Slavoj Zizek
Il travaille
comme un DJ frénétique, mixant la haute culture et l'industrie des
loisirs,
la philosophie la plus abstraite et les blockbusters
hollywoodiens.
Repères
1949. Naissance à Ljubljana,
dans l'ex-Yougoslavie: il est le fils unique d'un économiste et d'une
comptable. 1967-1971. Études de philosophie et de sociologie à
l'université de Ljubljana,
puis de
psychanalyse à Paris-VIII, avec François Regnault et Jacques-Alain
Miller.
1971. Assistant chercheur à Ljubljana
avec la promesse d'obtenir une chaire, il en est écarté sous prétexte
que sa
thèse est « non marxiste ».
1972. Publie ses premiers livres en slovène, très influencés par
Heidegger.
1979. Nommé chercheur à l'Institut de sociologie de l'université de Ljubljana, poste
qu'il
occupe toujours.
1989. La parution, directement en anglais, de The Sublime Object of
Ideology
(non traduit en français) lance sa carrière internationale.
1990. Impliqué depuis dix ans dans les mouvements contestataires
slovènes, il
est candidat, sous les couleurs du Parti démocrate libéral, à la
première
élection présidentielle libre du pays.
1999. Le Sujet qui fâche (éd. Flammarion, 2007), son grand
livre «
sérieux », avec La Parallaxe (éd. Fayard, 2008).
2000. Multiplie, à partir de cette date, les interventions en Amérique
du Nord.
2004-2005. Plaidoyer en faveur de l'intolérance (éd. Climats),
puis Bienvenue
dans le désert du réel (éd. Flammarion), dans lesquels il critique
l'idéologie « post moderne ».
2005. La documentariste américaine Astra Taylor lui consacre un film: Zizek!
2009. Organise avec Alain Badiou, à l'Institut Birbeck de Londres, dont
il est
le « directeur international », le colloque « On the Idea of Communism
» (avec
des interventions de Jacques Rancière, Jean-Luc Nancy, Toni Negri...
actes
publiés chez Lignes sous le titre L'Idée du communisme).
2010. Parution en France
d'Après la tragédie, la farce! (éd. Flammarion).
Những tình
cờ cố ý.
Tình cờ, mua số Le Magazine, thấy bài viết Qui a peur de Slavoj
Zizek? Ai sợ… GNV?, cái tít này cũng có tí lai
lịch.
Tình cờ mua tờ London Review of Book, 9 Sept 2010, thấy lời giới thiệu
bài viết
của ông, trên tờ New Left Review, www.newleftreview.org
ở bìa sau thật bắt mắt (1).
Tình cờ đọc loáng thoáng, bài viết về tờ báo điện ảnh Cahiers du Cinéma, trong
cùng số báo, lại thấy tên ông mở ra bài viết (2)
Nhưng phải đến khi xuống phố,
mò vô tiệm sách cũ, vớ được đúng 1 cuốn của ông,
thì mới hiểu ra, những tình cờ ở trên, đều là để sửa soạn, hãy đọc cuốn
này.
Cuốn sách tuyệt thật.
Bạo Lực
Từ từ TV sẽ giới thiệu về nó.
(1) Slavoj Zizek: One thing is
clear:
after decades of the welfare state, we are now entering a period in
which a
kind of economic state of emergency is becoming permanent. It brings
with it
the threat of far more savage austerity ... Ours is thus the very
opposite of
the classical early 20th-century situation, in which the left knew what
had to
be done, but had to wait patiently for the proper moment to do it.
Today we do
not know what we have to do, but we have to act now, because the
consequence of
non-action could be disastrous.
(2) IN AN ESSAY on Avatar in
the March
issue of the French film journal Cahiers du cinéma, Slavoj Zizek wrote
that,
despite its superficial espousal of revolutionary action (by
blue-skinned
aliens rising up against earthling exploitation), the film was in fact
entirely
reactionary.
*
Trên TV đã
từng giới thiệu Slavoj Zizek, cuốn Did
somebody say totalitarianism? Ai nói chủ nghĩa toàn trị đó?
Cuốn này
cũng thật tuyệt. Có nhiều anecdotes thật thú vị. Thí dụ như về nhà soạn
nhạc
Shostakovich. GNV đọc trên tờ The New Yorker, trong bài nhà soạn nhạc ở
phiá lề
nào, phải hay trái, nhưng Zizek, chi tiết hơn. Bữa nào rảnh kể về tay
này cũng
thú lắm, nhân đó, nghĩ về những đấng Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn Cao...
(1)
Đọc Sách: Nhìn lại chủ nghĩa
toàn trị.
Đúng ra phải nói, một cách nhìn mới, về một chủ nghĩa đã
cũ, bởi vì cuốn
sách người viết giới thiệu sau đây, "Người nào nói chủ nghĩa toàn trị
đó?" (Did someboby say totalitariarism?, nhà xb Verso, London, in lần
đầu
năm 2001) của Slavoj Zizek, gồm 5 tiểu luận, là một nghiên cứu chủ
nghĩa toàn
trị, như là một mạng nhện những anh em bà con của nó. Kết luận cuốn
sách mà tác
giả đưa ra thì thật đầy tính gây hấn: Nếu chi tiết là cái tối hậu [lấy
ý từ
câu, "Nếu không phải Thượng Đế, thì là Quỉ, nằm trong chi tiết",
người viết bài này ghi chú], như vậy, Quỉ không hẳn nằm ở trong chi
tiết của
cái tạo thành chủ nghĩa toàn trị, cho bằng nằm trong cái tạo thành
chính cái
chỉ danh của sự đồng thuận tự do dân chủ. (The devil lies not so much
in the
detail of what constitutes totalitariarism as in what enables the very
designation totalitarian: the liberal-democratic consensus itself).
Slavoj Zizek là trí thức hàng đầu trong những phong trào
xã hội mới ở Trung
Âu và Đông Âu. Ông là nhà nghiên cứu cấp cao, Senior Researcher, tại
Học viện
Nghiên Cứu Xã hội, Ljubljana, tại Slovenia, (thuộc Nam Tư cũ). Ông
chuyên về
phê bình phim ảnh chính trị văn học. Một số tác phẩm của ông gồm có:
The
Sublime Object of Ideology, Everything you always wanted to know about
Lacan
(but were afraid to ask Hitchcock)... tất cả đều do Verso, London, xuất
bản.
Trong bài viết đã đăng trên Việt Báo online, nhân cuộc
chiến Iraq bùng nổ,
"Tất cả những gì một nhà thơ có thể làm, ngày này, là cảnh báo",
chúng ta tự hỏi, cảnh báo cái gì? Một trong những cảnh báo nghiêm trọng
nhất,
theo người viết bài này, là do Slavoj Zizek đề ra, trong cuốn sách kể
trên, về
chủ nghĩa toàn trị, mà kết luận đầy tính gây hấn của cuốn sách đã đặt
ra: Liệu
con quỉ toàn trị lại xuất hiện, dưới danh nghĩa của cái gọi là "Sự Đồng
Thuận Tự Do Dân Chủ"?
Cuốn "Ai nhắc tới mấy ông thần Đỏ đó?" [đúng ra là, "Ai
nói
tới chủ nghĩa toàn trị đó?"], của Slavoj Zizek, tuy khó đọc, lẽ dĩ
nhiên,
nhưng thật vui, vì tính gây hấn, cũng như vì cách đặt vấn đề, và những
"giai thoại" ở trong đó. Thí dụ như cách tác giả trình bầy vấn đề
diệt chủng giữa những sắc dân tại Nam Tư cũ, cách Tây Phương xử sự với
những
nhà độc tài như Milosevic và Saddam Hussein, từ đó, có thể đưa đến kết
luận,
chiến tranh Iraq, dù vi phạm công pháp quốc tế gì gì đó, là vô phương
tránh
khỏi.
Mô phỏng câu thơ nổi danh của thi sĩ Đức, Holderlin,
"Tại sao thi sĩ
trong thời khốn khổ", phần kết luận của cuốn sách mở ra bằng câu hỏi,
"Tại sao bần cố nông trong thời đẫm thơ?" [What are the destitute
(proletarians) for in a poetic time?], tác giả "cẩn trọng" những độc
giả của ông, rằng sau sự phá sản của Chủ Nghĩa Xã Hội, bóng ma của sự
"đe
dọa mang tính toàn trị" đã sống sót, dưới ba dạng: a) những kẻ theo chủ
nghĩa chính thống tông giáo-chủng tộc, thường được nhân cách hóa ở
những nhà
Độc Tài Ma Quỉ (Evil Dictators), như Slobodan Milosevic, Saddam
Hussein, hay
‘những nhà độc tài khùng điên’ của Thế Giới Thứ Ba, b) sự lớn mạnh của
chủ
nghĩa dân túy Tân Hữu Phái (the New Right populism) ở ngay tại Tây
Phương, và
sau cùng, c) Ông Anh Bự thuật số, (the digital Big Brother).
Biến cuộc đời của chúng ta thành những con số (the
digitalization) là đe dọa
tối hậu cho tự do con người. Chẳng bao lâu nữa, cuộc sống hàng ngày của
chúng
ta sẽ được đăng ký, được kiểm tra – "được", là do có sự đồng ý của
chúng ta ở trong đó – tới mức mà tất cả mọi hình thức nhà nước "cộng an
trị" giống như một món đồ chơi con nít, và chỉ đáng xách dép cho nó.
Thế
là đi đoong cõi riêng tư (end of privacy)!
Hãy bắt đầu với hình thức thứ nhất. Theo tác giả cuốn
sách chúng ta đang bàn
tới, có một sự hiểu lầm cơ bản, theo như cách mà những nhà nước tự do
Tây
Phương - như là những con đẻ của thời kỳ Soi Sáng - đã hiểu và sau đó,
đã đối
xử với những chế độ theo chủ nghĩa chính thống hiện nay, với những
nguòi cầm
đầu như Milosevic và Hussein: những chế độ chẳng sợ cây gậy, mà cũng
chẳng màng
đến củ cà rốt! Mọi áp lực từ phía Tây Phương kể như chẳng nhằm nhò gì
chế độ
ta! Ném bom thì kệ ném bom, cắt đất cắt biển thì cũng chẳng đụng tới
mái nhà
mảnh vườn của ta, cách ly, cấm vận, hoặc cấm ta nói chuyện với hàng
xóm, với
cộng đồng thế giới thì ta về ta tắm ao ta, làm nhục ta bằng đủ mọi cách
thì ta
vẫn sống nhăn răng, nghĩa là ta cứ thế thách đố cái gọi là Trật Tự Mới
của Thế
Giới.
Không phải nhờ vậy mà ta "biến đau thương thành hành
động, hoặc thành
hận thù, như những ngày còn chiến tranh", ấáy chết xin lỗi, biến thất
bại
thành thành công. Nhưng, giống như một thiền sư, chẳng màng tới thế sự,
những
nhà độc tài như thế đó, cứ ngồi bảnh chọe trong những lâu đài của họ,
và lâu
lâu lại làm một cử chỉ đẹp, thí dụ như, trong những ngày NATO mưa bom
Nam Tư,
ông con trai của nhà độc tài Milosevic, đã khánh thành một thiên đàng
hạ giới
dành cho con nít, tức là một vườn chơi trẻ em Disneyland. Hay như
Hussein cho
xây một công viên giải trí cho tầng lớp tinh anh của chế độ!
Vậy sự nhầm lẫn của Tây Phương do đâu mà ra? Nhìn tình
hình trên qua những
thấu kính của sự đối nghịch, giữa, một bên là cuộc truy tìm hạnh phúc
theo một
đường lối duy lý coi đây là mục đích tôi hậu của cuộc sống, và một bên
là chủ
nghĩa cuồng tín mang tính ý thức hệ, chúng ta đã bỏ qua không để tới
một cặp
đối nghịch khác, giữa một bên là thờ ơ, lãnh đạm (apathy), và một bên
là sự tục
tĩu (obscenity). Sự thờ ơ lãnh đạm nổi bật trong cuộc sống hàng ngày ở
Serbia,
không diễn tả tâm trạng vỡ mộng, mất hết ảo tưởng đối với phần tử đối
lập với
Milosevic, mà là một sự lãnh đạm sâu xa hơn, với những mục tiêu, hay
những giá
trị thiêng liêng thuộc loại quốc hồn quốc túy. Làm sao người dân Serb
đã không
kết hợp lại với nhau để chống Milosevic khi ông ta để mất Kosovo? Bởi
vì họ
"đếch cần" (they really don’t care about) Kosovo. Và khi mất, họ thở
phào một cách nhẹ nhõm: vậy là sau cùng thoát khỏi mảnh đất "thánh",
đã quá làm phiền chúng ta!
Theo tác giả cuốn sách, vấn đề không phải Tây Phương
"nên", nhưng
mà là "không nên" xử sự [the problem is not much what the West should
or should have done, but what it should "not" do), với một Nam Tư của
Milosevic, hay Iraq của Hussein. Không hiểu ông có đọc chuyện Tam Quốc
hay
không, nhưng đề nghị của ông xem ra giống... Tào Tháo, trong cách đối
xử với
đám con của Viên Thiệu: chẳng làm gì cả, khoanh tay ngồi chờ tụi nó
giết lẫn
nhau. Như ông đưa ra thí dụ sau đây:
Cách đây chừng một năm, đài truyền hình Áo đã thực hiện
một cuộc nói chuyện
giữa ba người, một Serb, một Albanian, người nào cũng bảo vệ quyền lợi
của sắc
dân mình theo một đường lối hợp tình hợp lý, và người thứ ba, là một
hòa bình
gia người Áo (Austrian). Ông hòa bình gia năn nỉ hai ông kia: Thôi đừng
giết
lẫn nhau nữa, hãy cố gắng cưỡng lại thù hận..., nghe tới đó, hai ông
thù nghịch
đưa mắt nhìn nhau, nháy nháy thông cảm, rằng, tại sao lại có thằng
khùng như
thằng này, nó chẳng hiểu gì hết trơn hết trọi! Trong cái nháy mắt thông
cảm đó,
tác giả cuốn sách mà chúng ta đang nói tới hiểu ra được một điều là, có
chút hy
vọng, trong vấn đề Nam Tư cũ, giữa những sắc dân tại đây: nếu ông Serb
và ông
Albanian, hai kẻ thù không đội trời chung đó, thay vì giết lẫn nhau, họ
họp lại
làm thịt anh hòa bình gia (pacifist), như vậy là còn có chút hy vọng
cho Nam Tư!
Để tránh mọi hiểu lầm, Zizek, tác giả cuốn sách "Ai nói
tới chủ nghĩa
toàn trị đó" giải thích: Tôi hiểu, thật dễ dàng khi chế nhạo một ông
muốn
sống chung hòa bình mà yếu xìu, chẳng có quân đội, quyền lực gì ở trong
tay.
Tuy nhiên, cái nháy mắt thông cảm giữa hai ông quốc gia đời đời thù
nghịch là
Serb và Albanian, là: họ ngỡ ngàng, không phải vì ông hòa bình không để
ý đến
tính phức tạp tôn giáo, chủng tộc của vùng Balkan, mà họ nghĩ, ông hòa
bình
quan trọng hóa những vấn đề đó, giản dị là vậy, trong khi thực thế, hai
ông thù
nghịch, thay vì bị chết cứng ở trong những huyền thoại kéo dài hai ngàn
năm như
thế, họ đã lợi dụng, lèo lái chúng, để thủ lợi.
Đâu có khác gì "huyền thoại" "... sông có thể cạn núi có
thể
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi"!
Jennifer Tran giới thiệu
Ai lèm
bèm về chủ nghĩa toàn
trị đó?