Phạm Tín An
Ninh
08.04.2013
Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó với
Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn
hơn là
niềm vui. Vậy mà khi đã xa - thực sự vĩnh viễn xa - Pleiku rồi, tôi lại
thấy da
diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi
sẽ còn nợ
phố núi này một lời xin lỗi.
Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm
lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn
đã bé nhỏ,
như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với
tôi dường
như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói
sương mờ ảo ấy
cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những
mảng mù
sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.
Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ
không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu
chân của
người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên
núi rừng
heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê
Thuột,
nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiết) và đảm trách một
vùng hành
quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch
1972, khi
cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường
Kiệt - Sông
Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho
một đơn vị
của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt
trận
Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di
chuyển
lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.
Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng,
cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số
căn cứ
của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo
nhiều vòng
đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi
trường
Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ Tư Lệnh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị
tràn ngập
tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa
cùng với
quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm
lấy
Kontum.
Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian
chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi
trường
Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng
sống chết
với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng
quân và
bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ
tích
trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu hùng”.
Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một
tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy
lội
trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên
chiến
trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những
nhát
chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không
dễ. Bọn
tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi
nhận đám
lính bị Quân cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông
đồn trưởng
Quân cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt,
lãng mạn
(và vi phạm quân phong quân kỷ?) như ai.
Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn
mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê
không đủ ấm,
không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say
đàn bà,
con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận
chiến đẫm
máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.
Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn
Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng
Đức vì xe bị
VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh
kéo theo
cái vòng “tục lụy” này.
Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng
trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh
hưởng từ
các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng
cấp và
sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ
huy
nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình
giúp đỡ
an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh
chủng, thăng
cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.
Do cái ân tình đó, nên những ngày không
hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những
cơn say.
Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán
rượu
trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề
biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân, để
“may mà
có em đời con dễ thương!”
Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành
phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13/3/75, theo những
toán quân
đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An,
quận lỵ
duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL
21 về
hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có
lệnh di tản.
Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh
Lộ 7B. Một
cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh. Một
nửa đơn
vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu
đoàn trưởng
đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.
Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt
tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những
cái chết
bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi
chưa kịp biết
mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không
phải là những
con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng
Hoàng,
quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và
lại
càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng
Thái, Minh
Đức, Bồ Đề… mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn
Phố Núi
đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao
nhiêu!)
Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ
lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn
lội
trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được
chút thời
gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn
(mặc dù tôi
vốn mê thơ - nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ
thơ Vũ Hữu
Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của
Pleiku hay
viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim
Tuấn, Nguyễn
Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc
quá chừng.
Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.
Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân
đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng,
từng viết
những câu thơ hào sảng:
Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng từng bị
“đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ
Pleiku:
Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….
Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu
ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với
rượu.
“Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý
ra tôi
phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình
“Có thể
chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng
mạn hơn
những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với
những
người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ
tài
danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít
nhất cũng
là một bài thơ chưa được viết thành lời.
Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.
Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều
đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức,
Trần Công
Lâm, Đỗ Bê ... những tiểu đoàn trưởng nổi danh,
những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh
đệ cùng một đơn vị
từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với
Pleiku. Khi tất cả - có lẽ cũng như tôi - chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ
tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.
Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di
tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với những
đổng đội
của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường
kinh
hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi
hồng” của
nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị
đày”
lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố Núi sẽ
không
còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà
thơ Không
Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó”:
Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
…
Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại
các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những
cánh
lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ
núi đồi,
buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao
của những
thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để
nhìn (trộm)
các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!
Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận
ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao
nỗi bâng
khuâng.
Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều.
Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người
Pleiku
nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku
ra đi
mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.
Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết
được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku. - Phạm Tín An Ninh