20-08-2012 | VĂN HỌC
Nhà Thơ
Quách Thoại
LÝ
HOÀNG PHONG
Nhà thơ Quách Thoại tên khai sinh là Đoàn
Thoại, sinh năm 1930 ở Huế, mất ở Sài Gòn
năm 1957 sau một thời gian dài bệnh tật. Thơ ông xuất hiện nhiều nhất
trên các tờ
Người Việt, Sáng Tạo, Thế kỷ Hai Mươi, là mấy tờ báo xuất bản ở Sài
Gòn, vài
ba năm trước khi mất. Trước đấy ông có bài đăng trên các tờ Đoàn Kết,
Làm Dân. Ông cũng chỉ thật sự được nhắc đến nhiều sau khi mất, nhất là
mất
trong bệnh viện thí Hồng Bàng.
Thi phẩm đầu của ông,
Giữa Lòng Cuộc Đời,
cũng chỉ được in ra vào tháng 6 năm 1963, gần
6 năm sau khi ông qua đời, nhân một người anh, nhà văn Lý Hoàng Phong,
lúc ấy là chủ nhiệm tờ Tạp chí Văn Nghệ. Bài này đôi chỗ gọi Thoại là
Nó
là bởi Lý Hoàng Phong, tên thật là Đoàn Tường - cũng mới quá cố ở Sài
Gòn - là
anh ruột của thi sĩ.
Bài viết cũng nhằm cho độc giả thấy Quách
Thoại được gia đình săn sóc tận tâm, nhưng
đã chết nơi công cộng vì chính thi sĩ đã quá khao khát cuộc đời, không
thể nằm
chờ chết một chỗ, luôn trốn bệnh xá ra ngoài lang thang đây đó.
Quách Thoại
sở trường trong loại thơ nói, thơ Tự Do, và có những bài nổi tiếng như:
Còn
Sáng tạo Ta hãy còn sáng tạo, Như Băng Trường Tình, Trăng Thiếu Phụ.
1. Thành Phố
Huế

Nhà thơ Quách Thoại (1930-1957)
Thành phố
chìm đắm giữa thiên nhiên. Con sông thanh mát trôi lững lờ, những triền
núi
xanh lơ chạy dài vây quanh mảnh đồng bằng nhỏ, những con đường đất leo
lên những
ngọn đồi êm ả giữa những rặng thông yên lặng, những ngọn đồi trơ trụi,
chơ vơ,
những cánh đồng và biển, biển khơi mù xa. Ấy là thành phố của những đêm
trăng
mông lung đầy ảo mộng, trăng trên trời, trăng trên sông, anh đứng trên
cầu và
nhìn xuống lòng sông in vằng vặc vành trăng, bầu trời và những cuộn mây
trắng nổi
lên về phía núi, trăng trên những con đường vắng lặng, trăng trong
những khu vườn
đầy bóng cây, bóng lá, trăng trên núi xanh, bầu trời gần trên đầu và
mây bay
chung quanh, trăng trên bờ biển, bãi cát vàng, những ngọn sóng trắng
xóa.
Ấy là thành
phố của những cô gái áo trắng, những cô gái của những dáng đi đẹp lạ,
những
dáng đi đài các, trang trọng, bình thản, những cô gái của những đôi mắt
lặng lẽ,
dò hỏi, nhiều ước mơ, những cô gái đội nón đi qua cầu tay cầm vạt áo,
những cô
gái ngồi trên đò qua sông, những cô gái ngồi bên cửa sổ, thấp thoáng
trong vườn
nhà. Ấy là thành phố mà mọi người đều biết nhau, thành phố của những
học sinh
và những công chức đi xe đạp, thành phố của những người nói thầm, thành
phố của
những dục vọng yếu đuối, nhỏ nhặt, thành phố của những ông vua mất
ngôi, của những
người quý phái sa đọa, của những ông quan có hầu, thành phố của đời
sống gia
đình với những ngày giỗ, với những xích mích giữa bà con, thành phố của
những
bà mẹ lo cho con đỗ đạt rồi lo kiếm vợ cho con, thành phố của những sự
đam mê vụng
trộm, lén lút, thành phố của những người thích nói chuyện văn chương và
tôn
giáo, của những chùa chiền và những nhà thờ, của những mơ tưởng siêu
thoát và
những giả dối vụn vặt, thành phố của những tình yêu lãng mạn, của đời
sống tẹp
nhẹp và những ước mộng lớn lao. Đó là quê hương của Quách Thoại.
2. Gia Đình,
Bạn Hữu, Lý Tưởng
Người cha là
một công-chức nghèo. Người mẹ hay đau yếu. Một gia đình đông con. Người
cha có
người anh ruột đi làm quan ở một tỉnh miền ngoài, không có con, xin cho
Thoại
đi theo.
Thoại rời gia-đình
từ hồi 6, 7 tuổi. Đến năm 10 tuổi, gia đình đòi Thoại trở về. Năm học
lớp nhất,
Thoại có một ông thầy dạy là con một lãnh tụ cách mạng xuất dương ở
Nhật. Ông
này đưa Thoại gần gũi với mấy người làm chính trị thường lui lại nơi
nhà cụ
Phan Bội Châu.
Từ ngày ấy,
Thoại mơ những chuyện cách-mạng, chuyện tự do, độc lập, chuyện đánh
đuổi quân
thù, những mộng tưởng óng vàng của thiếu niên, của lòng yêu nước đẹp
như tình
yêu, của lòng hy sinh chảy mạnh trong dòng máu, của tình dân tộc ngào
ngạt như
lúa thơm.
Và chuyện
cách mạng đã đến thật, chuyện đánh đuổi quân thù đã đến thật, ngay
liền, nhưng
không phải như người ta đã mơ tưởng. Sau những tiếng chiêng, tiếng
trống, những
tiếng hò reo cổ võ là những lừa dối, những tranh giành, những chém giết
hằn học,
hèn nhát, những cuộc đánh lộn chửi rủa giữa những tư- tưởng, những lý
thuyết đủ
thứ, và cái không khí gạt gẫm, nghi kỵ, dò xét, cái không khí soi mói,
hăm dọa,
phân chia, luồn lọt, bao vây, ám ảnh khắp nơi, anh không kịp suy-nghĩ,
không kịp
nhận định, cuộc đời bủa vây anh chớp nhoáng, lôi cuốn anh vào trong cơn
giông
bão, và anh bị xô đẩy đi, xô đẩy đi.
Đấy là lúc
thành phố sống trong sự bàng hoàng, sôi sục, trong những lo âu chập
chờn. Những
gia-đình công-chức sống với đồng lương hàng tháng, bỗng nhiên người cha
bị thất
nghiệp, chỉ còn biết bán áo, bán quần, bán giường, bán tủ cho những
người nhà
quê lên mua. Người nông dân bán lúa đem tiền lên chợ đổi lấy cái áo gấm
hoa lòe
loẹt của ông quan mặc vào người. Những bà quan chạy ngược, chạy xuôi,
làm mứt,
làm bánh, đem đi bán kiếm tiền mua gạo. Những đứa con quên nghĩ đến
việc xin
phép cha mẹ đi thẳng đến đồn lính xin vào bộ đội. Chiều chiều những
chuyến tàu
đưa từ miền Nam về những tin tức chiến trường với những chiến sĩ chưa
đến tuổi
trưởng thành, những bộ mặt non tơ, những chiến sĩ bụi bặm, xanh xao,
hớt hải trở
về nhà thăm gia đình. Người con gái lấy vạt áo lau nước mắt, tất tả
chạy từ
trên ga về đến nhà và kêu lên, "Thằng Hai chết rồi má ơi!" và người mẹ
rụng rời.
Cũng những
chiếc tàu mang từ miền Bắc vào những tin tức đảng phái đấu tranh, đánh
giết
nhau. Đấy cũng là lúc những thanh niên không đi đánh giặc ớ nhà quây
quần nói
chuyện biện chứng duy vật, giai cấp đấu tranh "Các Mác nói", "Lê
Nin nói". Ban ngày những cuộc biểu tình rầm rộ, ban đêm những buổi hội
họp
thâu đêm. Anh đồng chí nhanh nhẩu dơ tay đứng dậy: "Tôi xin nói". Những
đoàn phụ nữ ngoại ô, áo trắng cụt, quần đen dài xăn lên đùi, sắp hàng
dậm chân
thình thịch tập đi một hai. Anh cán bộ mặt mày cạo gọt nhẵn nhụi, chị
cán bộ hớt
tóc ngắn như đàn ông, chải đầu bóng loáng, bận áo quần kaki chân mang
ghệt, vai
mang sắc-cốt song song bước đi lộp cộp ngoài đường. Có chị nông dân cắt
đầu trọc,
vừa đi gánh nước vừa hát nghêu ngao.
Giữa lúc cuộc
đời đang đổi lốt phũ phàng, như nghiêng ngả, như xiêu đổ, Thoại với 15
tuổi
trên đầu cảm thấy thất vọng, lạc lõng, Thoại không biết mình phải làm
gì, mình
phải đứng ở đâu. Trong lúc những người anh vừa rời ghế nhà trường bận
vào người
những bộ áo kaki, vác trên vai một khẩu súng rồi đi lên chiếc tàu hỏa
vào miền
Nam đánh giặc, Thoại thơ thẩn đến thư viện và đọc say mê những câu thơ
của
Tagore.
Vào hồi đó
Thoại gặp một thanh niên miền Nam theo một tôn-giáo mới đi ra Bắc và bị
mắc kẹt
ở đó không trở về Nam được nữa. Người bạn miền Nam nói chuyện tôn-giáo
với Thoại.
Hai người rủ nhau đến một thánh thất nằm trên bờ sông Hương về phía núi
để cùng
nhau tu hành tìm đạo.
Thánh thất
là một căn nhà nhỏ lợp tranh, nền đất, vách đất, quét vôi trắng ở giữa
một miếng
sân vuông vắn, đất cát trắng mịn với một vài bụi chuối, ít cây bưởi,
cây mít,
cây thanh trà, căn nhà nằm trên bờ cao, ở phía dưới là còn sông nước
xanh uốn
quanh lặng lờ, chung quanh là đồi núi chập chùng. Hai người bạn ăn
chay, ban
ngày đọc sách, nói chuyện đạo lý, nhìn trời, nhìn mây, nhìn sông, nhìn
núi, đêm
khuya họ ngồi trên chiếc chiếu trải dưới nền đất trước mặt cái bàn thờ
đặt giữa
căn nhà, họ ngồi thẳng, chân khoanh lại, hai cánh tay để thõng xuống,
hai bàn
tay cầm lấy nhau đặt ở trên bắp chân, họ nhìn lên ánh lửa đỏ của ngọn
nến độc
nhất đặt giữa bàn thờ, dìu tâm trí lại ẩn náu ở trong chính giữa con
người cho
được hoàn toàn yên tịnh để cho tâm thần và thể xác hòa hợp với nhau làm
một,
nuôi dưỡng cho nhau tìm về nơi nguồn cội của sự thật, ở đấy người ta
thấu hiểu
được mọi sự, không còn đau khổ nữa.
Trong đêm sâu,
hai người bạn bỗng nghe tiếng lá rụng trên sân như bước chân ai vươn
nhẹ. Họ đi
ra ngoài vườn nhìn cảnh trời đất chuyển mình. Sau những ngày say sưa
mùi đạo,
hai người bạn đi đến các chùa chiền thuyết lý với mấy nhà sư, đi về
những làng
mạc, qua tới những tỉnh lân cận tìm kiếm những bạn đồng chí, truyền bá
đức tin
sáng lóa của mình.
Nhưng không
bao lâu những cuồng vọng của lý-tưởng tan vỡ như những bọt sóng trên
dòng thác
lũ với tiếng súng của chiến tranh lan tràn. Sau một thời gian tản cư ở
một tỉnh
nhỏ, Thoại cùng gia đình trở về kinh đô. Thành phố sống nghẹt thở tù
hãm giữa
những chém giết, hãm hiếp, ám sát, tù đày. Cuộc đời bỗng nhiên biến
thành những
ngõ hẻm bế tắc mà mỗi người phải lựa chọn lấy một nhãn hiệu.
Người thực
dân hỏi: "Việt-Minh hay Việt-Nam", người Cộng-sản hỏi: "Cộng- sản
hay Tư-bản", người Quốc-gia hỏi: "Quốc-gia hay Cộng-sản".
Và anh phải
lựa chọn giữa những danh từ đó, anh không thể có một bộ mặt, một dấu
hiệu, một
con người nào khác nữa, anh không còn một nẻo giải thoát nào nữa, anh
không còn
một thiên đàng hay một địa ngục nào nữa. Tất cả đều đột ngột tan vỡ.
Tất cả đều
hỗn độn và mâu thuẫn. Tất cả trở thành phi lý. Nhưng mọi người đều phải
sống
cho đến khi chết.
3. Thoát Ly
Gia Đình: Sài Gòn
Người thanh
niên mơ đánh đuổi quân thù, mơ tự do, độc lập không còn thấy đâu là con
đường
chiến đấu, người tu hành ăn chay tìm đạo không còn biết đâu là tôn-giáo
của
mình. Thoại cảm thấy tất cả cái vô nghĩa của cuộc đời, Thoại nhìn thấy
tất cả bề
sâu của thất vọng.
Chỉ trong mấy
tháng trời. Thoại đã đi vào con đường sa lầy của trụy lạc. Thoại la cà
nơi những
tiệm hút của thành phố, chích vào người những ống "dolosal" mang vào
cổ cái nghiệp chướng của ma túy. Thu đến với những cơn mưa lất phất,
trời mây xuống
thấp bao phủ lấy sông núi, thành phố trong nỗi buồn não u uất, trong
nỗi bơ vơ
quạnh hiu của ngày tận thế. Thoại thơ thẩn trên những con đường phố,
xanh xao,
bơ phờ, thất lạc. Nó cố gắng tìm dò một phương hướng, gồm thu những
nghị lực
còn lại để nuôi dưỡng cho nó một tin tướng, một hy vọng cuối cùng. Nó
phải từ bỏ
cái thành phố đang giam hãm thể xác và linh hồn nó. Thoại vào Nam trên
một chiếc
xe hàng đi qua đường Lào.
Sài gòn là
thành phố của văn minh, của tiền bạc, của ông tây thực dân, của chú tàu
buôn
bán, thành phố của trật tự trong sáng và của hỗn tạp nhầy nhụa, thành
phố của
người giàu và người nghèo, của những bin-đinh và những xóm nhà lá,
thành phố của
tội lỗi, của những cuộc ăn chơi sa ngã, thành phố của nắng quanh năm và
không
có rét, thành phố không có thiên nhiên, thành phố của đời sống máy móc,
vô
tình, sống chết mặc ai.
Đấy là thành
phố của những con buôn chánh trị, của những người làm áp-phe, thành phố
của những
người cách mạng bị thủ tiêu, của những người làm chính trị xa-lông, của
những
nhà trí thức, những nhà tư bản ăn cơm tây, đi xe hoa kỳ, nói chuyện
thân kháng
chiến và vô sản, thành phố của những thanh niên sửa soạn đi học tây và
mơ tưởng
đến những cô đầm, của những thanh niên bỏ nhà đi bưng; ấy là thành phố
của những
cô gái bán thân, của những người ngoại tình, của những trai trẻ và
những ông
già sa ngã, thành phố của đời sống vật chất, của trộm cướp, của những
người tự
tử, những người bệnh hoạn, những người đâm chém nhau vì một câu nói,
những người
hiếp dâm, thành phố của những người lao động uống bia, chửi thề, nói
tục, ngủ
ghế bố và có mèo; ấy là thành phố của cuộc sống vội vã, lật đật trên
những chiếc
xe, thành phố của sự buôn bán, của sự gian lận, của sự mua chuộc, của
sự giành
giật, của sự làm giàu nhanh chóng, ấy là thành phố của những cuộc ăn
chơi ban
đêm, của những giải trí trường tấp nập, những người đánh bạc đứng chung
quanh
sòng bạc như những con ruồi bu trên miếng mở, những xóm chứa nhởn nhơ,
thập thò
người gái điếm, những tiệm nhảy bập bùng đèn xanh, đèn đỏ, những nhà
hút kín đảo,
yên lặng, xanh xao.
Thoại nhập
vào thành phố ấy với một ý muốn tự cứu, với mong ước tìm được một con
đường,
tranh đấu cho một tin tưởng. Nó đi đến với những "người quốc gia"
liên lạc với kháng chiến, nó gặp gỡ những tổ chức tôn-giáo, nó đi theo
một vài
người cách mạng độc lập, làm một tạp chí hàng tuần, viết cho một vài tờ
báo
hàng ngày. Nhưng kết cục tất cả chỉ là ảo tưởng. Nó không kiếm được một
chỗ đứng
ở bất cứ nơi nào. Không một ngọn cờ của chính nghĩa, không một ánh sáng
của một
ý thức hệ soi đường. Không một lối đi, không một an ủi, không một hy
vọng. Cuộc
đời mắc nghẽn vào trong những xiềng xích nặng nề, oan nghiệt, không lối
thoát.
Nó đã lỡ dấn thân vào con đường hư ảo hiểm nghèo của mộng tưởng.
Ngày hết,
bóng tối tỏa xuống trên thành phố. Thoại đi dọc theo những vỉa hè dài,
những vỉa
hè đường phố quen thuộc hằng ngày mà vẫn thấy xa lạ. Thoại thấy rằng nó
chỉ có
một mình ở giữa cuộc sống, một mình ở giữa cuộc đời một mình với những
khát vọng,
những thất vọng không nguôi. Nó chỉ có một mình, một mình trơ trụi, vì
nó đã mất
tất cả, tất cả cuộc đời, sự thật, tổ quốc, tôn-giáo, gia-đình, hy vọng,
tình
yêu.
Thoại dừng lại,
châm một điếu thuốc rồi lại bước đi trong thành phố đã lên đèn. Tâm hồn
nó lắng
lại trong bóng sáng ấm cúng, dịu dàng, mát mẻ của con đường. Nó bỗng
chợt thấy
cuộc đời có một hình ảnh, một giáng điệu, một khuôn mặt lạ lùng bí mật
và ở giữa
sự sống đau khổ, hỗn-loạn, tối tăm, phi lý, tuyệt vọng, thấp thoáng một
bàn tay
vô hình, trong người nó mở ra một thế-giới và ở đó nó có thể lấy lại
tất cả, cuộc
đời, sự thật, tổ quốc, tình yêu, gia đinh, tôn giáo, nó có thể tìm lại
tất cả,
tất cả tin tưởng, ước mơ, hoài bão, tất cả vũ trụ, thiên nhiên. Đó là
con đường
của nghệ thuật, của văn chương. Thoại biết rằng nó vừa tìm thấy được
chính
mình. Nó không phải một chiến sĩ cách mạng, nó không phải một nhà tu
hành, nó
là một thi-sĩ.
Thoại lao đầu
vào trong cơn đam mê, thức những đêm trắng để sáng tạo những bài thơ
đầu tiên,
để vừa kịp thấy rằng nếu nghệ thuật là nàng tiên cứu rỗi thì cũng là
liều thuốc
giết người, để thấy tất cả cái dốt nát, cái bất lực của mình, để thắt
lấy vào
người sợi dây chuỗi oan-trái của những lo âu, bất mãn, những dằn vặt,
xâu xé
thường xuyên. Nhưng Thoại không thể đăng thơ mình ở một cơ quan
ngôn-luận nào cả
và nó vẫn mơ ước có được một tờ-báo, làm được một tờ báo văn-nghệ. Nó
luôn luôn
sống với những vận động, những dự định và những tin tưởng để đi đến
những thất
vọng, những chán chường để rồi trở lại những dự định và những hy vọng
mới.
Nhưng cuối cùng Thoại vẫn không làm được một việc gì, vẫn sống nhờ vả,
bám víu
một vài người bạn. Nhưng cuộc sống không thể kéo dài như thế.
Thoại trở về
quê nhà.
4. Những Mối
Tình Thất Bại
Sau hai năm
xa cách, Thoại tìm lại sông núi cũ. Cuộc đời ở đây vẫn thở cái không
khí tù hãm
ấy, u uất ấy, phiêu diêu ấy. Vẫn những con đường phố với những bộ mặt
không đổi
thay. Vẫn những đêm trăng mơ mộng, những bình minh sương mù, những
hoàng hôn
tím thẫm trên sông. Thoại cùng một vài người bạn xuất-bản một tờ báo
văn-nghệ
được một số thì chết. Thoại lại lang thang trên những nẻo đường với
những dự định,
những trù liệu, những ước muốn không bao giờ hết. Trong thời gian này,
Thoại đã
yêu một người con gái, một nữ sinh có một đôi mắt lặng lẽ, một đôi mắt
đen, mở
rộng, ẩn núp một vẻ huyền bí của tôn-giáo. Người con gái cũng yêu
Thoại, có lẽ
đó là người con gái đầu tiên yêu Thoại. Thoại đã yêu với tất cả những
đam mê
sôi nổi của tuổi hai mươi. Nhưng Thoại không là gì cả, không nghề
nghiệp, không
tương lai. Cuối cùng lại chỉ có thể là sự thất vọng.
Những buổi
chiều xuống trên thành phố sao mà buồn. Những ngọn lá vàng rụng. Những
cành cây
khô giang những cánh tay chơ vơ. Thoại bước đi trong bóng chiều êm ả và
nó thấy
đau nhói trong tim. Nó không ngờ tình yêu lại có thể làm khổ nó đến
thế. Nhưng
không phải là mối tình đầu. Mối tình đầu cũng là một mối tình tuyệt
vọng, mối
tình thầm kín từ những ngày trẻ thơ, nhưng lớn lên người con gái đã
không yêu
nó và người con gái đã đi bưng với những người cộng-sản. Lần này vết
thương đau
đớn hơn, nhức nhối hơn, sâu xa hơn, cho nó một nhận thức bi thảm về
thân phận
nó. Nó chỉ theo đuổi những hình bóng và nó chỉ có thể cầm bắt được
những xác bướm
của tình yêu, những xác bướm khô héo xác xơ.
Thoại thấy,
trước mắt một con đường thăm thẳm, tối tăm, heo hút. Nó thấy cổ họng
như thắt
nghẹn muốn quay lưng, trốn chạy, xua đuổi một ám ảnh. Nhưng nó đã rẽ
qua một
ngõ hẻm, bước vào trong một căn nhà, đi vào trong cái không khí mù ám,
mơ hồ, nằm
xuống trên chiếc chiếu ấm mát, bên cạnh ngọn đèn nhỏ soi sáng thế giới
của những
người ở ngoài lề cuộc đời, những người hư hỏng, những người thất vọng.
Thoại lại
trở về với ma túy, nhưng lần này với một ý muốn hủy hoại? Lần này nó
ghiền thật,
ghiền nặng. Nó bỏ nhà trốn đi. Nó vào một tỉnh lân cận, xoay sở kiếm
tiền hút.
Vài tháng
sau nó trở vào Nam, trở lại với thành phố của sa đọa.
5. Ma Túy,
Không Nhà
Thoại bước hẳn
xuống hố sâu của trụy lạc. Nó nhờ vả một vài người bạn, xoay xở chỗ này
chỗ
kia. Thoại sống với những tiệm hút, sống với thế giới những người
ghiền, gầy
gò, xanh xám, đôi mắt thất lạc, nó bước đi trên đường, mất hút vào
trong một
hình bóng của địa ngục. Những người bạn không thể chứa chấp nó được
nữa. Nó sống
vất vơ vất vưởng, kiếm một vài việc làm không đi đến đâu, và phải xoay
xở hằng
ngày để kiếm một miếng cơm, một chỗ ngủ nơi một mái hiên, một gác xép.
Và một
hôm,
Thoại thổ huyết.
Nó đau phổi.
Người anh buộc nó phải trở về gia đình, chỉ có gia đình mới cứu nó được
vì
trong trường hợp của nó muốn chữa bệnh phổi phải cai nha phiến trước.
Chỉ có
gia đình mới làm làm được công việc sau này cho nó. Nhưng Thoại không
chịu. Nó
lấy tiền để đi chữa bệnh và nói để tự cai nha phiến lấy, nhưng nó không
thể tự
cai được. Mặc một bồ đồ đen, đội một cái mũ nỉ đen, cái mặt vàng bệch
phù phì,
choắt lại, nó đi thơ thẩn trong thành phố như một bóng ma. Nó đứng lảng
vảng
trước nhà sách nơi đường Catinat, co ro, khẳng kheo, như xiêu ngã, dơ
bàn tay với
mấy ngón tay thòng ra như nơi một bộ xương.
Thoại xin tiền
những người quen qua đường, miệng nó cười méo mó, đôi mắt nó long lanh
yêu
quái. Trong đêm khuya, nơi một tiệm hút ở Chợ Cũ, Thoại thất thểu đi
ra, đi về
phía những nhà băng, kiếm một vỉa hè, nằm xuống ngủ, kê đầu trên phiến
đá lạnh.
Thoại thấy
cái chết ở trước mặt nó như một vòng giây thắt cổ. Cuối cùng nó chịu
trở về gia
đình. Phải cai a-phiến cho Thoại trước khi nó vào bệnh viện. Người mẹ
thuê một
chiếc đò ở sông Hương, đưa đứa con chết dở sống dở xuống ở đấy. Thoại ở
đấy với
một bàn đèn có đủ thuốc để hút hàng ngày. Người mẹ bới cơm xuống đò cho
con ăn
và nhờ một người Tàu ở một tỉnh lân cận nấu một nồi thuốc cai. Hai tuần
sau nồi
thuốc nấu xong. Thoại thôi hút, uống thuốc cai, bệnh nghiền dứt, Thoại
vào bệnh
viện bài lao. Chỉ trong vài tháng, Thoại đã mập, mạnh, hồng hào, sức
khỏe trở lại.
Nhưng con
người như Thoại với những tình cảm bồng bột, với những đam mê không
kiềm chế được,
không thể nào có được sự kiên nhẫn và bình tĩnh cần thiết, đầy đủ để
chữa cho
mình khỏi bệnh.
Bệnh chưa
lành nhưng có được một ít sức khỏe Thoại đã vội làm thơ, nói chuyện
sang sảng với
mọi người, trốn ra ngoài bệnh viện đi lang thang ngày đêm với bạn bè.
Thoại xin
về ở một dưỡng đường ở ngoại ô, bên bờ sông cho được tự do và Thoại lại
bắt đầu
chạy ngược chạy xuôi để kiếm cách in một tập thơ lấy tên là "Con đường
thứ
ba". Hẳn nhiên không thể nào in tập thơ ấy được.
Chưa lành bệnh
Thoại đòi ra khỏi dưỡng đường. Thoại ham sống, ham tự do, ham hoạt động
quá để
có thể nằm yên lặng hàng tháng dài trong bệnh viện để điều trị. Những
biến cố dồn
dập đến với cuộc phân chia đất nước.
6. Vào Nam
Làm Thơ, Viết Báo
Thoại lại trốn
gia đình trở vào Nam và bắt đầu đăng những bài thơ trên tờ báo Người
Việt của một
nhóm sinh viên di cư. Có lẽ là lần đầu tiên trong đời, tuy đau ốm Thoại
cảm thấy
phấn khởi và có những phút vui sống tham dự vào sự sinh hoạt văn nghệ,
những phút
an ủi, cởi mở, tin tưởng bên cạnh một vài người bạn thân thiết. Nhưng
bệnh tật
vẫn ám ảnh Thoại và nó thấy rằng với cuộc sống cô độc, vất vưởng, không
cơ sở,
không chỗ trú thân, phải nhờ cậy vào gia đình lúc nào cũng nghèo túng
và một số
anh em bạn bè, nó tự xem như số phận nó không có hy vọng gì sống được.
Cái chết vẫn
đợi nó ở đầu đường, nó biết thế, ấy mà nó vẫn sống với hiện tại với
những dự định,
những mộng tưởng luôn luôn đổi mới. Cơn bệnh lại trở lại nặng. Thoại
trở về với
gia đình, vào lại nằm ở bệnh viện. Thoại vẫn làm thơ gởi đăng trên báo
Người Việt.
Sáu tháng
sau, Thoại lại vào Nam. Nó đến ở với người anh nơi một căn nhà bên
sông. Cuộc sống
khá yên ổn nhưng chỉ được một ít lâu, căn nhà cháy. Thoại lại lang
thang. Người
anh cả đưa nó đến ở một khách sạn ở thành phố. Ở đấy bệnh Thoại trở nên
trầm trọng.
Thoại bị ra huyết nhiều. Người anh đưa Thoại vào nằm ở bệnh viện Hồng
Bàng.
Nhưng Thoại không thể nằm ở trong bệnh viện, nó vẫn trốn ra ngoài đi
chơi.
Thoại ốm nặng,
sợ truyền nhiễm, không thể ở với ai được. Người anh muốn đưa Thoại về
gia đình
nhưng Thoại không chịu. Tờ Người Việt chết. Thoại lại đăng thơ trên tạp
chí
Sáng Tạo. Được ít lâu, người anh cả về Huế, Thoại theo về, vào lại bệnh
viện.
Thời gian này, Thoại thấy có lẽ mình không thể sống được nữa. Nhưng
Thoại còn
ham sống quá. Tuy rằng nó vẫn chờ đợi cái chết nhưng khi cái chết đến
Thoại
không muốn tin rằng mình có thể chết. Quẫn trí và tuyệt vọng. Thoại tin
rằng một
phép lạ sẽ cứu vớt nó.
Ở trong bệnh
viện, ngày đêm Thoại tập luyện thân thể một cách liều lĩnh. Với hai tay
nó nhắc
nổi lên cả cái giường lớn. Đờm trong người nó tuôn ra rất nhiều và
Thoại thấy
nhẹ hẳn người đi. Thoại nói với cha mẹ nó nghe một tiếng nói thiêng
liêng kêu gọi
nó và nó đòi từ bỏ bệnh viện, cạo trọc đầu, lên núi đi tu.
Nhưng Thoại
không lên núi, nó lại bỏ trốn vào Sài gòn. Lần này, Thoại mặc áo cà sa
nâu, đội
nón lá, nó đi trên đường phố Sài gòn và nói với bạn bè: "tôi sẽ làm
kinh bằng
thơ lục bát", "tôi sẽ đi tu ở Ấn-độ."
Thoại thấy
trong người thanh thoát, gần như khỏe mạnh. Nó tưởng phép lạ cứu nó
thật. Nhưng
thật ra chẳng có phép lạ nào, đó chỉ là ngọn lửa bùng cháy trước khi
tắt. Cơn bệnh
lại đổ xuống trên người nó.
Đêm rớt trên
thành phố, Thoại ngồi một mình bên lề đường, nơi mái hiên một nhà hàng.
Mấy người
bạn vừa ngồi quây quần chuyện vãn đùa bỡn và nói đã đi hết. Chỉ còn lại
mình
nó. Nó khúc khắc ho, ôm lấy ngực. Nó bỗng thấy nước mắt dàn dựa trên
má. Những
người độc nhất có thể thương yêu nó, hiếu biết nó, đã từ giã nó. Nó trở
về với
sự cô độc khắc khoải, bứt rứt.
Cả cuộc đời
Quách Thoại hiện về như một ảo ảnh của tuyệt vọng. Một cuộc đời một
tuổi thanh
niên bỏ đi. Bao nhiêu điên cuồng, bao nhiêu lý tưởng và bao nhiêu đau
khổ, bao
nhiêu hy vọng và thất vọng, bao nhiêu ốm đau, bệnh tật, chán chường,
sầu não,
bao nhiêu nghiệp chướng tội lỗi, bao nhiêu lạc lầm, bao nhiêu yêu
thương, bao
nhiêu nhiệt thành, bao nhiêu tủi nhục, căm hờn, bao nhiêu lang thang,
phiêu bạt,
bao nhiêu cô độc, bơ vơ, vất vưởng, lạc loài ...
Và kết cuộc,
để đi đến đâu, để đi đến mấy bài thơ dở hơi, vô dụng, mấy bài thơ than
van, kêu
gào, ca tụng vẩn vơ... ấy thế mà nó vẫn mơ tưởng cách mạng cả cuộc đời,
nó vẫn
mơ tưởng tuyên bố được chân lý. Nhưng nó vẫn không thể thù ghét được
cuộc đời,
nó vẫn không thể phủ nhận sự thật, nó vẫn không thể nghi ngờ Thượng đế,
nó vẫn
không thể xa rời nghệ thuật.
Những câu
thơ "văng vẳng" trở về với nó:
Ôi!... những
tâm hồn nghệ sĩ
Chúng ta
không quì lâu được
ở ghế nhà thờ
Chúng ta yêu
cực điểm
một người
đàn bà
Nhưng vẫn muốn
chết
Sau khi làm
xong một bài thơ
Chúng ta là
những kẻ hoàn toàn bơ vơ
Không chịu
thở theo nhịp đều hơi thở
Nhưng vẫn có
thể chiến đấu
đến chết đi
Vì quá yêu
cánh tay giản dị
một người thợ
Chúng ta ích
kỷ tự ái thờ ơ
Nhưng vẫn
luôn luôn thương yêu
niềm nở mong
chờ
Khổ thay những
tâm hồn chiến tranh nặng nợ là chúng ta
Những kẻ bộ
hành đứng dưới một mái hiên ga
Để thấy tàu
đi rồi khóc
Và lại nghĩ
rằng
Mình cũng đã
từng đi...
Nó cũng đã từng
đi. Và bây giờ, đã sắp đến đoạn đường cùng, sấp đến giờ từ giã cuộc đời
mà nó
đã từng yêu, từng say mê, từng chiến đấu. Nước mắt lại tuôn ra ước đẫm
trên má
nó. Nó thổn thức khóc.
Vài tuần
sau, Thoại hấp hối trong bệnh viện nơi một căn phòng bố thí. Một người
bạn trẻ
và người anh đến với nó những ngày cuối cùng và chôn cất nó nơi một
nghĩa địa
xa ngoài đô thành. Thoại nằm xuống lòng đất trong một bộ áo tu trắng
với nơi cổ
tay một tượng ảnh Đức Mẹ. Những giờ vất vả với cái chết trên giường
bệnh Thoại
van xin "Lạy Thượng Đế ban ơn".
Cho đến phút
chót, Thoại vẫn kêu gào muốn sống.
(11.1960)
Lý Hoàng
Phong
Nguồn: Khởi
Hành số 80 tháng 6-2003