|
2.6.2013
DESCRIBING
PAINTINGS
TO DANIEL
STERN
We usually
catch only a few details-
grapes from
the seventeenth century,
still fresh
and gleaming,
perhaps a
fine ivory fork,
or a cross's
wood and drops of blood,
and great
suffering that has already dried.
The shiny
parquet creaks.
We're in a
strange town-
almost
always in a strange town.
Somewhere a
guard stands and yawns.
An ash
branch sways outside the window.
It's absorbing,
describing
static paintings.
Scholars
devote tomes to it.
But we're
alive,
full of
memory and thought,
love,
sometimes regret,
and at
moments we take a special pride
because the
future cries in us
and its
tumult makes us human.
Miêu tả những
họa phẩm
Gửi Daniel Stern
Thường chúng
ta chỉ tóm được vài chi tiết –
những trái
nho từ thế kỷ 17,
Vưỡn tươi và
chiếu sáng,
Có lẽ một cái
nĩa ngà thật là đẹp
Hay một mẩu
gỗ thập tự, và vài giọt máu, và nỗi thống khổ lớn đã khô queo.
Sàn gỗ sáng
cọt kẹt.
Chúng ta ở
trong 1 thành phố lạ -
Hầu như luôn
ở trong 1 thành phố lạ.
Đâu đó, 1
anh gác đứng, và ngáp
Một cành
tần bi đong đưa bên ngoài cửa sổ.
Thật hấp dẫn
cái chuyện miêu tả những bức họa
Những nhà học
giả đã viết biết bao nhiêu tập sách về chuyện này rồi.
Nhưng chúng
thì đang sống,
đầy hồi nhớ,
ý nghĩ,
"êu", đôi
khi ân hận
và có những
khoảnh khắc, chúng ta bèn rất ư là tự hào,
hãnh diện đặc biệt về chúng ta
Ấy là vì tương
lai khóc ở trong chúng ta
Và những tiếng
lầu bầu của nó làm cho chúng ta là người.
Summer 2013
Một
thoáng Pleiku
Pleiku
- Chút Gì Để Nhớ
30.
4. 2013
Nghệ Thuật Bịp
Thơ
Mỗi Ngày
Pont Mirabeau
Czeslaw Milosz
READING THE
NOTEBOOK OF
ANNA
KAMIENSKA
Reading her,
I realized how rich she was and myself, how poor
Rich in love
and suffering, in crying and dreams and prayer.
She lived
among her own people who were not very happy but
supported
each other,
And were
bound by a pact between the dead and the living renewed
at the
graves.
She was
gladdened by herbs, wild roses, pines, potato fields
nd the
scents of the soil, familiar since childhood.
She was not
an eminent poet. But that was just:
A good
person will not learn the wiles of art.
Đọc Sổ Ghi của
Anna Kamienska (1)
Đọc bà, tôi
nhận ra bà giầu biết bao, còn tôi, nghèo làm sao.
Giầu có
trong tình yêu, và đau khổ, trong than khóc và mơ mộng, cầu nguyện .
Bà sống giữa
những con người của riêng bà, không rất hạnh phúc, nhưng giúp đỡ lẫn
nhau,
Và được gắn
bó bằng 1 hợp đồng giữa người chết và người sống được làm mới ở những
nấm mồ.
Bà thì thật vui với cỏ, hoa, thông, cánh đồng khoai tây
Và mùi của đất,
quen thuộc từ khi còn là con nít.
Bà không phải
là 1 nhà thơ uyên bác. Nhưng đúng là như thế này:
Một con người
tốt sẽ không học những mưu ma chước quỉ của nghệ thuật.
GIFT
A day so
happy.
Fog lilted
early, I worked in the garden.
Hummingbirds
were stopping over honeysuckle flowers.
There was nothing
on earth I wanted to possess.
I knew no one
worth my envying him.
Whatever evil
I had suffered, I forgot.
To think that
once I was the same man did not embarrass me.
In my body I
felt no pain.
When straightening
up, I saw the blue sea and sails.
Berkeley, 1971
“Where your
pain is, there your heart lies also.” (2)
― Anna
Kamieńska
TREATISE ON
THEOLOGY
1. A YOUNG
MAN
A young man
couldn't write a treatise like this,
Though I
don't think it is dictated by fear of death.
It is,
simply, after many attempts, a thanksgiving.
Also,
perhaps, a farewell to the decadence
Into which
the language of poetry in my age has fallen.
Why
theology? Because the first must be first.
And first is
a notion of truth. It is poetry, precisely,
With its
behavior of a bird thrashing against the transparency
Of a
windowpane that testifies to the fact
That we
don't know how to live in a phantasmagoria.
Let reality
return to our speech.
That is,
meaning. Impossible without an absolute point of reference.
2. A POET
WHO WAS BAPTIZED
A poet who
was baptized
in the
country church of a Catholic parish
encountered
difficulties
with his
fellow believers.
He tried to
guess what was going on in their heads.
He suspected
an inveterate lesion of humiliation
which had
issued in this compensatory tribal rite.
And yet each
one of them carried his or her own fate.
The
opposition, I versus they, seemed immoral.
It meant I
considered myself better than they were.
It was easier to repeat the prayers in English
at the
Church of St. Mary Magdalene in Berkeley.
Once,
driving on the freeway and coming to a fork
where one
lane leads to San Francisco, one to Sacramento,
He thought
that one day he would need to write a theological
treatise
to redeem
himself from the sin of pride.
Czeslaw
Milosz: Second Space
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
The wiles
of art
Mưu ma chước quỉ của nghệ thuật
Guilt and greatness in the life of
Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz
CLARE CAVANAGH
Những giấc
mơ của Italo Calvino
NYRB điểm Letters,
1941–1985 by Italo
Calvino,
selected and with an introduction by Michael Wood and
translated from the Italian by Martin McLaughlin
Princeton University Press, 619 pp.,
$39.50
Nhân nhắc tới "mưu ma chước quỉ" của nghệ
thuật
[Note:
bài
viết này, nhờ đầu tháng, thấy xuất hiện trên server]
Prologue
There
was no one who smiled in those days
Except the dead, who found peace at last
Akhmatova: Requiem
Những ngày đó chẳng có ai
cười
Trừ người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Nơi người chết mỉm
cười
Trong một thành phố, nơi người chết mỉm
cười, sung sướng vì sau cùng đã được bình an, nơi người sống "hơi thở
thua người chết, hình hài thân xác thua đám sương mù trên thành phố...."
Cái tít cuốn
sách của Gấu, "Nơi Người Chết Mỉm Cười", được 1 vị bạn văn khen nắc
nỏm, hay quá, kiếm ở đâu ra thế, GCC bèn vội vàng thanh minh, của
Akhmatova, trong bài viết có nhắc tới.
Còn 1 vị
nữa, cũng ra đi từ Miền Bắc, nói thẳng, anh viết về Hà Nội!
"Nơi người
chết mỉm cười" là Hà Nội.
Cái nhà tù trong Requiem, là
Hoả Lò, là khách sạn
Hilton!
Qua
sông qua nước
Emily
Dickinson: An Introduction
Bây giờ
Emily Dickinson được nhìn nhận, không chỉ như 1 nhà thơ lớn của Mẽo,
thế kỷ 19,
nhưng còn là nhà thơ quái dị, gợi tò mò, intriguing, nhất, ở bất cứ
thời nào,
hay nơi nào, cả ở cuộc đời lẫn nghệ thuật của bà. Tiểu sử ngắn gọn về
đời bà thì
cũng có nhiều người biết. Bà sinh ở Amherst, Mass, vào năm 1830, và,
ngoại trừ
vài chuyến đi xa tới Philadelphia, Washington, Boston, bà trải qua trọn
đời mình, quanh quẩn nơi căn nhà của người cha. “Tôi không vượt quá
mảnh đất của
Cha Tôi – cross my Father’s ground - tới bất cứ một Nhà, hay Thành
Phố”, bà viết
về cái sự thụt lùi, ở ẩn, her personal reclusiveness, khiến ngay cả
những người
cùng thời của bà cũng để ý, noticeable. Tại căn phòng ngủ ở một góc
phía
trước căn nhà, ở đường Main Street, Dickinson viết 1,700 bài thơ,
thường là trên
những mẩu giấy, hay ở phía sau một tờ hóa đơn mua thực phẩm, chỉ một
dúm được
xuất bản khi bà con sống, và như thế, kể như vô danh. Theo như kể lại,
thì bà
thường tặng, give, thơ, cho bạn bè và láng giềng thường là kèm với
những cái bánh,
những thỏi kẹo, do bà nướng, đôi khi thả chúng xuống từ 1 cửa sổ phòng,
trong 1
cái giỏ. Cái thói quen gói những bài thơ
thành 1 tập nho nhỏ, fasciles, cho thấy, có thể bà cho rằng thơ thì
trình ra được,
presentable, nhưng hầu hết thơ của bà thì đều không đi quá xa cái bàn
viết, ở
trong những ngăn kéo, và chúng được người chị/hay em, khám phá ra, sau
khi
bà mất vào năm 1886, do “kidney failure”.
Billy
Collins
Here is
another poem with parallel structure in which a
childlike fancy is
finally buried under the macabre:
I died for
beauty; but was scarce
Adjusted
in
the tomb,
When one
who
died for truth was lain
In an
adjoining room.
He
questioned softly why I failed?
"For
beauty," I replied.
"And I
for truth-the two are one;
We
brethren
are," he said.
And so,
as
kinsmen met a night,
We talked
between the rooms,
Until the
moss had reached our lips,
And
covered
up our names.
The first
two stanzas share the interests of beauty and truth in
equal measure, then in the final one, the image of a good-night
conversation-one thinks of children in their
beds-is suddenly replaced by the grim reality of uffocation
and oblivion. The feeling of ratio and balance contrasts
starkly with the horror of the final lines.
XIX
Pain has an
element of blank;
It cannot
recollect
When it
began, or if there were
A day when
it was not.
It has no
future but itself,
Its infinite
realms contain
Its past,
enlightened to perceive
New periods
of pain.
XIX
Nỗi đau thường
để ra 1 khoảng trống,
Nó không thể nhặt nhạnh, thâu gom, hay... lượm.
Khi nó bắt đầu
Hay có 1 ngày, nó không còn
Không tương lai, chỉ là chính nó
Cõi vô cùng chứa quá khứ của nó
Được làm sáng lên để cảm nhận
Những hồi, chương đau mới.
Ghi
chú
trong ngày
Viết Lại
Truyện Kiều
Czeslaw
Milosz, trong 1 bài viết ngắn về Dos, đã đưa ra nhận xét, không phải
chỉ sự
quan tâm của Dos về 1 nước Nga đã đem đến cho ông sức mạnh, nhưng còn
là những sợ
hãi của ông về tương lai nước Nga đã bắt ông phải viết để đưa ra 1 lời
cảnh báo.
[It was not only his concern for Russia that gave him strength, but
also his
fears about Russia’s future that forced him to write in order to issue
a
warning]. Nhìn như thế, thì Mít không cần thứ văn chương “Đĩ Thúi”, bởi
nó chỉ
là 1 thứ ẩn dụ cởi truồng nhắm chửi xéo chế độ - khi nhà văn vô lại
không dám
trực diện đồi đầu với nó, như 1 Phương Uyên, chẳng hạn.
Cái thứ văn
chương ẩn dụ cởi truồng này, vốn được đám nhà văn VC ưa sử dụng, nhằm
tránh kiểm
duyệt, mà vẫn được coi là “liều mạng”, “cách mạng”, theo Gấu, hết thời
rồi. Đây
là cái mặt “side-effect”, phản ứng phụ, của một NHT, chuyên sử dụng
nhân vật lịch
sử để nói chuyện hiện tại. Đám đàn em bắt chước, nhưng thiếu tài, thiếu
tâm, vả
chăng đều đã từng cúc cung phục vụ chế độ, khi bị đá, bèn "ở về phía
nước mắt", cực
tởm.
It is good
to be born in a small country where nature is on a human scale, where
various
languages and religions have coexisted for centuries. I am thinking
here of
Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt
lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le với con
người, nơi
ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời. Tôi đang
nghĩ về
Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Czeslaw Milosz,
Diễn văn Nobel văn chương.
Lần đầu đọc,
khúc trên, Gấu bèn nghĩ đến cái xứ Bắc Kít ngày nào của Gấu. Cái miền
đất của
huyền thoại đó, có thiệt, ở thằng Gấu Bắc Kít nhà quê, mắt lé, lùn, một
phần, có
sẵn trong máu, một phần, có thể là nhờ đọc những tác phẩm đầu đời, loại
Sách Hồng,
như “Những chiếc ấm đất”, “Ông Đồ Bể”. Lớn thêm 1 tí, thì là nhờ đọc
Nguyễn Tuân,
qua “Vang Bóng Một Thời”, hay Nguyễn Công Hoan, qua “Bước Đường Cùng”,
thí dụ.
Phải đến mãi
sau này, đi hết cuộc chiến, cuộc tình, với Cô Bạn, và với Cô Ba, nhìn
lại lũ
con tư sinh của một miền đất, trong có Gấu, và đọc câu của Nguyễn Du,
“thiện căn
ở tại lòng ta”, Gấu bèn đi tìm cái thiện căn, của những đấng “tư sinh”,
Bắc Kít
di cư, và phát giác, có, nhưng không chỉ có nó, mà còn có Cái Ác Bắc
Kít, "rong
ruổi bên nhau".
Rõ nhất là ở những đấng “tay phải vẽ hình vuông, tay trái vẽ hình
tròn”, như Duyên Anh, thiện căn thì đẻ ra “Con sáo của em tôi”, ác căn
Bắc Kít,
thì ra ông Thương Sinh cực độc. Rồi ông Lê Tất Điều cũng có “Những Giọt
Mực” rong ruổi kế bên ông Kiều Phong chuyên “trừ tà”, giống như nhân
vật
trong “Cửa
Tùng Đôi Cánh Gài”, của Nhất Hạnh.
Trừ Tà ghê quá, biến thành Tà hồi nào, đếch biết!
Ông Số
2 thì “Thơ Trong Tiếng Mít”, kế bên những bài viết của Đạo Cấy.
Cấy gì?
Cái Độc, Cái Ác Chống Cộng Điên Cuồng, nhưng đằng sau thì chứa
Cộng trong nhà,
trong tòa soạn NV.
Bạn đọc bài viết kể chuyến anh y tá dạo công du, mà chẳng thấy
thổi VC còn bảnh hơn nhiều, so với trong nước ư? (1)
Với tên nhà
văn vô lại, NV, đếch còn tí thiện căn nào cả!
Không chỉ với ông ta mà với toàn
bộ đám VC nhà văn Bắc Kít.
Dòng văn chương “thiện căn” Bắc Kít chấm dứt với
NHT.
Cực độc đấy,
nhưng vẫn còn mầm thiện!
Bởi
vậy mà khi Sến cô
nương đăng "Đĩ Thúi", bèn phán, có ta ở trong đó!
Nói toàn bộ
nhà văn VC Bắc Kít, hẳn là nhiều người bực mình. Nhưng đúng như thế
đấy.
Đám Bắc Kít bây giờ viết văn là để tự cứu họ, chưa xong, làm sao nghĩ
đến cái
ác, cái thiện?
Trong cuộc tử đấu tay đôi giữa nhà văn và thế giới, hãy cứu mình trước
đã!
Nói rõ hơn, họ không bị mắc míu với câu hỏi thiện ác, có thể nói như
vậy.
Có
vẻ như họ đếch đau khổ một chút nào khi viết, nói như Milosz, khi viết
về Akhmatova.
Chỉ thấy sướng
điên lên, vì sáng tạo, có thể!
Có thể, cái
cuộc xung đột thiện ác của 1 miền đất, chấm dứt với ngày 30 Tháng Tư
1975?
Gấu có ý nghĩ
đó, khi vừa chơi xong bài thơ ngắn của Milosz, sau đây:
Quà tặng
Một ngày thật
hạnh phúc
Sương tan sớm,
tôi làm vườn
Chim đậu trên
cành
Đếch có cái
gì trên mặt đất mà tôi muốn sở hữu
Đếch biết 1
ai xứng đáng cho tôi thèm
Cái Ác, bất
cứ gì gì, mà tôi đã từng đau khổ, tôi quên mẹ mất rồi.
Nghĩ, có thời,
tôi cùng là 1 người, cũng chẳng làm phiền tôi.
Trong thân thể
tôi, tôi không cảm thấy đau
Khi ngẩng đầu
lên, đứng thẳng dậy, tôi nhìn thấy biển xanh và những cánh buồm.
Berkeley,
1971.
Milosz là 1
nhà thơ mà cái phần cực độc, cực ác, không thua bất cứ ai, có thể nói
như vậy.
Suốt đời, ông thèm được như Brodsky, sống 1 cuộc đời gần như sống 1
phép lạ. Nhưng
sau ông nhận ra, chính cái phần nhơ bẩn ác độc, với ông, cần hơn nhiều,
so với “thiện
căn”.
Sự tương phản
giữa thiện và ác, của miền đất Bắc Kít, rõ nhất, là qua Tô Hoài của “Dế
Mèn”,
và của “Ba Người Khác”. Với Tô Hoài, không có sự cứu rỗi, và có vẻ ông
cũng chẳng
hề bận tâm, về 1 "evil" mà ông đã từng đau khổ, và quên mẹ mất rồi.
Nhưng với Milosz, nếu
có cứu chuộc, là nhờ đọc Simone Weil, và cái gốc Ky Tô của ông,
theo Gấu.
Bữa nào rảnh, TV sẽ đi 1 đường chuyển ngữ, bài của Milosz, “Sự quan
trọng của
Simone Weil”, hầu độc giả thân mến TV!
Hà, hà!
Man
Booker 2013
|
|