|
Thơ
Mỗi Ngày
FORGETTING
CLOUDS
The quiet
morning has a few cloud friends
that are
gone when I look for them again
in this one
summer to which I have come
after
everything that I remember
what can I
call it before it has gone
it does not
hear me and does not know me
it passes
without seeing I am here
it is only
me going my own way
there is no
one else who can forget it
-W. S.
Merwin
The New
Yorker, April, 21, 2014
Quên Mây
Buổi sáng yên
tĩnh có vài cụm mây bạn
Khi Gấu nhìn
lại thì họ đi rồi
Trong một mùa
hè mà Gấu tới
Sau khi mọi
thứ mà Gấu nhớ
Điều Gấu gọi
trước khi bỏ đi
Không nghe Gấu
gọi mà cũng chẳng biết Gấu
Đi, chẳng thèm
biết Gấu đang ở đây
Vậy là chỉ có
nhõn một mình Gấu trên con đường của riêng Gấu
Chẳng có ai
khác nữa có thể quên nó
RUTH
In memory of Ruth
Buczynska
She survived
the war in Tarnopol. In darkness and semi-darkness. In fear.
She was
afraid of rats and heavy boots, loud conversations, screams.
She died
just now, in darkness, in a hospital ward's white quiet.
She was a
Jew. Sometimes she didn't know what it meant.
. It's
simple and incomprehensible, like algebra.
At times she
tried to work it through. The Gestapo knew exactly what it meant
to be a Jew.
The great philosophical tradition helped,
definitions
sharp as knives, direct as a Buddhist arrow.
She was
beautiful. She should have died then, like the other men and women,
vanished
without a trace, gone without elegies, like so many others,
like the
air, but she lived a long time, in daylight, in the sun,
in the daily
air, the oxygen of ordinary Krakow.
Sometimes
she couldn't understand what beauty meant.
The mirror
kept still, it didn't know the philosophical definitions.
She didn't
forget those other times, but rarely
spoke of
them. Once only she told this story:
her beloved
cat wouldn't stay put in the ghetto, twice
it slipped
back to the Aryan side at night. Her cat
didn't know
who Jews were, what the Aryan side meant.
It didn't
know, so it shot to the other side like an arrow.
Ruth was a
lawyer and defended others. Maybe that was why she lived so long.
Because
there are so many others, and they need defending.
Prosecutors
multiply like flies, but the defenders are few.
She was a
good person. She had a soul. We know what it means.
-Adam
Zagajewski
(Translated
from the Polish by Clare Cavanagh)
Ruth
Tưởng
niệm Ruth Buczynska
Bà sống sót
cuộc chiến ở Tarnopol.
Trong
bóng tối và chập choạng tối. Trong sợ hãi.
Bà sợ chuột,
tiếng giày đinh, chuyện lớn tiếng, la thét.
Bà mới chết đây,
trong bóng tối, trong cái yên tịnh màu trắng của một bịnh viện
Bà là một người
Do Thái. Đôi khi bà không hiểu điều đó nghĩa là gì.
Nó giản
dị, và không thể hiểu được, như môn đại số
Đôi khi, bà cố giải cho ra. Gestapo hiểu rất rõ Do Thái nghĩa là
gì.
Truyền
thống triết học lớn giúp, những định nghĩa sắc như dao, thẳng một lèo
như
mũi tên
Phật Giáo.
Bà thì đẹp.
Bà đúng ra thì đã chết rồi, khi đó, như những người đàn ông và đàn bà
khác,
Biến
mất không để lại dấu vết, không bi khúc, như rất nhiều người khác, như
không khí,
Nhưng bà sống một cuộc đời dài, trong ánh sáng ban ngày, trong ánh sáng
mặt trời,
trong không khí hàng ngày, mỗi ngày, mọi ngày,
Trong khí trời của một
thành phố
Krakow bình thường.
Đôi khi bà
không thể hiểu cái đẹp nghĩa là gì
Gương im, giữ
như cũ, nó không hiểu những định nghĩa triết học
Bà không quên
những thời kỳ khác đó, nhưng hiếm khi nhắc lại.
Chỉ có mỗi một lần, bà
kể câu
chuyện này:
Con
mèo thân thương của
bà không chịu ở trong ghetto,
Hai lần, nó chuồn trở về lại khu Aryan
vào ban đêm.
Con mèo không hiểu những người Do Thái là những người nào, và Aryan
nghĩa là gì.
VIA DEL
TRITONE
In Rome, on
the street of that name,
I was walking alone in the sun
In the noonday heat, when I saw
a house
With shutters closed, the sight
of which
Pained me so much, I could have
Been born there and left
inconsolably.
The ochre
walls, the battered old door
I was tempted to push open and
didn't,
Knowing already the coolness of
the entrance,
The garden with a palm tree
beyond,
And the dark stairs on the left.
Shutters
closed to cool shadowy rooms
With impossibly high ceilings,
And here and there a watery
mirror
And my pale and contorted face
To greet me and startle me
again and again.
"You
found what you were looking for,"
I expected someone to whisper.
But there was no one, neither
there
Nor in the street, which was
deserted
In that monstrous heat that
gives birth
To false memories and tritons.
Charles
Simic
VIA DEL
TRITONE
Ở Rome, trên
con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một mình trong ánh
mặt trời
Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy
một căn nhà
Những tấm màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát, là tôi cảm thấy
quặn đau thốn dế
Mình có thể
sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.
Tường màu gạch
son, cửa cũ, rệu rạo
Tôi tính đẩy cửa, nhưng không
làm
Biết rõ cái lạnh lẽo sau cánh
cửa, lối dẫn vào
căn nhà,
Căn vườn với 1 cây sồi quá nó,
Và những cầu thang u tối ở phía
trái.
Rèm cửa đóng
dẫn tới những căn phòng lờ mờ
Trần hơi bị
thật là cao
Và đâu đó, là một cái gương
long lanh nước
Và khuôn mặt của tôi nhợt nhạt,
méo mó
Ðón chào tôi, và làm tôi giật
mình hoài
"Mi kiếm
ra cái mà mi tính kiếm?"
Tôi uớc ao có ai đó thì thào
Nhưng làm đếch gì có một ai
Ðếch có ai, cả ở trên con phố
hoang vắng
Vào cái giờ nóng khùng điên
Làm đẻ ra những hồi ức dởm
Và những con quái vật nửa người
nửa cá
One poem is
unlike any I've ever read-if it had appeared in the lineup, I might not
have
recognized it as Simic's. "Via Del Tritone" juxtaposes no surreal
images. It begins simply:
In Rome, on
the street of that name,
I was walking alone in the sun
In the noonday heat, when I saw
a house
With shutters closed, the sight
of which
Pained me so much, I could have
Been born there and left
inconsolably.
Simic goes
on to describe the interior, as he imagines it, a garden with a palm
tree, dark
stairs leading to cool rooms with high ceilings. "'You found what you
were
looking for,' / I expected someone to whisper." Never, in his previous
work, has Simic expressed the pain of his exile in such a
straightforward way.
His outsider's status was always an advantage, teaching him that life
was
unpredictable and that anything might happen, as the antic careening of
his
poetry suggests. In this poem his pain and loss blossom like the most
fragile
of tea roses. He hasn't found what he was looking for. How can you
reclaim a
childhood that never was? Simic, unlike Nabokov, has no Eden to recall.
His are
"false memories," phantasms of heat. And as the war rages on in the
place where his childhood should have been, salvage becomes less
possible. The
poet's cries flutter up from the page: "Help me to find what I've lost,
/
If it was ever, however briefly, mine."
Lisa Sack: Charles the Great:
Charles Simic’s A Wedding in Hell
Bài thơ này
thật khác với những bài thơ của Simic. Không có sự trộn lẫn những hình
ảnh siêu
thực.
Via Del Tritone mở ra, thật giản dị:
Ở Rome, trên
con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một mình trong ánh
mặt trời
Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy
một căn nhà
Những tấm màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát, là tôi cảm thấy
quặn đau thốn dế
Mình có thể
sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.
Sau đó, tác
giả tiếp tục tả bên trong căn nhà, như ông tưởng tượng ra…Chưa bao giờ,
trong
những tác phẩm trước đó, Simic diễn tả nỗi đau lưu vong một cách thẳng
thừng
như ở đây. Cái vị thế kẻ ở ngoài lề luôn luôn là lợi thế, nó dạy ông
rằng đời
thì không thể tiên liệu trước được và chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Ở
đây, nỗi
đau, sự mất mát của ông nở rộ như những cánh trà hồng mảnh mai nhất.
Ông làm
sao kiếm thấy cái mà ông kiếm, một tuổi thơ chẳng hề có? Simic, không
như
Nabokov, chẳng hề có Thiên Ðàng để mà hồi nhớ. Chỉ là hồi nhớ dởm, do
cái nóng
khùng điên tạo ra. Và chiến tranh tàn khốc xẩy ra ở cái nơi đáng lý ra
tuổi thơ
xẩy ra, làm sao có cứu rỗi? Và tiếng la thét của nhà thơ vọng lên từ
trang giấy:
Hãy
giúp tôi tìm cái mà tôi đã mất/Cho dù nhỏ
nhoi, cho dù chốc lát, cái tí ti đã từng là của tôi.
Đây có lẽ là
bài thơ tuyệt vời nhất của Simic, với GCC. Không còn tí siêu thực, mà
cái đau lưu
vong mới ghê gớm làm sao.
Mi đừng đụng tới nó, không là nó biến mi thành lưu
vong, là bỏ mẹ mi, như 1 lần ông cảnh cáo mưa gió Mẽo!
Wind
Touching me,
you touch
The country that has exiled you.
Gió
Mi sờ vô ta
Là mi sờ vô cái xứ sở đã biếm mi, đày mi,
Làm ngọn gió lưu vong
Charles Simic
Beckett
FB Do Khiem
Thơ trẻ
hôm nay chưa tới, những chắc chắn ngày mai sẽ tới.
Câu này tôi mượn từ một vở kịch nổi
tiếng của nhà văn Nobel văn chương người Ái Nhĩ Lan, Samuel Beckett:
"Ngài Godot bảo tôi nói với mấy ông là chiều nay ông ta không tới,
nhưng chắc chắn ngày mai sẽ tới."
Hy vọng có bạn ở trong bữa tiệc chiều nay, khi thơ chưa tới.
Khi thơ của tôi không dành cho bạn. (2)
Lướt net, tình
cờ đụng 1 trang cực bảnh: Văn Vịt.
Sau Da Mùi, Hạ Vệ, đọc cái tít,
là biết
ngay, lại mấy ảnh rồi.
Thua em HT:
Godot chưa tới đâu!
Note: Câu của em HT, GCC
coi lại, "khiêm tốn" y chang câu của chính Beckett:
Typical Sentence
"Let us not
then speak ill of our generation, it is not any unhappier than its
predecessors." ("Waiting for Godot") (1)
[Đừng nói bịnh về thế hệ chúng ta. Nó cũng không hạnh phúc hơn thế hệ
đường ra trận mùa này đẹp lắm!]
Th
Golden Rule
Never to compromise.
Estragon’s trousers have to fall all the way down at the end of
"Godot". The action and dialogue of "Play" has to be repeated, by
actors who are up to their necks in urns. Whole novels can go by
without a paragraph break. Both his novels and plays require
concentration, and a stomach for repetition. But they reward the
persistent
Luật Vàng
Không bao giờ, chớ khi nào
thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất “củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần
Estragon tụt dài dài, tụt suốt, cho tới khi chấm dứt “Godot”. Hành động
và đối thoại của “Play” phải lập lại, bởi những nghệ sĩ, diễn viên mà
tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ. Trọn những cuốn tiểu
thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả kịch lẫn tiểu
thuyết của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ dày,
cho sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố
chấp, “thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Đừng thành công, Alain
phán, là vậy!
Saul
Friedlander
[Kafka]:
Le
poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự
tủi hổ và phạm tội
Kafka n'était
pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait
des métaphores
et des associations inattendues, il racontait
des histoires, il était
poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles
soient
directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur,
mais ces
allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas
une foi
religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.
KL vs VC
Show Khánh
Ly bị đòi tiền tác quyền trước giờ diễn
« Je suis
sale, Milena, infiniment sale, c'est pour cela que je hurle autant sur
la pureté,
Personne ne chante plus purement que celui qui habite le plus profond
enfer -
c'est ce chant que nous prenons pour le chant des anges. »
Franz Kafka
Tôi thật là
dơ, Milena, cực kỳ dơ, chính vì thế mà tôi thèm đến phát điên lên, la
đến
khùng lên, sự trong trắng, trinh nguyên. Không ai có thế hát trinh
nguyên,
trong trắng, như là kẻ ở đáy địa ngục – đó là tiếng hát mà chúng ta coi
là của
thiên thần.
Saul
Friedlander: [Kafka]: Le
poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự
tủi hổ và phạm tội
Trois
regards pour dépayser Kafka
Le Magazine
Littéraire, Janvier 2014 số đặc biệt về Kafka, kẻ phạm tội viết.
Mưa
Mưa rào. Giữa
hai cửa sổ
Một con ruồi
đập cánh hàng giờ đồng hồ
Trời nặng như
mùa thu,
Trong căn phòng
không làm sao thở được
Tôi thương
Kafka
Ông chẳng bao
giờ có dù
Ngồi trên giường
áo khoác ướt đẫm
Mân mê chiếc
mũ, ông nói:
Bữa nay
Prague mới âm u làm sao
Đây là đòn Hồi
Mã Thương mà GCC thường hay lèm bèm, của... Lịch Sử, đáp lễ cặp
Tình Nhân
Số 1 của Xứ Mít, thời "nhiễu nhương" - chữ này không phải của GCC mà
của bạn Cà!
Hai đứa mi đã giúp Con Quỉ Chuồng Lợn, làm thịt Miền Nam, ta đã cho mi
cơ hội
chuộc tội, khi, cũng vẫn tiếng hát ma quỉ của mi đó, cũng những bài hát
làm mất
nước đó, lại được cất lên từ đáy mồ biển cả, từ đáy ngục VC....
Nhưng mi bò
về hầu đờn Bắc Bộ Phủ, thì thôi đành để VC nó đá đít mi!
Cái chuyện hải
ngoại “buồn” chuyện KL về hầu đờn Bắc Bộ Phủ, là có cái lý của nó.
Ai
về thì cũng
được trừ KL. Hơn ai hết, KL quá biết điều này.
Khi PD về, ông ta nói, người ta ghen với sự thành công của
tui.
“Không
thành công” mới khó, chứ “thành công”, dễ ợt, với những đầu óc Bắc Kít
cực kỳ
thông minh, như PD, Sến Cô Nương, Nobel Toán, KL…. Với họ, phải “không
thành
công”, theo cái ý của Alain, dậy trò là Simone Weil cơ.
Não của đám này thiếu một
mẩu, như GCC từng nói, là theo ý này.
Weil mà không thông minh sao. Vậy mà bà
không vướng lụy trần, chính là vì bà đứng về phe nước mắt, đúng cái
nghĩa của từ
này, ý này, khi phán, ngày Nazi vô Paris là “Ngày Hội Lớn” của đám cô
lô nhần,
trong địa ngục thuộc địa của Tẩy.
Quái nhất là
Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Bắc Kinh, não của đám
này cũng
sứt một mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri con người!
Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ
phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng
Nobel Toán!
Thú vị
quá, với riêng Gấu, Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!
“Tôi
nói với Tông Tông Mẽo, Obama, đám Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, bộ não của họ bị
thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người”.
Đức Dalai Lama nói với tôi, [ký giả Jonathan Mirsky của tờ NYRB] trong
lần lèm bèm giữa chúng tôi tại London vào giữa Tháng Sáu, 2012
Man is not merely one who
lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông
thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi
là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ, sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
Trong
"Lessons of the Masters" [Harvard University Press, bìa mỏng, 2005],
ông 'nghiên cứu sinh' Steiner vinh danh Alain, một trong những Vị
Thầy Suy
Tưởng, Maitres à Penser. Steiner viết, Alain - thầy của
Simone Weil,
André Maurois - dậy học trò một câu thật quái dị: đừng thành công
[ne pas
réussir]. Và đây là, theo Alain, luật tối thượng về đạo đức, the
supreme moral
rule.
Sài
Gòn là Gấu, và Gấu là Sài Gòn. Sài Gòn sẽ chẳng bao giờ hoàn tất đến
như thế, đặc
biệt Sài Gòn đến như vậy, và nó sẽ chẳng bao giờ lại như vậy, như trong
đời của
Gấu, khi ở Sài Gòn!
Gấu “dịch loạn” câu, "Kafka was Prague and Prague was Kafka. It had
never
been so completely and so typically Prague, nor would it ever again be
so as it
was during Kafka's lifetime.
Cái “Sài Gòn là Gấu và Gấu là Sài Gòn”, áp dụng chung cho tất cả chúng
ta, Miền
Nam, và nó là 1 chân lý, bị cố tình hiểu lầm ra là, toan tính phục hồi
cái xác
chết VNCH. (1)
Trước 1975,
thời gian thờ Cô Ba, Gấu gần như chẳng hề biết đến 1 sinh hoạt nào
khác, nhạc
nhiếc, sách xiếc… kể như vờ hết. Bởi thế mà thời gian ở trại lao động
cải tạo tù
Đỗ Hòa, Nhà Bè, buổi sáng chủ nhật, không phải đi lao động, sau khi Gấu
Cái thăm
nuôi lần đầu, có tí đồ ăn ngoài đời, bèn tổ chức 1 cái tiệc nhỏ, giữa
đám tù
quen thân, và bất thình lình, 1 trong số đó bèn cất tiếng hát, bài Ngày
mai đi
nhận xác chồng. Đó là lần đầu tiên Gấu được nghe, và, bởi vì cũng đã
từng đi nhận
xác người thân tử trận, Gấu trúng đòn liền. Chuyện này đã lèm bèm đôi
ba lần rồi,
lần này, là để làm mồi, để kể về lần nghe KL ca, ở Trại Cấm Sikiew.
Hà Nội Gió. TMT
Thu 2014
Tựa hồn những năm xưa
The
Necessity of Loneliness
Zweig
1914-2014
Mặt Trận Miền
Tây Vưỡn Yên Tĩnh, cuốn tiểu thuyết best-seller nhất của thế kỷ!
Thua "Lỗi Buồn Chiến
Tranh" của Bảo Ninh:
Không giống như Mặt Trận Miền Tây Vẫn
Yên Tĩnh, đây là một cuốn tiểu thuyết không chỉ về chiến tranh. Một
cuốn sách về chuyện viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện
tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in
lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn].
Viết
Ngày
Viết bên lề
"Bên Thắng Nhục
Will Geography Decide Our
Destiny?
Địa dư quyết định số phận
của Mít,
hay là
The
Revenge of Geography:
What the
Map Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate
Cuộc trả thù của chữ S.
Bài gãi đúng chỗ ngứa [vết
thương hình chữ S] của Gấu Cà Chớn!
Sự trả thù của địa dư cũng là sự trả thù của những giống dân Hời,
Chiêm... đã bị giống dân Mít làm cỏ trong suốt lịch
sử dựng nước của nó.
Khi hết kẻ thù thì nó đè thằng em Nam Bộ ra “phán, trảm, làm thịt, đưa
đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ….”
Bài này
NYRB đếch cho đọc free. Tin Văn sẽ scan, và dịch sau, hầu độc giả, thay
vì kiếm đọc Bên Thắng Nhục!
LA GÉOGRAPHIE,
MOTEUR DE L'HISTOIRE
Les vallées,
les côtes, les montagnes et les steppes font bien davantage l'histoire
que les idéologies.
Au Moyen Age déjà, Ibn Khaldoun l'avait compris : la géoqraphie forge
non
seulement le caractère mais aussi l'avenir des peuples. Les cartes ont
beau être d'invention
récente et perdre chaque jour de leur pertinence, c'est encore l'esprit
des
lieux qui explique
le destin du monde arabe, de la Chine, de l'Europe ou des Amériques.
MAUSE
RUTHVEN. The New York Reriew of
Books.
Note: GCC
không kiếm ra tờ NYRB, nhưng lại kiếm thấy bản dịch, trên tờ Books.
Chính là cái
khí hậu tàn nhẫn của 1 miền địa lý khắc nghiệt, là xứ Bắc Kít, quyết
định phần
số dân Mít.
Note: Đọc
loáng thoáng, thì thấy bài của Julia Kristeva tuyệt nhất: "Ông ta tin
cái chết, sự ghê rợn; đó là phận người"
["Il
croit que la mort, l'horreur; c'est l'être]
Câu chửi nặng
nhất, là của Sartre: "Nếu Céline tin vào Quốc Xã bài Do Thái, thì bởi
là
vì, ông ta đã được trả tiền"
[Si Céline a
pu soutenir les thèses socialistes de l'antisémite c'est qu'il était
payé].
Post trên Thời Mới, số 3, cuối 1945.
Céline lúc đó lưu vong, không đọc. Khi biết, ông điên lên, viết bài trả
lời,
lầm tên J-P Sartre, [Jean-Paul], thành J-B Sartre [Jean-Baptiste]
GCC's
Novel
Bức ảnh dưới đây là dành cho
Mr Tin Văn Nguyễn Quốc Trụ, một văn hữu của Hoàng Hải Thủy, để Mr Tin
Văn nhìn lại một quyển sách của người thầy học cũ (1)
Roch Cường
là ông thầy dậy tiếng Tây đầu tiên của Gấu. Không nhớ là thời gian học
trường
Văn Hóa của thầy Nguyễn Khắc Kham, ở con hẻm đường Ngô Tùng Châu, Ngã
Sáu, Sài
Gòn, hay là khi học trường Hồng Lạc, đường Sương Nguyệt Anh, gần vườn
Bờ Rô...
Cái này phải mail hỏi NKL.
Khi học
Thành Công, thì nhớ. Thoạt đầu là Chu Tử, Chu Văn Bình, sau Thầy bị
Diệm bắt,
Thầy Đồ Xuất Tỵ thay thế. Ông thầy này có nói với Gấu, mi ráng thi đậu
rồi ta
lo cái vụ du học cho. Ông làm ở Bộ Giáo Dục. Gấu thi đậu, cả ba cái
bằng Trung
học [Đệ Nhất Cấp, Tú I, Tú II], nhưng không kiếm Thầy để nhờ vả. Gấu
thực sự
không có ý du học con mẹ gì hết, bỏ nước ra đi, lưu vong gì gì
cũng không.
Chỉ đến lúc cực chẳng đã, số phận thúc đẩy, đi, không thì chết, vì Cô
Ba, không
phải vì VC, chết lây mấy đứa nhỏ, đúng lúc đó, gặp lại anh bạn Châu Văn
Nam,
làm UPI, thế là bèn có dịp đi, thực, và đi thoát!
Kính
Ông, HHT
Hi, NQT
Cái cuốn của
HTT mà Gấu nghĩ là sáng tác, là Nổ Như Tạc Đạn. Đọc khi đăng fơi ơ tông
mê quá. HTT chơi với Nguyễn Hoạt, ông anh rể của GCC.
Vẫn
nhớ Trụ chứ. Biết ông ở Canada, tôi vẫn đọc bài ông, thường ở báo Văn.
“Giữa những
người đã chết” tôi phóng tác quyển D’Entre les morts của
Boileau-Narcezac. Tôi
không biết ông nhắc đến quyển gì trong thư ông. Tôi có quyển “Yêu Mệt”
phóng
tác từ quyển Le Repos du Guerrier nhưng quyển này không phải của
Boileau-Narcezac. Nghĩ mãi không nhớ ra.
HHT
Yêu
Mệt là từ Le Repos du Guerrier, của Christiane
Rochefort. Bây giờ có
Google, cũng
dễ tra cứu.
GCC không cần tra cứu, vì có
đọc cuốn này, nguyên tác tiếng Tẩy. Nhớ 1 xen, em có chồng là nhà văn,
tức “guerrier”,
cứ cằn nhằn hoài, sao không chịu viết, sao không chịu viết 1 cuốn "tỉu
thiết",
anh nói, không có bàn.
Em bèn mua bàn về, anh bèn đè ngay ra, lên cái bàn,
phán, này viết, viết, viết!
1.8.2014
Chào mừng & Trân trọng giới thiệu tới
độc giả Tin Văn:
Hàng Độc
Thu 2014
giới
thiệu:
Đi
tìm nhành hoa thạch thảo ( Lê Duy Đoàn)
Finding
the Words
In a
book-length elegy, the poet Edward Hirsch confronts the loss of his son.
Trong 1 bi khúc dài bằng
cả 1 cuốn sách, bố thi sĩ khóc ông con trai của mình
I did not
know the work of mourning
Is like
carrying a bag of cement
Up a
mountain at night
The
mountaintop is not in sight
Because
there is no mountaintop
Poor
Sisyphus grief
I did not
know I would struggle
Through a
ragged underbrush
Without an
upward path
And ends:
Look closely
and you will see
Almost
everyone carrying bags
Of cement on
their shoulders
That’s why
it takes courage
To get out
of bed in the morning
And climb
into the day.
Tôi không biết
cái việc khóc lóc, tưởng niệm thì
Giống như vác
bao xi măng lên núi
Vào ban đêm
Đâu nhìn thấy
đỉnh núi
Bởi là vì làm
đếch gì có đỉnh núi
Tội nghiệp
chàng Sisyphus [của Camus]
Phải tưởng tượng
chàng hạnh phúc!
Tôi không biết
là tôi sẽ phải chiến đấu
Với đám bụi gai dưới chân
Bởi vì làm đếch
gì có lối đi lên núi
…
Nhìn thật gần,
thì mọi người đều thế cả
Hầu như ai cũng
vác bao xi măng lên núi
Nhờ thế mà họ
có đủ can đảm
Rời cái giường vào buổi sáng
Để bò vô ngày
Autumn
Day
Robert Hass
SEPTEMBER 19
Rainer Maria Rilke: Herbsttag
Rainer Maria Rilke is one
of the great poets of the twentieth century. He's also one of the most
popular. He's been translated again and again, as if some ideal English
version of his German poems haunted so many minds that writers have had
to keep trying to find it. Here, for the time of year, are some
translations of a poem about the fall. He wrote it in Paris on
September 21, 1902.
Rilke là 1 trong những nhà
thơ lớn của thế kỷ 20. Ông cũng là 1 nhà thơ phổ thông. Ông được dịch
đi dịch lại, như thể, những bài thơ tiếng Đức của ông ám ảnh rất nhiều
cái đầu, và những nhà văn phải cố tìm cho thấy nó. Đây là bài thơ cho
mùa thu năm nay, với cả 1 lố bản dịch.
Ngày Thu
Chúa ơi: Đúng
là lúc này rồi. Hè mới bao la làm sao
Hãy trải cái
bóng của mi xuống sundials
Và cho gió
tung tăng trên cánh đồng.
Hãy biểu những
trái cây sau cùng, hãy chín mọng, cho kịp những chầu rượu;
Cho chúng thêm
hai ngày hè
Để có được cái
tuyệt hảo - như da thịt ngọt ngào của em - trộn hơi rượu nồng
Kẻ nào đếch
có nhà lúc này, thì đếch cần dựng nhà nữa
Kẻ nào sống
mình ên, thì xin cứ tiếp tục sống một mình
Vươn vai đứng
dậy, đọc, viết những lá thư dài, cho Hải Âu, thí dụ vậy
Lang thang,
lên xuống, những con phố
Đếch thèm nghỉ ngơi cái con mẹ gì,
giữa lá bay đầy trời, trong gió loạn.
THE FIRST
ELEGY
Who, if I cried out, would hear me among the
Angels?
Orders? and even if one of them pressed me
suddenly to his heart: I'd be consumed
in his more potent being. For beauty is nothing
but the beginning of terror, which we can still barely endure,
and while we stand in wonder it coolly disdains
to destroy us. Every Angel is terrifying.
Ai, nếu tôi kêu lớn, sẽ nghe, giữa những
Thiên Thần?
Những Thiên Sứ? và ngay cả
nếu một vị trong họ ôm chặt tôi vào tận tim:
Tôi sẽ bị đốt cháy trong
hiện hữu dữ dằn của Người.
Bởi là vì, cái đẹp chẳng là
gì, mà chỉ là khởi đầu của ghê rợn,
chúng ta vẫn có thể chịu
đựng, và trong khi chúng ta đứng ngẩn ngơ,
thì nó bèn khinh khi hủy
diệt chúng ta.
Mọi Thiên Thần thì đều đáng
sợ.
Với tôi người sở hữu
hạnh phúc, cuốn sách thanh nhã, mỏng manh, mua từ lâu, “Bi Khúc” tượng
trưng cho một khởi đầu của con đường dài đưa tới một quen biết tốt đẹp
hơn, với toàn bộ tác phẩm của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở
đây: “Ai, nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên, sống
động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào lúc đó, tôi
chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị “VC Ba Lan”, thành công trong việc
tuyệt cấm, ở trường học, nhà sách, thư viện, - và tất nhiên, tuyệt cấm
với tôi. Một trong những nhà thơ cùng thời đầu tiên mà tôi đọc và cố
hiểu, là Tadeusz Rozewicz, cùng sống trong thành phố mà tôi sinh trưởng, (Gliwice), và, có thể chứng kiến, thì cứ giả dụ như vậy, cái
giây phút thần tiên liền theo sau, khi tôi mua được Duino Elegies,
bản dịch của Jastrun - chứng kiến hình ảnh một đứa bé đứng chết sững
trên hè đường, nơi con phố trung tâm thành phố, vào giờ cư dân của nó
thường đi dạo chơi, khi mặt trời xuống thấp, và cái thành phố kỹ nghệ
xám trở thành 1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút, cỡ đó – ui chao
cũng chẳng khác gì giây phút thần tiên Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi
nó được nhà xb đem ra bán xon trên lề đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn – Thơ
của Rozewicz như sinh ra từ tro than của một cuộc chiến khác, Đệ Nhị
Chiến, và chính chúng, những bài thơ, thì như là một thành phố của tro
than. Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ của
mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là 1 sỉ nhục hồi ức những nạn
nhân của cuộc chiến sau chót, một đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức
của thơ ông: Chúng được coi như là những bản báo cáo, kéo, dứt, giựt ra
từ cơn kinh hoàng, tai họa lớn. Những bài thơ đầu của ông, viết trước
khi Adorno phang ra đòn chí tử, “thật là ghê tởm, man rợ khi còn làm
thơ sau Lò Thiêu”, thì đã hàm ngụ trong chúng, câu của Adorno rồi.
Adam Zagajewski
Note: Có
1 sự
trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không chỉ về cái cảnh
Gấu chết sững
trong nắng Sài Gòn, khi đọc cọp – khám phá ra - Bếp Lửa, khi cuốn sách được nhà
xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon trên hè đường Phạm Ngũ Lão,
nhưng còn ở điều này:
Cuốn sách Bếp Lửa đã sống
lại, từ tro than, bụi đường Xề Gòn.
Gấu
đã viết như thế, về Bếp Lửa,
từ năm 1972
Giả
như nó
không được đem bán xon, liệu có tái sinh?
Quá
tí
nữa,
giả như không có cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn còn, và
được cả
nước nâng niu, trân trọng như bây giờ?
Một nền văn học bảnh tỏng như thế, mà có thằng ngu gọi nó là... bất
hạnh!
NYRB August
14, 2014
Bài thơ mới nhất của Adam
Zagajewski, trên số báo, trước SN/GCC 2 ngày!
Món quà SN
thật bất ngờ!
Thêm bài này nữa, cùng số
báo: Simic viết về Simic, tên tù của Lịch sử!
Bài thơ của
AZ, và bài viết của Simic, thì đều “not free”. Bài viết của Simic cực
tuyệt, vì
nó rất gần với chúng ta.
Sáu tuổi, ở Belgrade, Đồng Minh dội bom giết
Nazi, nhưng bom cứ giết
hụt Nazi, và nhè đúng con nít như ông, hay bà già:
Những con người vô
tội
là những nạn nhân lớn lao nhất của chiến tranh và cách mạng.
Trong khi chờ
bản tiếng Mít, mời độc giả "ăn tráng miệng", một bài thơ của Simic,
trong bài viết. Một trong
những bài thơ đầu, đa số được hủy bỏ, ông viết cách đây hơn 50 chục năm
tại
New York City
Cockroach
When I see a
cockroach
I don’t grow
violent like you
I stop as if
a friendly greeting
Had passed
between us.
This roach
is familiar to me.
We met here
and there,
In the
kitchen at midnight,
And now on
my pillow.
I can see it
has a couple
Of my black
hairs
Sticking out
of its head,
And who
knows what else?
It carries a
false passport-
Don't ask
me
how I know.
A false
passport, yes,
With my
baby
picture.
Con Dán
Khi nhìn
thấy một con dán
Tôi không sửng
cồ như bạn đâu
Tôi ngưng lại,
như thể có 1 cú “Hi, bồ tèo”,
Giữa hai chúng
tôi.
Con dán này trông
thật quen, không lẽ nói, bạn quí của tôi.
Chúng tôi gặp,
đâu đó
Trong nhà bếp,
vào ban đêm
Và bây giờ,
dưới gối.
Tôi có thể
nhìn thấy mấy sợi tóc đen của tôi
Thò ra khỏi đầu
con dán
Nào ai biết,
còn cái gì nữa?
Nó mang căn
cước giả -
Đừng hỏi, làm
sao tôi biết
Căn cước giả,
đúng như thế
Với bức hình
con nít của tôi.
Robert
Melancon
French, born
1947
AUGUST
I wander
beneath the serenity
of the moon as it withdraws
its stars from the night. A
shadow
goes with me in which I do not
know myself. Only these trees
nearest to me, the grass, the
washed darkness
exist. A cry
of a night jar, the murmur of
leaves.
Summer consents absently to the night.
Tháng Tám
Tớ lang
thang dưới vừng trăng thanh thản
Nó rút những
vì sao của nó ra khỏi đêm.
Một cái bóng
cùng đi với tớ, và tớ không làm sao phân biệt, tớ là bóng, hay bóng là
tớ.
Chỉ cây cối
cận sát tớ, cỏ, và bóng tối được rửa sạch, hiện hữu
Đêm, như cái
bình, kêu 1 phát,
Lá thì thầm
Mùa hè, bèn
bằng lòng, tự vắng mình trong đêm.
BLIND
PAINTER [XI]
January can
give this grove
the appearance of a colonnade.
The fall of the leaves creates
a felicitous labyrinth, an architecture
to which only the light comes.
But you should not linger
in this metaphorical palace
old as language. Here are trees
all waiting to be named.
None looks like any other.
They will not consent to be reduced
To the mere concept of a forest
Họa sĩ mù
Tháng giêng
có thể cho cái bụi, bề ngoài của một hàng cây
Lá rụng,
thành mê lộ thần tình,
một cấu
trúc mà chỉ có ánh sáng tới được.
Nhưng bạn
không
nên nấn ná
Trong cái
cung điện ẩn dụ,
Già như
ngôn
ngữ này
Ở đây,
cây,
tất cả bọn chúng, thì đều đợi để được đặt tên.
Chẳng cây
nào
giống cây nào
Chúng
đếch hài
lòng bị giản lược
Về cái ý
niệm
nghèo nàn, nhảm nhí, chúng tớ là một khu rừng.
The
Necessity of Loneliness
Son of Man
and Son of God
Tuesday,
July 29, 2014 4:11 PM
Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với
ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.
Nguyên tác:
Christ
speaks to her in turn:
“Whether
dead or alive
woman, it’s
all the same –
son or God,
I am thine
Theo tôi, nên
dịch như sau:
Christ bèn
trả lời:
Chết hay là
sống,
Thưa bà, thì
đều như nhau –
Con, hay
Chúa, ta là của bà
Best
regards,
DHQ
Phúc đáp:
Đa
tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards
NQT
Tưởng
niệm
Quỳnh Giao
Thơ
Mỗi Ngày
Đọc Blog NL,
thấy có nhắc tới bản dịch thơ của Szymborska, của Tạ Minh Châu. Gấu
chưa từng
biết tới ông này. Bèn tò mò gõ Google,
ra bài này (1)
Đọc, thì thấy,
mấy đấng Mít đều tránh né, đếch dám viết thẳng về Bà, vì đụng tới nỗi
đau Mít.
Trên TV đã từng
giới thiệu Szymborska. Bà là người làm bài thơ thần sầu về xứ Mít,
"Vietnam", bài thơ chửi
bố bài "Bà Mẹ Gio Linh" của PD, bài hát mà mỗi lần Thái Thanh hát, là
không chỉ Thái
Thanh, mà cả nước, khóc, về 1 bà mẹ Mít, đẻ đứa con nào là biếu VC đứa
đó, để xây
dựng lên cái địa ngục Mít bi giờ!
Tribute
to Szymborska
Thơ Mít sau 30 Tháng Tư,
thay vì vinh danh, thì phải là tưởng niệm những người đã chết, ở cả hai
bên, ở cả thường dân lẫn những người cầm súng may mắn sống sót.
Cả 1 cõi thơ Mít, không
làm sao có nổi 1 bài thơ như bài “Việt Nam” của Szymborska. Không có ai
khóc, mà chỉ những tên khốn kiếp ăn mừng chiến thắng, ăn mừng nhận hàng
[Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng].
Nhận hết hàng Miền Nam, thì biến cả thế giới thành bãi đánh hàng!
Sở dĩ trên TV, chỉ có thơ
của Simic, Zagajewski, Milosz, Szymborska, vì thơ của họ đều là những
bài tưởng niệm cả 1 thời kỳ vừa qua.
Theo tinh thần đó, Helen
Vendler viết: Chẳng có bài học trực tiếp nào
mà những nhà thơ Mẽo học được từ Milosz. Họ có bao giờ nhìn bằng cặp
mắt của chính họ, chiến tranh, trên đất nước, xứ sở của chính họ. Chính
vì thế mà họ không làm sao nhập vào được giọng thơ của Milosz.
Chúng ta, Mít, chẳng những
chứng kiến, đau khổ vì cuộc chiến đến như thế, vậy mà đâu có đẻ ra được
1 thứ thơ như của Milosz, của Szymborksa.
Chính vì thế mà phải dịch, cho mọi người cùng đọc, để làm thay đổi hẳn
cõi thơ Mít.
Vietnam
(Wistawa Szymborska)
Szymborska thường viết, như
thể, về 1 đề tài được chỉ định - một
hạt cát, hay là bức hình đầu tiên của Hitler, hay một điều gì có tính
suy đoán
hơn, thí dụ, sự hiện hữu của linh hồn của chúng ta, hay là sự im lặng
của cây
cối quanh chúng ta. Rồi, tiếp đó, bà nghiên cứu, xem xét đề tài một
cách gần
gụi hơn. Trước tiên, bà miêu tả cái bà nhìn thấy, rồi bà nhớ lại những
gì bà và
những người khác biết về nó, và, yên chí lớn, độc giả theo kịp bà, cùng
với bà
đi tới mọi khúc rẽ, mọi bước ngoặt của cái đầu của bà, khi bà lần theo
tư tưởng
của mình, trên đường đi tới một kết luận ngỡ ngàng cho bài thơ, hoặc dí
dỏm,
hoặc tàn nhẫn, dã man, ác liệt.
Thơ như thế, có vẻ như là 1 cuộc triển khai, viết. Thì nó thế, thực.
Hơn hết thẩy những nhà thơ mà tôi biết, hay nghĩ tới, Szymborska không
chỉ sáng
tạo ra 1 tình trạng, một trạng thái [a state] thơ, ở nơi những độc giả
của bà,
nhưng còn nói cho họ biết, những điều họ chưa biết trước đó, và chẳng
bao giờ
nghĩ về những điều đó.
Charles Simic
Wislawa Szymborska's "Vermeer"
A poem against the
apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế
Aug 27th 2010, 16:53 by More
Intelligent Life, A.R. | NEW YORK
I HAPPENED upon this poem on
the New York Review of Books's
website, and was startled by how beautifully Wislawa Szymborska
captures the
dance between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a
moment frozen yet continually happening.
Vermeer
So long as that woman from the
Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.
I love the shape of the poem—it
thins like a stream of milk,
pouring itself out. I also love the tension she sets up between the
"W" and the "w", which appears hierarchical but is also
slippery.
"Vermeer", Wislawa Szymborska,
translated from the
Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak
Note: Bài thơ này, TV đã post,
nay chỉ post thêm lời bình của tay
Prospero.
Bản tiếng Việt, của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và
"w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB,
như Prospero.
Thế mới thú chứ!
Một khi mà người đàn bà ở trong
bức tranh ở viện bảo tàng
Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.
Source
I love the
shape of the poem—it
thins like a stream of milk,
pouring itself out. I also love the tension she sets up between the
"W" and the "w", which appears hierarchical but is also
slippery.
Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng
cần tới
ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra
đẳng cấp
nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.
Wislawa Szymborska 1
Late-night Whispers from Poland
Szymborska by Adam Gopnik
EXAMPLE
A gale
stripped all the leaves from the trees last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.
With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to time.
Wislawa Symborska: Here
Thí dụ
Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây trần trụi
Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày 1945
Bèn chứng tỏ rằng thì là,
Thì tất nhiên, đúng như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta cũng khoái chuyện tiếu lâm của ta!
Ui chao, VC quả đã làm
thịt ông bố, nhưng chừa ông con
Để sau này làm nhạc chào mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:
Như có Bác Hồ trong ngày
vui đại thắng!
Bạn có thể áp dụng bài thơ
trên, cho rất nhiều trường hợp,
Với những kẻ lịch sử tha chết để sau đó, làm 1 công việc, như trên!
Nào họ Trịnh hầu đờn Hồ
Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông, hầu đờn Bắc Bộ Phủ.
Virtue, after all, is far
from being synonymous with survival;
duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót, nói cho cùng, là do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).
Đành phải cám ơn VC 1 phát!
Tựa hồn những năm xưa
Bông Hồng của
Coleridge
Khoảng 1938,
Paul Valery viết, lịch sử văn học đúng ra không nên là lịch sử của
những tác giả
và những tai nạn nghề nghiệp của họ, hay của tác phẩm của họ, nhưng nên
là lịch
sử Cái Tinh Anh, the history of the Spirit, như là kẻ sản xuất hay tiêu
thụ văn
chương. Ông viết thêm, một lịch sử như thế có thể được viết ra mà không
cần nhắc
tới một nhà văn đơn độc, a single writer. Không phải đây là lần đầu
tiên mà Cái
Tinh Anh phán như thế. Vào năm 1944, một trong những viên thư ký của nó
trong
Concord ghi nhận: Ta thì thật là khoái cái ý này, về văn học, đó là
[chỉ] một
người viết tất cả những cuốn sách… cái phẩm chất như thế, cái căn cước
như thế,
cả về phán đoán và quan điểm, trong tự sự, cho thấy, đây là tác phẩm
của một cái
nhìn-tất cả, nghe-tất cả, the work of all-seeing, all-hearing, của một
vì phong
nhã (Emerson, Essays: Second Series, “Nominalists
and Realist,” 1844).
Hai chục năm
sau Shelley diễn tả quan điểm, rằng tất cả những bài thơ của quá khứ,
hiện tại,
và tương lai thì là những chương, hồi (episode), hay những mẩu đoạn,
của một bài
thơ độc nhất, vô cùng, a single infinite poem, được viết bởi tất cả
những nhà
thơ trên thế gian.
Những nhận xét
(consideration) như thế thì làm dấy lên biết bao là lèm bèm, không thể
nào dứt được.
Tôi lôi chúng ra, như là 1 cái cớ, để trình bày 1 dự án khiêm tốn của
mình: vẽ lại
cái cuộc tiến hóa của 1 ý nghĩ, qua những bản văn hỗn tạp của ba tác
giả.
Tác giả đầu
tiên, là Coleridge. Tôi không chắc chắn, ông ta viết khi nào, vào cuối
thế kỷ 18,
hay đầu thế kỷ 19:
“Nếu một người
đàn ông có thể ghé Thiên Đàng, trong giấc mơ, và, thay vì hai trái đào
tiên mà
bướm thiên đàng dâng cho anh ta, thì là 1 bông hồng, như bằng chứng
linh hồn của
thằng chả quả thực đã ghé nhà thổ ở đó, và nếu, khi tỉnh giấc, thằng
chả thấy
trong tay mình cầm bông hồng, thì… sao nhỉ”
[Borges giải
thích], đằng sau ý tưởng của Coleridge, là một ý tưởng phổ thông, xa
xưa, của hàng
hàng thế hệ những kẻ yêu nhau, cầu một… BHD,
như là bằng chứng đời đời, muôn đời…. của
tình yêu của họ.
Hà, hà!
Lolita
vs BHD
We never
grow up - only older, then old-
Chúng ta chẳng
bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già.
In one of
Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character
tells of
someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool
somewhere on
the Riviera and returning a year later to the day and finding it again
in
exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only happens
in the
Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive world.
Trong 1
trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại là 1 trong những mất đi
tìm lại
được của tớ - một nhân vật kể về 1 tay nào đó, đánh mất một cái gì đó -
một cái
nhẫn. Hình như tại một cái ao, bên dưới 1 hòn đá, ở một nơi nào đó, ở
Riviera,
và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại được cái nhẫn đúng tại
nơi đã
mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay
phù thuỷ
Nga....
Ui chao,
đúng là cái tình cảnh của GCC:
Như người
xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền,
chàng trở lại
chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của nàng
vẫn còn
văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ
đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!
Nhưng tại
làm sao mà em ngộ ra rằng thì là, GCC chẳng bao giờ trưởng thành, cứ
yêu mãi 1
đứa con nít... là nàng, từ đời thuở nào?
Zweig
Tôi vội lục
lại tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến. May, tôi còn giữ....
Gấu đã từng,
sau khi xin lỗi ông nhóc con trên talawas, viết mail riêng, đề nghị ông
nhóc
chuyển cho coi lại bài viết cũ.
Ông đếch thèm trả lời.
Sở dĩ ông ta “đi 1 đường
hờ
hững”, là vì yên chí lớn, chẳng thằng nào con nào còn tờ Văn, số về VP.
Ông nhóc không
ngờ là trong nước bi giờ săn kho tàng nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy ghê quá,
còn hơn
cơn sốt vàng của Mẽo, La Ruée vers l’or!
Nhờ
“Cơn Sốt Vàng”, Gấu có lại được những bài viết không bao giờ nghĩ lại
được nhìn
lại chúng.
Cám Ơn Các Bạn Nhà Văn VC thân mến của GCC!
Nhìn thấy mấy trang TSVC, như nhìn thấy bạn Joseph Huỳnh Văn ngày nào!
Tks. Many Tks. NQT
1914-2014
VĨNH
BIỆT
NHÀ VĂN TÔ HOÀI
Milosz & Kap & To Hoai
Ainsi, pour
Paul Valéry, « le complément nécessaire d'un monstre c'est un cerveau
d'enfant
»: Bộ óc con nít, là không thể thiếu, một bổ túc cần thiết để hoàn tất
một con
quỉ. (1)
Câu này áp dụng
cho Tô Hoài thật là tuyệt: Ông đẻ ra Dế Mèn, Cu Lặc, Quê Người....
nhưng cũng “đồng
thời là một, trong cả ba”, “Ba Người Khác”.
Thương Sinh & Duyên Anh, là 1
người, Lê Tất Điều của "Những Giọt Mực" cũng là Kiều Phong của những
bài tạp ghi
cực thâm độc.
Tuy nhiên, phải nhờ đến
Todorov, thì chúng ta mới hiểu được trạng thái
nhị phân này.
Trong hồi ức như liều thuốc trừ Ma Quỉ Cái Ác, ông phán, cái từ “human”
không thể thay thế bằng những mỹ từ như “generous”, hay “merciful”.
Trong con người
có con quỉ. Chính vì thế mà con người tự nó, không trục được quỉ.
Phải là Thượng
Đế.
Không phải tự nhiên mà những Milosz, Brodsky - sống sót Quỉ Đỏ - là
những tín
hữu Ky Tô.
Memory
as a Remedy for Evil
Todorov mở
ra cuốn sách nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc trị Cái Ác
Bắc Kít, Memory as a Remedy for
Evil, bằng nhận xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện
nhất, của dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và chấm
dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver us from evil". Câu
này ngụ ý, trong chúng ta có... quỉ, và
chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng
con, tức
loài người thì lúc nào cũng hăm hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và
chính tham
vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.
Cái giấc mơ
thống nhất nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn trị!
Thế mới
chết! (1)
Viết
Ngày
|
|