|
Trên TV đã
giới thiệu ông này. Một chuyên gia về Mác Xịt. Trong những kỳ tới, sẽ
giới thiệu
bài điểm hai cuốn của ông, trên tờ NYRB, July, 22, 2012.
Đọc Sách:
Nhìn lại chủ nghĩa toàn trị
Slavoj
Zizek
Mác Học
Trong
suốt quãng đời còn lại, Benjamin tự nhận hoặc một tay Cộng Sản, hoặc
một bạn đồng
hành. Chúng ta tự hỏi, cuộc tình giữa ông với chủ nghĩa Cộng Sản say
đắm, sâu
xa tới mức nào?
Nhiều năm sau khi gặp gỡ Lacis, Benjamin có lẽ vẫn lập đi lập lại những
‘chân
lý’ Mác xít, mà chẳng cần đọc Marx, thí dụ như "giai cấp trưởng giả… bị
kết
án phải suy sụp do những mâu thuẫn nội tại, và nó sẽ tiêu luôn theo với
đà phát
triển của những mâu thuẫn này". "Trưởng giả" là một từ nguyền rủa
đối với ông, và nó có nghĩa là chạy theo vật chất, thờ ơ, ích kỷ, giả
hình, và
trên tất cả, hoàn toàn tự mãn về mình – và ông tỏ ra rất thù nghịch, do
bản
năng. Tự coi mình là Cộng Sản là một hành động chọn bên, vừa về mặt đạo
đức vừa
về mặt lịch sử, nhằm chống lại giai cấp trưởng giả và luôn cả dòng dõi
trưởng
giả của chính ông.
Coetzee:
Những kỳ tích của Walter Benjamin.


Gấu
mới đọc 1 bài viết của 1 tay, cũng dân Toronto, về W. Benjamin, vì vậy
đành bấm
bụng mua tờ báo.
Sẽ scan và giới thiệu, vì cũng ngắn.
Thú câu này:
Phơi bày những giấc mơ của giai cấp trưởng giả, ông ta [Benjamin] không
hề ngờ,
rằng ông ta cũng đang sống trong 1 giấc mơ, Mạc Xịt, về 1 xã hội...

"Tay
này không học bơi, theo chiều, hay nguợc chiều dòng nước"
Hannah
Arendt
Trong
bài viết về ông, trên tờ Le Magazine
Littéraire,
số Tháng Chín, 2009, có một chi tiết sai: ông
mất ở Port-Bou,
thuộc Tây Ban Nha, không phải Pháp.
"To great writers, finished
works weigh lighter than those
fragments on which they work throughout their lives."
("Với những nhà văn lớn, những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với
những
mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.")
Walter Benjamin (1892-1940)
Ui chao,
câu
trên mà đề tặng
Gấu Nhà Văn thì thật là tuyệt:
Bài viết nào cũng nhếch nhác, chẳng bài nào hoàn tất, chẳng biết khúc
nào
Gấu viết, khúc nào Gấu chôm chĩa!
Vẫn thua giấc đại mộng của Benjamin: Viết một đại tác phẩm, toàn trích
đoạn, chôm của kẻ khác!
Cuốn sách "Thương Xá", cho dù chúng ta
đánh giá nó như thế nào – điêu
tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị một
đường lối mới,
để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay
vì những
nghệ phẩm của cái nền văn minh đó; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ
đỉnh. Và
lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" -
"Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua,
thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính
tiên tri,
về cung cách mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời
[còn lại
ngắn ngủi của chúng] ta.
Chính vì vậy, dù
vốn liếng tiếng Anh ăn đong, Gấu vẫn cố, quá sức mình, dịch bài
viết.
Có thể nói, tất cả
những bài dịch đầu tay khi mới ra ngoài này đều quá sức của Gấu, cả về
vốn liếng
tiếng Anh lẫn tầm nhìn: những bài viết của Steiner, Borges, Coetzee…
Có vẻ như
trong
khi dịch, Gấu đã mường tượng ra, ngoài hai tác phẩm vĩ đại nhất của thế kỷ, cả
hai đều điêu
tàn và viết về điêu tàn, như tác giả
của
chúng, còn một tác phẩm điêu tàn, khủng hơn nhiều: Cuộc chiến Mít, và
cảnh
tượng điêu tàn băng hoại như hiện
thời!
Hannah
Arendt lên phim
'Marx wrote
of "crises"; we say "recessions"
Mác vưỡn...
OK?
Mác viết,
"khủng hoảng", chúng ta nói, "ế khách”!
Nếu coi Mác
là 1 nhà nhân bản lãng mạn, thì không thể bỏ qua tư tưởng then chốt của
ông về
vong thân, alienation.
Gấu cứ nghĩ cái “tình cảnh” ông, ngồi trong thư viện Luân Đôn, mà trí
óc đầy ắp hình ảnh 1 nước Anh, ở
trong tác phẩm của Dickens.
Văn Cao viết Tiến Quân Ca,
cũng
thế, khi ông, đầy ắp hình ảnh đứa cháu bị lạc, chết vì đói
và lạnh, và ngoài đường, nơi Phường Dạ Lạc gì đó, xe ba gác lượm xác
người.
Ý niệm vong
thân mới là then chốt tư tưởng Mác, và Gấu học được điều này, khi nằm
nhà
thương Grall, sau khi ăn hai trái mìn VC, thoát chết, đọc Henri
Lefebvre viết về
con người hoàn toàn, đạt thân, hết còn vong thân, phóng thể.
Trong khi chờ
BHD.
1945
15, Tháng Giêng.
Liên Xô…
Tôi làm nhiều
người ngạc nhiên, khi tuyên bố, đó là xứ tôi đến 1 lần là…
thôi, đếch thèm trở lại. Một số cho rằng tôi
vẫn còn giữ những kỷ niệm xấu, lần thăm nó (hình như vào năm 1936), và
hai bài
viết phạng tới nơi tới chốn (pamphlets) liền sau chuyến đi là sản phẩm
của sự
thất vọng; phi lý. Tôi viết chúng cùng 1 thứ mực, và cùng 1 cái đầu
(dans le même
état d’esprit), mà tôi tố cáo, lần từ Phi Châu trở về, sự lạm dụng ở
thuộc địa
của lũ thực dân khiến tôi đau lòng (les abus coloniaux qui là-bas
m’avaient
soulevé le coeur). Và những người chỉ trích tôi về thái độ đối với Liên
Xô, thì
cũng vẫn họ đã từng vỗ tay, thổi đít tôi, khi
tôi
chửi những “sous-produits” (bán thành phẩm) của “chủ nghĩa tư bản”. Với
Phi Châu,
họ ca ngợi vì dám nói, dám tố cáo, [dám nói thẳng nói thiệt như
thằng cha Gấu Cà Chớn, hà hà!]. Còn ở Liên Xô, Bác Gấu-Gide ơi, Bác
không hiểu,
Bác chẳng nhìn ra vấn đề (En Russie, dirent-ils soudain, je n’avais
rien su
comprendre, rien su voir). Nói cho cùng, quả là chưa có hoàn hảo, toàn
bích,
toàn thiện ở đó, nhưng từ từ, đâu phải ngày một ngày hai là có ngay
Thiên Đường
Đỏ! Phải tán thưởng sự thành công của toàn thể (ensemble) và nhắm mắt
trước những
thiếu hụt tạm thời, không thể tránh được.
Nếu bỏ qua “thiếu
hụt”, thì đúng là 1 xứ sở tuyệt vời, với dân chúng tuyệt vời của nó.
Tôi nói dân chúng,
peuple, thứ dân chúng bần cùng, “bas peuple”, bởi là vì điều làm tôi
đau lòng ở
đó, là, chứng kiến những giai cấp xã hội cố tụ tập lại, se reformer,
mặc dù cố
gắng lớn lao và đẫm máu của cách mạng, bằng thỏa hiệp, và bằng nói dối
về thực tại.
Rõ ràng là, nhờ
một chủ nghĩa toàn trị chống Nazi mà người ta có thể chiến thắng chủ
nghĩa
Nazi; nhưng ngày mai, chính là thứ chủ nghĩa theo thời mới mà người ta
phải chiến
đấu chống lại.
C’est sans
doute grâce à un totalitarisme anti-nazi que l’on pourra triompher du
nazisme;
mais demain c’est contre ce nouveau conformisme qu’il importait de
lutter.
André Gide: Journal
Hannah
Arendt lên phim
"A
Daughter of Our People":
A Response
to Gershom Scholem
Gershom Scholem
(1897-1982) was a
scholar who made a number of pioneering contributions to the study of
Jewish
mysticism. From 1925, his main academic base was at the Hebrew
University of
Jerusalem. For an appreciative review of his Major Trends in Jewish
Mysticism (1946
[1941]), see Arendt's 'Jewish History, Revised" (1948), published in
Feldman,
The Jew as
Pariah, pp. 96-105. Cordial relations between
Arendt and Scholem ended with the publication of Eichmann in
Jerusalem.
July 24,
1963 (New York)
Dear Gerhard.
TV sẽ post và
dịch thư này, vì cũng không dài lắm, và cũng thú lắm. Để so sánh với
những cú đụng
độ giữa đám nhà văn Mít!
“Người con gái
của Nhân Dân”:
Hannah
Arendt trả lời Gershom Scholem
Loạt bài về
Arendt trên TV, là nhân cuốn phim về bà, ra mắt khán giả Âu Châu [Đức
và sau đó
Pháp], trùng với kỷ niệm 130 năm ngày mất và 195 năm ngày sinh của
Marx, thành
ra nó xuất hiện song song với 1 số bài về Mác, như trên Blog của Sến cô
nương.
TV đã tính đi
cái thư Arendt trả lời Gershom Scholem, khi bị ông chê, không có tình
yêu dân
Do Thái, nhưng, nhân đọc bài của Thầy Cuốc, "tôi đếch chống Kộng", thấy
nhảm quá,
bèn đi bài sau đây của Arendt, “Hiểu chủ nghĩa CS”, “Understanding
Communism”, vì thấy cũng cần thiết. TV
scan bản tiếng Anh,
và sau đó, sẽ cố dịch, không dám hứa liều, sure, sure, nữa!
Understanding
Communism
[This review
of Bolshevism: An Introduction to Soviet Communism, by Waldemar
Gurian, Notre Dame, IN, 1952, was published in Partisan Review XX/5,
September-October 1953. While it gives important indications of
Arendt's growing concern at this time with the meaning of Marx's
thought, the review does not suggest the great depth of her feeling for
Gurian himself. She had known this "strange man," "a stranger in
the world, never quite at home in it, and at the same time a
realist," since the early thirties in Germany. For Arendt his was one
of the lives
that illuminated the darkness of the twentieth century. See "Waldemar
Gurian 1903-1954" in Men in Dark Times.]

Gấu, khi mới
lớn đọc Mác, như 1 triết gia, qua những đấng như Lukacs, Lefebvre....
Rồi kinh nghiệm Mác, qua cuộc chiến Mít.
Nhưng để hiểu Mác, như là 1 nhà thực hành, với đám đệ tử của ông như
Xì,
như Mao, thì là nhờ đọc Todorov, cuốn trên, mua hồi 1997, thời gian ở
Vancouver, thư viện toàn sách Tẩy!
Đọc 1 phát,
là thực hành liền, và đó là bài viết Kẻ Bán Xới, đã từng đăng trên mục Tạp Ghi
do Gấu phụ trách trên tờ Văn Học của
NMG.
Nhân cú chống
lại “Tôi không chống Kộng”, của thầy Kuốc, bèn lôi ra đọc lại, song
song với bài của Arendt,
khi bà đọc "Bolshevism: An Introduction to Soviet Communism".
Evil
Axis
Wagner & Zizek vs
Sến
Cả hai nhà văn gối đầu giường
của tôi, Kafka và Nabokov, đều ít
nhiều bỏ âm nhạc ra ngoài trường quan tâm của họ. Lần duy nhất Kafka
nhắc đến
âm nhạc, và không hẳn là tích cực, là trong “Josephine, nữ ca sĩ hay
Dân
chuột“, còn Nabokov thì liệt kê âm nhạc, nhất là âm nhạc làm nền cho
những cuộc
trò chuyện uyên bác, vào danh mục những thứ ông ghét cay ghét đắng.
PTH
Trong Wagner, có… Thiên
Sứ của.... Sến, theo Zizek, khi
ông nghe Wagner, và viết: Tiên tri & Thiên Sứ
Le Magazine Littéraire, Sept 2010
Zizek là 1 trong những chuyên
gia hàng đầu về chủ nghĩa toàn trị.
Đúng hơn, ông đọc lại chủ nghĩa toàn trị, khác cách đọc trước đó.
Ông như tiên đoán
sẽ vẫn còn nhiều tên mù sờ voi, viết nhảm nhí về chủ nghĩa
toàn trị, bèn… chửi:, thằng khốn nào nói tới chủ nghĩa toàn trị đó?
(Did
someboby say totalitariarism?, nhà xb Verso, London, in lần
đầu năm 2001)
Sĩ phu Bắc Kít
vs Dalai Lama
Nhà văn Nguyên Ngọc: Tôi
sinh ra ở Quảng Nam - Đà Nẵng, nhưng tuổi đời đẹp nhất của tôi lại
sống, chiến đấu và viết ở Tây Nguyên. Nếu không có Anh hùng Núp, cụ Mết
thì không có “Đất nước đứng lên”, không có “Rừng xà nu”… và đương nhiên
không có Nguyên Ngọc. Chính cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ của đồng bào Tây Nguyên, chính văn hóa Tây Nguyên với những mái
nhà rông, tiếng cồng chiêng vang giữa núi rừng, những đêm uống rượu cần
nghe già làng kể sử thi… tất cả khiến Tây Nguyên như một bầu sữa mẹ,
tạo nên ngôn ngữ văn chương Nguyên Ngọc. Tôi không nhận mình là một tài
năng văn chương, tôi chỉ ghi lại hiện thực đời sống nơi núi rừng Tây
Nguyên hùng vĩ thôi. (1)
Đây là nghịch lý của cuộc
chiến, thì cứ nói đại như vậy: Một khi chấp nhận anh hùng Núp, thì phải
chấp nhận cái gia tài cuộc chiến là một nước Mít như hiện nay.
Não bộ của những đấng VC tinh anh bị liệt 1 nửa, là vậy.
Chúng không làm sao chấp nhận sự thực, cái chế độ Ngụy mà chúng huỷ
diệt, đẹp hơn nhiều, so với bất cứ 1 chế độ mà dân Mít đã có được.
Đau thế!
Cả 1 cuộc chiến, chết 3
triệu người, chưa kể di tản, vượt biển, để đẻ ra cái chế độ cực kỳ khốn
kiếp như hiện nay, nhưng chưa khốn kiếp bằng cái chuyện, cứ sử thi cách
mạng, anh hùng Núp ca hoài, ca hoài, không hề thấy thúi, không hề thấy
nhục nhã!
Đây cũng là nghịch lý mà
Todorov nêu ra trong bài viết được TV giới thiệu (1)
Ngày mà chúng ta chấp nhận ý nghĩ bi thảm, khi tuyên bố, chủ nghĩa CS
là con đường nhức nhối (tortueuse) dẫn từ "chủ nghĩa tư bản" đến "chủ
nghĩa tư bản", khi đó, những người dân tại những nước cựu-toàn trị
chẳng thể nào nhìn ra, ý nghĩa cuộc đời này (Todorov, p.69, sđd).
Đúng như thế.
Dân Mít còn đau hơn thế: cái “chủ nghĩa tư bản” mà Mít đang có, là Tư
Bản Đỏ Mafia, của “chỉ” những tên Mafia Đỏ.
Ralkolnikov, trong Tội
ác và Trừng phạt (Dostoevsky), chủ trương “tội ác cần thiết”, nhưng
khi giết bà già cầm đồ, anh nhận ra sự thực, "tôi đang xả những nhát
búa lên chính tôi..."
Bạn của Todorov [VC Bulgarie], đã từng than thở với ông, ông ta thấy
mình như một nhân vật giả tưởng, trong một truyện ngắn của Maupassant:
Một bà, mức thu nhập khiêm tốn, mượn bà bạn nhà giàu, chuỗi hạt để đi
dự đám cưới, không may để trộm nẫng mất. Bà ta đã vay mượn một số tiền
lớn, mua một chuỗi hạt tương tự, và sau đó kéo cày trả nợ. Khi đã xác
xơ, già cằn, gặp lại bạn cũ, bà hãnh diện kể lại câu chuyện... Bà bạn
đau lòng than, "Tội nghiệp bạn quá, xâu chuỗi của tôi hồi đó là đồ dởm".
Ông bạn của Todorov đó, là
Nguyên Ngọc, chỉ khác, NN vẫn tin đó là.... đồ thực!
Nghệ Thuật Báo
Động
L'art de
l'alarme
Trong tất cả
tác phẩm, và đặc biệt trong “Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị”,
Hannah
Arendt khui [débusqué] ra những phần tử và những cơ chế [mécanismes]
ngăn trở
con người đích thực là người [empêcher l'homme d'être véritablement
humain].
Cuốn sách này
được viết nhắm phản ứng lại cái nội dung lạc quan vô tư [un context
d’optimisme
insouciant] và thất vọng vô tư. Nó giả đò rằng, Tiến vộ và Điêu tàn thì
là hai
mặt của 1 tấm mề đay, rằng cả hai là những vấn đề (articles), không
phải của niềm
tin, la foi, mà là mê tín [Tựa, lần
xb bản 1951 của “Những nguồn gốc…”]
Dối trá là
phần máu thịt, liên quan chỉ với chủ nghĩa toàn trị?
[Le mensonge
a-t-il partie liée avec seul totalitarisme?]
Arendt:
Dối
trá không phải dành riêng cho những chủ nghĩa toàn trị. Chúng chỉ đem
đến cho nó
hình thức bạo lực, khủng bố. Nhưng nó vận hành thật là êm ả, dịu dàng
trong những
chế độ dân chủ. Một lý thuyết hiện thực về dân chủ mà vờ đi những liên
hệ tâm đắc,
ăn ý, thông cảm lẫn nhau… với trò mị dân thì
chẳng có gì để mà chúng ta cần phải học.
Phải hiểu rõ, rằng dối trá có phần bắt buộc, tất yếu, có phần vận hành
của nó,
theo một nghĩa nào đó, ở trong một chế độ dân chủ. Ở 1 mức độ thật đơn
giản: Phải
chia ra để mà bầu [Il faut diviser pour élire]. Nhưng 1 khi chính quyền
được bầu
rồi, thì nó phải thực thi một chính trị thống nhất, une politique
unifiante.
Trong 1 mức độ nào đó, chẳng 1 chính quyền dân chủ nào thực sự làm được
những gì
nó hứa. Những công dân của nó thừa biết như vậy.
|