Tính Tầm Phào, Lãng Nhách của Cái Ác: Ghi chú, bổ sung, và phản bác.
Khi Hannah Arendt theo dõi phiên toà xử Adolf Eichmann tại Jerusalem
vào năm 1961, bà đã nổi tiếng, và làm bùng nổ cuộc tranh luận kéo dài
cho đến bây giờ, khi khám phá ra điều mà bà gọi là "tính tầm phào, lãng
nhách của cái ác", banality of evil. Thay vì nhìn Eichmann như là một
tên quỉ bài Do Thái, bà coi đây chỉ là một tên thư lại khốn kiếp ít
quan tâm tới ý thức hệ Nazi mà chỉ lo làm sao cho những chuyến tầu chở
Do Thái tới Lò Thiêu Auschwitz luôn luôn chạy đúng giờ.
Nhưng thời gian trôi qua, ngày càng có
nhiều tài liệu từ những thư khố được mở ra, và ngày càng có thêm chứng
cớ mới mẻ cho thấy vấn đề không đơn giản như vậy.
Gần đây nhất là ba cuốn sách mới xuất
bản, được Richard Bessel trên tờ TLS (Phụ trang văn học Thời Báo
London, số đề ngày 24 tháng Giêng, 2003) điểm, đã đưa ra những cái nhìn
mang tính phê phán đối với đề án "tính tầm phào, lãng nhách của cái ác"
của Arendt. Cuốn thứ nhất, "Những công nhân viên chức của Hitler: cảnh
sát an ninh Nazi và tính tầm phào của cái ác", tác giả Yaacov Lozowick
(nhà xb Continuum, 297 trang) đã nghiên cứu Eichmann và những đồng
nghiệp của ông ta, là những người tổ chức, điều động việc tống xuất
những người Do Thái trên toàn Âu Châu tới lò thiêu. Cuốn thứ nhì,
"Bi-dzi-nét diệt chủng: Đội quân SS, lao động nô lệ khổ sai và những
trại tập trung" (nhà xb North Carolina University), tác giả Michael
Thad Allen quan sát văn phòng chính "The Business Administration Main
Office", của SS, lo việc điều hành hệ thống lao động nô lệ khổ sai của
Nazi. Và cuốn thứ ba, nguyên tác Đức ngữ, "Generation des Unbedingten"
(nhà xb Hamburger, 964 trang), tác giả Michael Wildt nghiên cứu đám cầm
đầu về an ninh (the leadership corps of the Reich Security Main
Office), được thành lập bởi Reinhard Heydrich.
"Những công nhân viên chức của Hitler"
của Yaacov Lozowick, là một nghiên cứu thú vị về tính thư lại, hay về
sự hình thành những nghị quyết (decision-making) của "đảng ta" [Đảng
Quốc Xã], Đệ Tam Reich. Tác giả làm việc tại Yad Vashem trong hai mươi
năm qua, và hiện là Giám Đốc Thư Khố. Đối với ông, những công nhân viên
chức có phần hùn trong dịch vụ đưa hàng triệu con người tới cái chết
của họ, đã thực tâm thực lòng làm như vậy. Họ biết rõ họ đang làm gì.
Eichmann và những đồng chí của ông ta, theo quan điểm của Lozowich, là
"những công nhân viên chức với một kiểu hận thù rất ư là đặc biệt",
"một thứ hận thù chẳng thể nào dựa trên một nền tảng duy lý, suy luận,
để mà mò ra nguyên nhân, cội nguồn, và nếu cần phải biện minh cho lòng
hận thù này, thì chỉ có thể gọi là ý thức hệ bài Do thái".
Khi Eichmann tới Vienna vào năm 1938,
ông ta đề ra tiến trình và bộ máy tống xuất, và sau đó được đem ra sử
dụng, với hiệu năng chết chóc khủng khiếp, "xuyên suốt" Âu Châu, những
vùng do Nazi chiếm đóng. Nhìn vào chi tiết, quan sát những sự cố đã xẩy
ra tại Hòa Lan, Pháp, Hungary, tác giả cuốn sách trình bầy cho chúng
ta, những độc giả, một câu chuyện thật đáng tin cậy, và thuyết phục, mà
nếu cần phải tóm gọn, thì nó đưa ra một quan điểm ngày càng trở nên
quen thuộc trong giới nghiên cứu chế độ Nazi, đó là: những tội ác của
Nazi tại những vùng đất bị chiếm đóng, được "gợi hứng" (inspired) từ ý
thức hệ và được thực hiện bởi những kẻ "đi dưới bảng dẫn đường" của hận
thù.
Gây ấn tượng nhất, là cách mà Lozowick,
trong cuốn sách Những viên chức của Hitler, lập lại đường đi nước bước
của những tài liệu qua Sở An Ninh (SD: Security Service) của lực lượng
SS, chỉ cho thấy ai là người thảo ra những chỉ dẫn, dưới những cái tên
(và thường xuyên là do chính những người này ký), đó là: Himmler,
Goering, hay Heydrich, và cũng chính họ sau cùng bật đèn xanh, cho phép
thực hiện những chuyến tống xuất người Do Thái tại những vùng đất do
Đức quốc xã chiếm đóng, tới những trại tử thần. Kết luận của Lozowick:
những viên chức mà tại bàn làm việc của họ, chính sách bài Do Thái đã
ghé bến (landed), và đây là trách nhiệm bàn giấy của họ – những người
này không phải không hứng thú khi được trao, và thi hành những trách
nhiệm, nhưng họ là những thành viên một trăm phần trăm (full partners),
ở trong cái cơ sở nhà máy làm thịt người Do Thái. Họ "nói như là những
kẻ bài Do Thái, và họ nhìn thế giới từ cái nhìn bài Do Thái".
Lozowich đào xới đề án của Arendt, về
tính tầm phào lãng nhách của cái ác. Đôi khi, ông tỏ ra "cũng được"
(fair), đôi lúc, không được "fair" cho lắm. Cũng được, là khi ông viết:
"Toàn trường phái của Hannah Arendt được thành lập trên một niềm tin
tốt (Good faith is the foundation of the entire school of Hannah
Arendt). Theo Lozowick, cuốn sách của ông chứng minh, đề án của Arendt,
một "bài tập sáng chói mang tính quan điểm, hoàn toàn thiếu cơ sở mang
tính lịch sử" (that Arendt’s "brillant conceptual erxercise lacked all
historical foundation"). Nhưng Arendt đâu phải là sử gia – và lẽ dĩ
nhiên, không thể trả lời – [Bà đã mất. CNTD]. Bà đâu có được nhìn thấy
hàng núi tài liệu mà Lozowick đã lục lọi nát bấy ở trong đó. Mà cho dù
bà có lầm đi nữa, phát giác của bà đã khiến cho bao con người phải suy
nghĩ mãi, về vụ làm cỏ dân người Do Thái, rằng tại sao cái ác ghê gớm
như thế lại xẩy ra, và là trách nhiệm của ai đây, có phần mình ở trong
đó không?
Cũng như Lozowick, khi làm công việc
quan sát, tìm hiểu những viên chức của Hitler, Michael Thad Allen,
trong tác phẩm Dịch vụ Diệt chủng (Business of Genocide), nghiên cứu
chế độ bàn giấy của lực lượng SS (The SS business administration); ông
chỉ ra, những công nhân viên chức Nazi không có "tầm phào" một tí tỉ tì
ti nào hết (far from ‘banal’). Allen cũng miêu tả những ông công nhân
viên nhà nước thuộc bộ phận SS này, là những con người tự nguyện để cho
ý thức hệ xỏ mũi dẫn đi, rất ý thức, tâm thành ý nguyện, rất tự hào
được giao phó, và quyết tâm thực hành tốt công tác được giao, như những
từ của ông: "một nhóm nhỏ những người trẻ, rất tự tâm tự nguyện hiến
dâng đời mình cho nghĩa cả, thông minh hồ hởi, được thúc đẩy bởi ý thức
hệ, làm việc rất hăng say" – "a small group of dedicated,
intellectually spry, ideologically motivated, and hardworking young
men". Thường xuyên, đây là những con người có kinh nghiệm hiện đại về
điều hành, sẽ nắm quyền quyết định vận mạng của hàng ngàn tù nhân.
Allen chú ý cặn kẽ tới yếu tố ý thức hệ mang tính sắc tộc, theo một nội
dung rộng lớn hơn, và chính điều này cho phép những công nhân viên trẻ
xàng lọc tù nhân, phân loại họ theo sức khoẻ, tội phạm, mầu da, và hiệu
năng kỹ nghệ, để sau cùng đi đến phán quyết, những ngưòi nào "không đủ
sức làm việc" (unfit to work), tức là "đủ sức đi tới lò thiêu" [fit to
be murdered]. Như thế, Allen đã chỉ trích thật sắc bén quan điểm của
Hans Mommsen, ông này nhấn mạnh sự vận hành lạnh lùng (impersonal
functioning) của bộ máy thư lại Nazi.
Allen đã trình bầy cho chúng ta một bản
kết toán được nghiên cứu kỹ càng và thật thuyết phục, về những nhà điều
hành hiện đại, có kỹ năng kỹ thuật, những kẻ đã dựng lên đế quốc kinh
tế SS. Có trong tay hàng trăm ngàn tù nhân, họ đã hoạch định, quản lý
một hệ thống lao động nô lệ khổng lồ, và với sự hợp tác của Bộ trưởng
Công Nghiệp Vũ Khí, Albert Speer, họ đã bắt tù nhân làm việc nhằm phục
vụ bộ máy chiến tranh của Nazi. Tuy nhiên, việc sử dụng tù nhân, cho dù
có sinh lợi, nhưng thiết yếu không phải là mục tiêu của nó. Nói rõ hơn,
sinh lợi hay không sinh lợi, không cần thiết: Gạt bỏ [quan điểm về một]
chủ nghĩa tư bản tự do không cần động não (mindless
liberal-capitalism), và luật Mammon [người đặt nặng sự lạnh lùng của bộ
máy thư lại Nazi], đám SS đặt để "sự hiện đại của nó trên tính sản xuất
và tính siêu việt sắc tộc." (the SS based "its modernity on
productivism and racial supremacy").
Rằng tụi SS bắt tù nhân làm việc trong
một điều kiện sơ khai, rằng đây là một dịch vụ được quản lý một cách
tồi tệ, không có hiệu quả, và là những cuộc phiêu lưu đầy rủi ro về mặt
kinh tế, tất cả những điều này không cho phép chúng ta bỏ qua, không
nhìn thấy, những viễn ảnh mang tính kỹ thuật của những tên hiện đại hoá
phân biệt sắc tộc, hận thù mầu da (the racist modernizers), tức những
kẻ điều hành dịch vụ diệt chủng. Những kẻ nhìn thấy tính hiện đại của
những gì mà chúng đang làm, là một sự chứng tỏ, xác nhận cho tính siêu
việt sắc tộc của chúng. Ở đây, chúng ta lại gặp thiên tài Arendt, khi
bà nhìn ra, rằng, "không có mâu thuẫn, trục trặc, trật bản lề chi hết,
giữa cơ sở dịch vụ hiện đại và ý thức hệ dã man (there is "no inherent
contradiction between modern business organization and barbaric
ideology").
"Thế hệ Unbedingten", khảo sát của
Michael Wildt, về nhóm chóp bu an ninh dưới quyền Himmler’s Reich
Security Main Office (RSHA), là một tác phẩm lớn theo tất cả mọi nghĩa
của nó. Trên 900 trang, cuốn sách của ông làm nhiều người quan tâm và
khen ngợi tại Đức. Ở đây, chúng ta lại thấy những con người giữ chức vụ
quan trọng (key role) trong vụ làm cỏ tập thể "hiểu những gì họ đang
làm và muốn làm những việc đó". Và không thể có chuyện (in no way)
Adolf Eichmann chỉ là một người nhận mệnh lệnh cấp trên (a mere
"recipient of orders).
Thành lập sau khi cuộc chiến vừa bắt
đầu, RSHA là lực lượng anh ninh quốc gia (bao gồm cả cơ quan Gestapo và
cảnh sát điều tra hình sự), cùng với Sở An Ninh SS, bộ sậu này tạo
thành một định chế nhằm tiêu diệt những kẻ thù sắc tộc của Volk [Tộc,
Dân Tộc Đức], và không bị một cuỡng chế pháp lý nào hết, [nghĩa là tha
hồ giết mà không có tội]. Với Reinhard Heydrick là người cầm đầu, RHSA
trở thành "cái" mà Wildt mô tả, là "the executive of
Volksgemeinschaft". Lục lọi trong mớ tài liệu lớn lao, dàn trải, tác
giả lôi ra chừng 200 vị lãnh đạo của cơ quan này, với chi ly chi tiết
về lịch sử cuộc đời của từng vị, tầm nhìn, ao ước, tham vọng, và sự
nghiệp của họ, trước vào sau 1945 (trong số, có cả một tay cựu viên
chức SD, sau này trở thành điều hành viên (manager) của một nhà xb Đức,
nơi đã từng in cuốn sách của Arendt viết về Eichmann). Và, lẽ dĩ nhiên,
những tội ác của họ.
Cái đích mà tác giả Wildt nhắm, là nằm
ngay ở nhan đề cuốn sách, dịch "mot à mot" có nghĩa là, "Thế hệ của
những tên vô độ, phá giới" [vô độ, phá giới, theo nghĩa, không có giới
hạn nào hết, tha hồ giết người mà không phạm tội, trong điểm sách,
Bessel dịch là: the "generation of the unbound"].
Đây là một nghiên cứu những con người
sinh đúng vào bước ngoặt của thế kỷ, những kẻ đã trải qua Cuộc Thế
Chiến I như là những đứa con nít hay thiếu niên, những kẻ tới tuổi
trưởng thành vào đúng lúc xẩy ra cơn khủng hoảng thời kỳ hậu chiến, và
bị ảnh hưởng thấm đẫm tư tưởng cực hữu tràn ngập đại học Đức vào những
năm cuối chế độ Cộng Hoà Weimar. Những kẻ đã phối hợp: a) tài học đáng
nể của họ, b) khả năng tổ chức, và trí thức, c) chấp nhận ý thức hệ
phân biệt sắc tộc, và sau cùng, d) một quyết tâm tàn nhẫn, sẽ hoàn
thành sứ mệnh, trong mọi tình huống, với mọi biện pháp mang tính thù
hận sắc tộc.
Khi lên trời cũng chiều người. Nazi lên
nắm quyền, cuộc chiến bùng nổ, và Nazi chiếm đóng vùng Đông Âu, tất cả
những sự kiện đó như phụ họa cho quyết tâm giết người vô độ, của thế hệ
phá giới. Những sự kiện lịch sử như trên đã cung cấp cho thế hệ phá
giới quyền giết người một cách hợp pháp, theo như định chế, với một
quyết tâm, gặp kẻ thù khác mầu da, là làm thịt! (nguyên văn: một quyết
tâm như thế đã có thể kiếm cho chính nó một diễn tả giết người: such a
determination could find its murderous expression). Như Klaus Mann (con
trai của Thomas Mann) đã tiên tri, ở trong nhận ký của ông đề ngày 30
[lại ngày 30], tháng Giêng, 1933, ngày mà Hitler trở thành Reich
Chancelor, nước Đức đã trở thành một miền đất chuyện gì cũng có thể làm
được (nguyên văn: miền đất của những khả thể vô giới hạn, "the land of
unlimited possibilities". Được tuyển dụng bời Reinhard Heydrich và
Werner Best, sau khi Hitler lên cầm quyền, "thế hệ những tên phá giới"
thấy sự nghiệp của chúng lên như diều gặp gió, trong thập niên 1930, và
trong thời gian chiến tranh, chúng phá bung, coi như "pha", những rào
cản cuối cùng về đạo đức, văn hóa, cách ở đời, của những xã hội văn
minh, và trở thành những cánh diều bay cao, bầu trời bao la cũng không
giới hạn, kiềm chết nổi quyết tâm của thế hệ phá giới, trong công cuộc
kìm tiếm, săn bắt mọi "giải pháp cách mạng" (revolutionary solutions),
cho những vấn đề mà chúng đụng phải. Những con người, được sửa soạn để
làm bất cứ chuyện gì, nhân danh "nghĩa cả" [làm thịt Do Thái], sẽ thấy
họ ở trong một vị trí mà họ có thể làm bất cứ một chuyện gì.
Những gợi ý ở trong nghiên cứu của Wildt
thật sâu thẳm. [Bạn đọc có cảm giác, có thể áp dụng vào bất cứ một chế
độ độc tài toàn trị, ngay từ khi nó manh nha, khi nhân danh một "nghĩa
cả" nào đó.] Cuốn sách khỗng lồ của ông nối kết những sự kiện rối bời
của thời kỳ Weimar, với những điều ghê rợn. khủng khiếp tiếp liền sau
đó, của thời kỳ Đệ Tam Reich. Ít cuốn sách nào làm được điều này. Cuốn
sách chứng minh, tính quan trọng quyết định, của bạo động và những vụ
giết người xẩy ra vào tháng 9 năm 1939, là một bước tới quan trọng (key
step), chuyển sự đàn áp của cảnh sát thành diệt chủng (racist
genocide).
Tất cả hợp lại, chúng cung cấp cho chúng
ta một tia sáng mới mẻ, tinh khôi, khi nhìn vào chủ nghĩa Nazi và những
tội ác do nó gây ra, và từ đó, có thể thấy ra rằng, một cái nhìn mới
mẻ, dựa trên những sự kiện mới được khui ra như thế, đã "xói mòn"
(undermine) đề án về "tính tầm phào của cái ác" của Arendt.
Theo Wildt, đề án này (cái ác cà chớn),
chỉ diễn tả một me xừ Eichmann vào năm 1961, khi đang ngồi như là một
bị cáo ở toà án Jerusalem, hơn là một ngài Eichmann vào những năm rạng
ngời tại bàn giấy, từ năm 1935 tới 1945.
Theo Richard Bessel, người điểm sách
trên tờ TLS, cuốn của Wildt là một trong những nghiên cứu quan trọng
nhất về nước Đức Nazi, đã từng được xuất bản, trong những năm gần đây.
(Cuốn này đang đợi được dịch qua tiếng Anh).
Jennifer Tran giới thiệu