi quăng vào tòa đại sứ, hy vọng những lời chửi của ông vọng
tới thế giới bên ngoài. "Tã trắng thắng cờ hồng", một ẩn dụ thơ như thế
là từ đời sống mà ra. Hy vọng "tã trắng thắng cờ hồng" của ông, là
trông vào một Miền Nam ông chưa từng biết tới. Hãy nhớ lại nỗi đau của
ông, khi nghe tin Miền Nam thất trận.
Còn những dòng thơ nhẹ
nhàng, thanh thoát của Nguyễn Xuân Thiệp, là do đằng sau ông có cả một
đồng đội, cả một chân lý, lẽ phải, chính nghĩa mà chỉ khi vào tù ông
mới có được. (Hãy nhớ lại giấc mơ của "nhân loại", khi Cộng Sản Miền
Bắc còn che giấu được mục đích chiếm đoạt Miền Nam, bằng cuộc kháng
chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước, thống nhất hai miền: Mơ sáng ngủ
dậy, thấy biến thành người Việt!)
Văn nào, thơ nào? Ngay cả
những dòng thơ của Paul Celan mà còn bị lạm dụng. Nhưng đây không phải
lỗi của ông, như nhà thơ Auden đã từng nói: "Không một thi sĩ nào có
thể ngăn cấm, thơ của mình bị người đời sử dụng như là một trò phù
thuỷ." Bài thơ "Điệu Tango của Thần Chết" của Celan, sau chiến tranh,
đã đem đến cho người Đức một niềm khuây khỏa lớn lao, kỳ diệu, chẳng
thua gì câu chuyện "khôi hài đen", một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành
cùng lúc đó: "Người Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do
Thái về Auschwitz!". Chính vì thế, mà Adorno cảnh cáo tiếp: Hãy coi
chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ
thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia có thêm sự huyền
nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability –
(Phỏng vấn G. Steiner). Đây cũng là lý do tại sao những vần thơ mộc mạc
của Nguyễn Chí Thiện vẫn chuyển tải được Cơn Kinh Hoàng của thế kỷ: nó
vẫn còn đúng với thực tại Việt Nam:
Còn Đảng là còn Khổ,
Hết Đảng là có Phở!
NQT đọc CKN2000 (1)
(2)
Walter
Benjamin
Giả dụ đường đời bằng phẳng: chuyện đời sẽ khác hẳn, nếu những kẻ chiến
thắng
trong cái chết, là những kẻ thành công trong cuộc đời (How different
everything
would have been "if they had been victorious in life who have won
victory
in death"). Danh vọng muộn, một điều chi rất ư kỳ cục, cho nên không
thể
trách cứ, rằng không có mắt xanh (người đời mù hết), hay là chuyện
chiếu trên
chiếu dưới, xôi thịt, tham nhũng... trong "đám" nhà văn, "ô nhiễm"
trong "môi trường văn chương".
Bất tri tam bách: không thể coi, đây là phần thưởng cay đắng cho một kẻ
đi trước
thời của mình, như thể lịch sử là một chạy đua, người chạy nhanh nhất
đã mất
hút trước khi người đời kịp nhìn...
Ngược lại: Trước khi có danh vọng muộn, đã có tri âm, dù ít oi, giữa
những kẻ
ngang hàng. Khi Kafka mất vào năm 1924, sách của ông bán chừng vài trăm
cuốn,
nhưng với bạn văn và một ít độc giả, qua mớ tản mạn này (chưa có một
cuốn tiểu
thuyết nào của Kafka được xuất bản): không nghi ngờ chi, đây là một
trong những
bậc thầy của văn xuôi hiện đại. Walter Benjamin cũng được vinh dự này.
Bertolt
Brecht, khi được tin ông mất, đã tuyên bố: đây là tổn thất thực, thứ
nhất, mà
Lò Thiêu đã gây ra cho văn chương Đức.
Hannah Arendt
They exiled
me to the heart of the jungle
Wishing to
fertilise the manioc with my remains.
I turned
into an expert hunter
And came out
full of snake wisdom and rhino fierceness.
They sank me
into the ocean
Wishing me
to remain in the depths.
I became a
deep sea diver
And came up
covered with scintillating pearls.
Chúng đầy
tôi tới đáy rừng
Hẳn là chúng
chắc mẩm cái thân tàn của tôi sẽ trở thành phân bón sắn
Tôi biến
mình thành 1 tên thợ săn siêu phàm
Có được sự
khôn ngoan của loài rắn, và sức mãnh liệt của loài tê giác
Chúng dìm
tôi xuống đáy biển sâu
Và cứ mãi dưới
đó.
Tôi biến
thành một anh thợ lặn
Và khi trồi
lên mặt biển, thì là với một mớ ngọc trai lấp lánh.
NXT làm sao
mà làm được thứ thơ này. Đó là sự thực. Trong chiến tranh, ông không
thực
sự lâm chiến. Chỉ đến khi vô tù VC, thì ông mới có dịp gần gụi cuộc đời
bụi bặm
tù đầy. Nhờ vậy mà có những dòng thơ thực.
Trước đó, ở Miền Nam, và sau đó, ở Mẽo,
ông trở lại với thứ thơ của ông, có từ khi còn trẻ:
“Mấy dặm cát
vàng duyên nối tiếp
Đôi bờ sông
rộng mặc ai đưa
Tôi đâu dám
bảo Trường giang hẹp
Chỉ hẹn muôn
năm với bến bờ
Đêm ấy người
đi sương xuống lạnh
Trăng mùa tiễn
biệt sáng mông lung
Ai tiễn ta
qua vài bến nước
Với hai sào
gió bốn sào trăng
Ai tiễn ta
rơi vài giọt lệ
Lệ chảy đầy
trong đôi mắt trong
Quấn bàn tay
lạnh trong tà áo
Từ nay xa
cách mấy con sông” (1)
Nhưng, cùng
với thời gian, và tuổi già, và xa xứ, ở hải ngoại, chúng tệ đi nhiều.
Nên nhớ, trước
khi có những dòng thơ tù, không ai biết những dòng thơ của NXT, như
trên, đẹp
như mơ. Chỉ đến khi có những dòng thơ tù, và phải 1 con mắt phê bình
bậc Thầy,
và phải có cái tấm lòng “nhị nguyên”, “là Ngụy nhưng đếch phải là Ngụy”
như Đặng
Tiến, thì mới đọc ra.
Thoại's
Summer
Bài thổi NXT
của Đặng Tiến thật tuyệt (1), nhưng cũng thật hỏng, là vì ông
này cũng bị vết thương
di tản như PD: Người bỏ chạy cuộc chiến, nhờ ưu đãi của VNCH, và trong
thâm tâm, thì lại rất mê VC, thành ra tìm đủ mọi cách đưa thơ của NXT
vào cái dòng
suy tư đó.
Khốn nạn nhất,
là so sánh thơ NXT với của Nguyễn Chí Thiện:
“Anh không thuộc loại người làm
thơ để ném vào sứ
quán.”
Nhìn
1 cách nào đó, thơ của NCT đúng là thứ thơ làm ở hậu môn của thế giới,
theo ý của
Milosz.
Nhà thơ Solzhenitsyn của xứ Mít cũng có 1 bài thơ nói lên đúng cái ý
của
Milosz, viết về cái cảnh, ở trong tù VC, đúng ngày sinh nhật rởm của
HCM, cả
miền Bắc tưng bừng làm thơ nhớ Bác, thì ông bèn đi ỉa, và kệ cha Bác.
Nhưng,
đẩy quá lên 1 chút nữa, thì chính những dòng thơ thanh thoát của NXT,
những bài
hay nhất được ĐT xưng tụng, là cũng được làm ở nhà tù VC, và với riêng
Gấu, ông
chỉ có được những bài đó, nó nằm kế bên những dòng của TTT, Thơ
ở Đâu Xa, của Tô Thùy Yên, Ta Về.
Để
giải đáp vấn nạn này, ngoài "Anus Mundi" của
Milosz, còn câu phán của Cioran, trong bài viết về Paul Celan:
Là đặc
quyền, hay
là trù ẻo, khi bị bất hạnh lọc ra?
It
is a privilege or a curse to be marked by misfortune?
Is it a privilege or a
curse to be marked by misfortune? Both at once. This double face
defines tragedy. So Celan was a figure, a tragic being. And for that he
is for us somewhat more than a poet . (2)
Thơ
Paul Celan thật khó đọc, và khó dịch. Gấu mua cuốn trên, phần lớn là do
những
bài viết về ông, và có ý định nhẩn nha dịch.
Bài "Với
Paul Celan",
" For Paul Celan", của Andrea Zanzoto, đặt ra vấn nạn Celan quá vấn nạn
Lò Thiêu:
Với bất cứ ai, và đặc biệt với một người làm thơ, tiếp cận thơ Celan,
ngay cả
trong bản dịch, tản mạn, từng khúc, từng đoạn, thì đúng là 1 kinh
nghiệm tả
tơi, shattering experience. Ông bày ra, represents, một sự thực
hiện, the
realization, của một điều gì có vẻ vô phương, bất khả, that seemed
impossble:
Không chỉ là không thể làm thơ sau Auschwitz, mà còn là, viết "ở bên
trong", "within" những tro than đó, để tới 1 thứ thơ ca
khác....
Đây cũng là
1 bài viết thật tuyệt vời về thơ sau Lò Thiêu, Lò Cải Tạo. TV nhẩn nha
sẽ chơi
hết, vì là những bài ngắn, nhưng quá cô đọng, của toàn những bậc thầy.
Bởi là vì chỉ có cách đó, mới mở ra được 1 con đường cho thơ Mít: Bắt
buộc nhà
thơ Mít, làm thơ khác đi, cùng lúc giới thiệu những dòng thơ thế giới,
cho độc
giả Mít, có cái để mà đọc, thay vì đọc toàn thứ nhai đi nhai lại đến
“rách cả
bã”, là thứ tản mạn bên ly cà phê, hay, “nay trong thánh nữ có đời
tôi”,
thí dụ!
Hà, hà!
TTT làm được
thơ trong Trại Tù VC, trở lại được với thơ, đúng hơn, nhưng khi về đời,
ra hải
ngoại, hết làm được thơ nữa, và ông tự hỏi chính mình: [Làm sao]
viết như thể không có gì
xẩy ra?
Làm sao đến
được 1 thứ thơ ca khác?
Đó là điều trang TV đang
làm: Đến được thứ thơ ca khác, khác hẳn thơ Mít.
Lại tự thổi!
Không phải,
đây là điều mà độc giả TV mong muốn, đòi hỏi:
Kính gửi
đến ông vài lời,
sau khi làm độc giả thường nhật của tanvien.net hơn một năm nay. Bởi
quá thích, mục "Thơ mỗi ngày", nên hôm nay mới đánh bạo viết mấy dòng
gửi ông, để cám ơn những gì mà một mình ông làm, kiến tạo và duy trì
hào hứng trang web này trong suốt thời gian qua.
Kính chúc ông viết hăng mỗi ngày, và qua việc viết, sẽ đem đến cho đời
ông, và độc giả những chất liệu và phương thức
sống, đọc & viết tươi mới mãi. (3)
Tks again.
Many Tks
NQT
Tôi
cùng gió mùa
Lần xb Lần
Cuối Sài Gòn, Gấu qua Cali, lần đầu, hẹn gặp ông chủ Văn Mới,
tại
Cà Phê Factory, và khi ông từ LA xuống, Gấu ký tặng sách tất cả bằng
hữu giang hồ
có mặt, đa số Gấu đâu có quen. Bà xã NMG nói, anh in sách còn là để bán
nữa chứ,
tặng thế, còn đâu người mua. NMG bèn đi 1 đường ra mắt sách tại tòa
soạn, mục đích để cho vợ chồng Gấu có tí tiền còm, khi về lại Toronto,
phụ tiền mua giấy máy bay!
Sau đó, lại tìm đủ mọi
cách gửi cho bằng hữu không
quen trên chốn giang hồ, như nhà thơ TQ, ở Úc, NXT ở Texas.
Lúc đó, Gấu còn ôm ấp giấc
mộng lớn, được làm bạn với tất cả bạn văn Mít hải ngoại, để cùng xúm
lại vá cái bản đồ Mít 1/1 rách bươm như bướm!
Hà, hà!
*
Anh
Tru than,
Vua nhan duoc sach. Cam on anh
nhieu. Doc
truyen "Lan cuoi, Saigon" thay ngam
ngui. Anh hoi nho Hong Lam va anh Nhan khong, nho lam, anh Nhan
da bi
ban chet
sau 2 thang GIAI PHONG.
Du Tu Le cung hoi nhu vay.
September 12
nay Du Tu Le sang toi de cung ra mat sach mot lan.
Anh nho
NGUYEN TUONG GIANG (Tap San Van Chuong ) khong ? Da gap lai chua ? Luc
truoc o Boston bay gio don xuong Virginia
cho gan DINH CUONG.
Chu tieng viet anh dung bo chu nao ? De
lan toi danh chu tieng viet co bo dau cho de doc.
Cho toi dia chi cua anh de gui sach va CD cua toi.
Than NTK
Thường
Quán
& Phạm Phú Minh
Anh NQT quí
mến,
Vừa nhận được Lần Cuối Sài Gòn
trưa nay. Đọc trên chuyến xe lửa từ nhà trở lại sở. Đọc thích
thú. Đọc chia sẻ. Và đọc, không biết tại sao, lại rất buồn, có lẽ những
thành
phố anh đang gợi lại đã vĩnh viễn ngoài chúng ta, có phải thế?
Hà Nội là một
chiếc bóng đằng sau Sài Gòn. Sài Gòn là một chiếc bóng đằng sau hiện
tại. Chữ gợi
lại chập chùng những bóng. Những người đã từng có mặt. Những chỗ ngồi.
Những
góc đường. Những tàng cây.
Mới cách đây
vài hôm, đọc lại Rilke, toàn bộ thư của Rilke và tập Duino Elegies, vẫn
còn bần
thần, vì nhận ra, quả là đúng, chúng ta vừa nhìn cái gì, là lập tức cái
ấy đã
là nội tại, là mất đi. Mọi thứ đều đã là Lần Cuối. Chúng ta tới đây,
như để có
mặt, một lần, nhìn, [hai chữ không rõ nghĩa], rồi qua đi.
Đọc mới xong
phần đầu của bút ký, và thơ, đã đầy cả Sài Gòn của một thời kỳ kỳ lạ,
tan
hoang, lãng mạn, đổ vỡ, và bi tráng của nó.
Cám ơn anh
đã gửi sách. Đã cho một buổi trưa [chấn động như nhìn xuống con nước
Thị Nghè,
trưa có mây - hay là “trưa cỏ may”?- chiều nhiệt đới, mù trắng xa xa
Thủ Đức].
Vài hàng viết
gấp kẻo anh trông, sợ sách có thể đi lạc.
Sẽ đọc tiếp Lần Cuối tối nay.
Anh vẫn viết mạnh. Mong anh mãi được vậy.
[1998]
TQ
Tôi Cùng Gió
Mùa, in dưới
bảng hiệu nhà xb Văn Học. Khi đó Gấu
làm công cho NMG, ông bèn thẩy cho một cuốn.
Thành thử chẳng có lời đề tặng.
Nhưng cái duyên văn nghệ nó lại mắc mớ đến tờ VHNT của PCL, mà trụ sở
của nó ở Texas.
Lần bà chủ báo lấy chồng, có mời vợ chồng Gấu.
Bèn quyết định đi dự, nhân tiện gặp NXT luôn. Khi đó anh làm một tờ báo
văn học
[Phố Văn?] và Gấu có gửi bài đăng.
Nhưng chuyến đi phải huỷ, vào phút chót, vì cái dịch cúm gà cúm vịt gì
đó, phát
tác tại thành phố Gấu đang ở.
Đi, chẳng lẽ mang virus theo, gieo họa cho bè bạn ?
Giả như trong đám cưới, có người biết, trong số khách mời có người đến
từ
"thành phố bị vây hãm", làm sao họ dám tới dự?
*
Vì vậy, gọi là bạn, cũng hơi cường điệu.
Nhưng thực sự, Gấu tin, NXT coi Gấu là bạn.
Ấy là vì một cái thư anh gửi, cám ơn, khi nhận được cuốn sách Gấu gửi
tặng. Lời
lẽ trong thư khiến Gấu tin như vậy.
*
Bạn văn. Dựa hơi bạn bè.
Sao nghe cứ ra dựa lưng nỗi chết?
Tình trạng
của Gấu mới thảm. Hồi mới lớn, mê văn chương, chưa ghê bằng mê bạn.
Hoặc hai cái mê đó là một.
Thế rồi, gặp thảm họa, rớt xuống bùn đen. Mấy ông bạn quí mừng quá!
*
Cái cay đắng của mấy đấng bạn thân, bạn quí, bạn hiếm của Gấu, về già
Gấu hiểu
ra được, nhân một ông cũng tốt nghiệp cử nhân triết, Đại học Văn Khoa
Sài Gòn,
phán, Gấu không phải thuộc lớp khoa bảng [như ông ta?].
Đó là do họ đều học triết, và đều nghĩ, chỉ có họ mới có quyền nói về
triết, về
hiện sinh, về phận người, về Camus, về Sartre...
Mấy ông Mít học trường Tây, thì lại nghĩ khác: Mày có biết tiếng Tây
không đấy,
mà đòi đọc?
*
Ông anh nhà thơ của Gấu chẳng đã từng thực sự ngạc nhiên, khi nghe Gấu
nói, mê
cuốn Buồn Nôn của Sartre, và
đã từng bật cười khi nghe thằng em hét: Sẽ viết về
thơ của ông anh.
-Ừ thì viết đi!
Nhưng với ông, là vấn đề 'ngộ' hay không 'ngộ', một tư tưởng triết học.
Một cõi
thơ.
Hiểu, với ông, có nghĩa là đốn ngộ, là... mặc khải!
*
Thành thử, về già, gật gù nói, thằng đó bạn tao, nó khác rất nhiều, so
với khi
còn trẻ.
*
Note:
Thổi đến như thế, dù chưa từng gặp. Thế mà gặp, đếch thèm bắt tay.
Đau dế thực!
NQT
Đau, chưa bằng
ông anh.
Làm thơ tặng
bạn. Chết rồi, bị em tung hê thư riêng lên net, rồi lại bị chính ông
bạn của mình
“xì” 1 phát, tưởng đàng hoàng, đâu ngờ cũng bồ nhí, bồ nhiếc!
Trang Thơ Mỗi
Ngày, sở dĩ có, là cũng từ giấc mơ lớn - được làm bạn với tất cả các
bạn văn Mít
– không thành, mà ra: Bởi là vì làm đếch gì có thi sĩ Mít?
Giả như có,
thì cũng toàn đồ dởm! (1)
Thay vì Gấu được
làm bạn với những đấng thi sĩ Mít này, nọ, thì làm sao cho độc giả Mít
được làm
bạn với thi sĩ của thế giới, của loài người, với những
nhà thơ mũi lõ, da không vàng, hoặc vàng
mà không phải Mít.
Nói rõ hơn, đây là giấc
đại mộng, “đổi hẳn thơ Mít”, của Gấu!
Đúng là già rồi, mà đếch
chịu hiền đi để mà chết, hà, hà!
(1) Để “hiểu
câu của Gấu”, phải đọc ý của Milosz, khi viết về Brodsky, sau đây.
Đại lượng, rộng
lượng, là 1 trong những nét lớn của ông, generosity was one of his
traits. Bạn
bè của ông luôn cảm thấy, gặp ông là 1 đại hội, đồ biếu tới tấp, his
friends
always felt showered with gifts. Ông luôn luôn sẵn sàng để "help",
giúp, bất cứ
lúc nào, để tổ chức, organize, sắp xếp, to manage things. Nhưng trên
tất cả, để
xưng tụng, để thổi bạn, to praise.
Sự rộng lượng của ông hiển hiện rõ
ràng nhất,
ở trong Trò chuyện với Brodsky,
của Volkov, về Akhmatova. Qua xưng tụng của
Brodsky, bà mới vĩ đại, minh triết, wisdom, dịu dàng, và trái tim mới
lớn lao
làm sao!
Với ông, sự vĩ đại của 1 nhà thơ thì không thể tách ra khỏi sự vĩ đại,
như 1 con người!
Tuyệt!
Trên Tin Văn
đã từng trang trọng giới thiệu thơ NXT
Lần mới qua Cali, có gặp ông.
Gấu ngồi bàn với ai… nhỉ,
quên mất, ông ghé bắt tay ông bạn ngồi cùng bàn, nhưng
vờ Gấu!
Cũng được.
Quá được là đàng khác!
NQT
Note: Lâu lắm,
mới đọc được 1 bài tản mạn NXT có tí muối.
Nhận xét của QT về NXT
("Văn anh viết như giọng văn Thạch Lam... ")
theo
Gấu chỉ đúng ở bề mặt. Thạch Lam có những truyện ngắn tới được cõi "mê
ta" [méta, như trong métaphysique] như Sợi
Tóc, chẳng hạn.
Chút muối,
những hạt muối ném xuống những hàng chữ ở "Mùa Hè Của Thoại", là những
kỷ niệm có
thực, và thực là đẹp, giữa QT, DC, và NXT.
Giá mà tay này
bớt làm dáng, bớt “dandy” đi, thì đọc được.
NQT
Note: Bạn có thể
hiểu từ “mê ta” này, theo nghĩa tiếng Mít, dịch ngược trở lại, thì nó
hàm chứa
hai từ, “narcissism” và “dandy”: Văn của NXT có cả hai chất này.
Thì cứ quanh
quẩn bên ly cà phê, lèm bèm hoài, thành nhàm, thành nhạt.
Between
Two Worlds
Brodsky ventures,
"American poetry is essentially Virgilian, which is to say
contemplative."
Trong bài diễn văn Nobel, Brodsky lập lại câu
hỏi của Adorno, "Làm sao một người có thể làm thơ sau Lò Thiêu?", và
viết tiếp:
Một người nào quen thuộc với lịch sử Nga, có thể lập lại câu hỏi trên,
bằng cách thay tên Auschwitz bằng 1 cái tên khác, và sự chứng thực,
justification, còn bảnh hơn, even greater, Auschwitz, bởi vì con số
những người chết trong trại tù Stalin vượt quá hơn nhiều, so với Lò
Thiêu, hay, như nhà thơ Mẽo, Mark Strand, đã từng chặn họng, retorted,
Adorno: “Làm sao một người có thể ăn trưa [sau Lò Thiêu]?”
Trong bất cứ trường hợp,
thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về, thừa sức làm thứ thơ đó [that poetry].
Thơ ca Mít, nhất là đám Miền Nam sau 1975, đụng đúng cú này, và TTT trả
lời, “đếch” làm được:
Làm sao làm thơ, coi như đếch có gì xẩy ra?
LIFE
SENTENCE
Those
sufferings are over.
No crying
anymore.
In an old
album
you look at
the face of a Jewish child
fifteen
minutes before it dies.
Your eyes
are dry.
You put the
kettle on,
drink tea,
eat an apple
You'll live.
Án Chung
Thân
Những nỗi
đau khổ đó thì xong rồi
Không khóc
lóc nữa.
Trong một cuốn
album cũ
bạn nhìn vô
mặt một đứa bé Do Thái
15 phút trước
khi nó chết
Mắt bạn khô
queo.
Bạn đặt cái ấm
nước lên,
uống trà,
ăn 1 trái
táo
Bạn sẽ sống.
GOOD
FRIDAY IN THE TUNNELS
OF THE METRO
Jews of various religions meet
in the tunnels of the Metro, rosary beads
spilled from someone's tender fingers.
Above them priests sleep after
their Lenten supper,
above them the pyramids of synagogues and churches
stand like the rocks a glacier left behind.
I listened to the St.
Matthew Passion,
which transforms pain into beauty.
I read the Death Fugue by
Celan
transforming pain into beauty.
In the tunnels of the Metro no
transformation of pain,
it is there, it persists and is keen.
Thứ
Sáu Thiêng ở đường hầm Metro
Do Thái từ nhiều tôn giáo khác
nhau tụ tập
ở đường hầm Metro, những hạt màu hồng
tràn ra khỏi những ngón tay dịu dàng của một người nào đó.
Ở bên trên họ, những thầy tu
ngủ sau Bữa Ăn Tối Lenten
Ở bên trên họ, những tháp giáo đường, nhà thờ
đứng như những khối đá một băng hà để lại phía sau.
Tôi nghe St. Matthew
Passion,
Bản nhạc biến nỗi đau thành cái đẹp.
Tôi đọc Tẩu Khúc Của Thần
Chết của Celan
Bài thơ biến nỗi đau thành cái đẹp
Ở
nơi đường hầm Metro không
có sự biến hóa nỗi đau,
nó ở đó, lì lợm, và gay gắt.
Adam
Zagajewski: Without End (1)
Mùa hè của
Thoại
Nguyễn Xuân Thiệp
Nhớ Quách Thoại. Thái Tuấn
Những cây phượng nở đỏ ven bờ sông
Hương, dọc theo hoàng thành.Tiếng ve kêu rợp những khu vườn, như một
dàn đại hợp xướng, vừa mới lặng tiếng ở một nơi này, bỗng lại bùng lên
ở một góc khác, một khu vườn khác.
Đó là mùa hè ở Huế, qua đôi nét phác
thảo. Nhưng là một mùa hè đã xa, xa lắm. Năm mươi năm về trước lận. Tôi
gặp Quách Thoại lần đầu tiên mùa hè ấy. Xa, quả là quá xa, vậy mà tưởng
như vừa mới đây thôi.
Ngày ấy, Quách Thoại từ Sài Gòn về
Huế, quê hương anh, định ẩn cư với đá và cây cùng chim muông trong
vườn. Tôi gặp Thoại qua một người bạn, không nhớ rõ là ai. Thoại ăn mặc
đẹp, dáng vẻ một dandy kiểu Baudelaire. Complet màu beige, mũ feutre.
Tôi thì hãy còn là học sinh, đi chiếc xe đạp đàn ông hiệu Saint-Etienne
sơn đen, có một cái chuông rất lớn, một porte-bagage rất chắc. Những
bài thơ, một vài tùy bút và truyện ngắn đầu tiên, hãy còn non dại lắm,
đăng trên Đời Mới, Thẩm Mỹ, dưới bút hiệu Châu Liêm... gây được sự chú
ý ở bạn bè xa gần. Đinh Cường, Tô Thùy Yên, Minh Đăng Khánh, Trần Lê
Nguyễn, và Quách Thoại.
Thoại về Huế năm ấy, như đã nói, vào
dạo hè. Mùa hè nóng như một cơn điên màu đỏ, nhưng có lúc chợt lãng
đãng trong màu tím trôi trên sông. Ngồi ở đây, một thành phố miền Trung
Mỹ, mà tôi như còn thấy lại hình ảnh Quách Thoại. Dáng anh cao,
nghiêng, chiếc mũ dạ cũng nghiêng theo chiều gió, bước qua cầu, nhìn
những lá đò trôi trên sông và dãy núi xa, mờ.
Một buổi chiều, chúng tôi họp mặt ở
nhà anh Thái bên An Cựu, uống trà và nói chuyện thơ. Lần đầu tiên tôi
được nghe Như Băng Trường Tình của Quách Thoại. Như Băng, một thời là
người Thoại yêu, sau ẩn mình trong tu viện. Như Băng ơi, vì đâu mà
lệ ứa, Ta khóc than nghĩ tủi phận đời ta... Chúng tôi kéo
nhau đi ăn bánh bèo dưới chân núi Ngự. Thoại vui, nói chuyện có duyên.
Anh có vẻ xanh, gầy, nhưng trong và sáng. Cuối buổi đi chơi, tôi chở
Quách Thoại về miệt Bãi Dâu, trên chiếc xe đạp cổ lỗ sĩ của tôi. Thoại
ngồi sau xe, lật tờ Đời Mới có đăng bài tôi, nói: "Văn anh viết như
giọng văn Thạch Lam... ". Thời trẻ dại ấy, được nghe lời khen đó, tôi
sướng lắm. Tôi chở Thoại tới nơi anh ẩn cư. Giường anh nằm giữa hai dãy
giường dài, chung quanh cũng là những người gầy xanh như Thoại. Thì ra
đây là nơi cho những người đau dưỡng bệnh.
Sau 1956, gặp lại Quách Thoại ở Sài
Gòn. Quán cà phê hè phố Kim Sơn. Trên đường Catinat. Anh trông gầy và
xơ xác đi nhiều lắm. Nhưng đôi mắt lấp lánh. Đây là thời của anh và các
bạn. Thời tạp chí Sáng Tạo. Rồi ít lâu sau, anh mất. Với tôi, hình ảnh
đẹp nhất của anh không phải là trên hè phố Sài Gòn. Mà là bên bờ sông
Hương ở Huế. Và trong thơ:
Quách Thoại đi
giữa lòng cuộc đời
còn sót
lẻ loi
một bông
thược dược
NXT
|