|
Đây chính là
đoạn chìa khóa để hiểu câu “không chọn hòa bình mà chọn thanh kiếm” nói
trên. Nhà
văn Victor Yerofeyev biết mình đang nói gì. Bản dịch của tôi chỉ
trung thành
với nguyên bản. Nó không có nhiệm vụ dạy độc giả nên hiểu thế nào về
những lời
giáo huấn trong Kinh thánh. [GCC gạch đít] (1)
Sến gáy, lên
lớp độc giả Dân Luận.
Có thể, trong cái phần não bị thiến, có cái gọi là sự tôn
trọng độc
giả, dù của 1 diễn đàn khác?
NQT
Bạn cứ đưa
ra 1 mẫu Bắc Kít nào, loại tinh anh nhất, là Gấu chỉ ra được, phần não
còn thiếu,
hay bị thiến.
Nobel Toán ư?
Sến ư?
Thi sĩ ư?
Có ngay, nhiều
lắm.
Gấu chưa gặp
được 1 tay Bắc Kít nào, thứ tinh anh nhất, não còn, cái gọi là sự nhân
hậu, sự tử tế - thứ thiệt,
không phải
thứ nhảm nhí – lòng thương người, biết phân biệt đâu phải, đâu trái….
Cơ sự nào làm
ra như vậy?
Chính là hậu
quả của giấc mộng lớn thống nhất đất nước.
Todorov mở
ra cuốn sách nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc trị Cái Ác
Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil,
bằng nhận xét, câu cầu nguyện hay
được
cầu nguyện nhất, của dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời",
và chấm dứt
bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver us from evil". Câu này
ngụ ý,
trong chúng ta có... quỉ, và chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục
Quỉ ra khỏi
chúng con. Nhưng chúng con, tức loài người thì lúc nào cũng hăm hở với
giấc mơ
tự mình trục Quỉ, và chính tham vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn
trị.
Cái giấc mơ
thống nhất nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn trị!
Thế mới chết!
Giấc mộng lớn
phải thực hiện bằng được, không có lý do ăn cướp thì phải bịa ra, phải
nhử Mẽo
nhảy vô, phải đốt sạch Trường Sơn, phải làm thịt 3 triệu Mít, phải để
thằng chăn
trâu, học lớp 1, tên y tá dạo, lên làm Trùm nước Mít!
Cầu sao được
vậy. Amen!
DTH coi cuộc
chiến vừa qua, ngu suẩn nhất của giống Mít. GCC nghĩ ngược hẳn lại, đẹp
nhất, đẹp
hơn giấc mơ toàn trị. Sở dĩ dân Mít được Chúa cho có ở trên đời, là để
thực hiện
giấc mơ thống nhất đất nước!
Nhưng sở dĩ - lại sở dĩ – nó đâm ra khốn kiếp như
thế, là do cách thực hiện khốn kiếp quá.
Trên TV đã “replay”, cảnh Lê
Duẩn, hay Bác H, hay… hỏi lũ quân sư Bắc
Bộ Phủ, đánh Miền Nam bằng cách nào, và lũ khỉ đột VC bèn trình ra ba
cách,
vương đạo, trung đạo và bá đạo, Duẩn nghĩ 1 hồi rồi phán, bụng tao
toàn
kít, sợ lên đến não, làm sao "vương đạo" được, thôi bá đạo đi!
Câu Duẩn
phán, đúng là câu Đức Phật Sống phán, theo 1 nghĩa nào đó!
Đức Phật Sống, thì nói về lũ Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, còn Duẩn, là về Cái
Ác Bắc
Kít!
Vỏ Bọc, Áo Mưa, Ca Pốt, Ngụy Trang, và
trường
phái Lập Thể trong hội họa của Picasso.
Như Trung,
tay phi công ném bom dinh Độc Lập, Ẩn có thể thẳng thừng tuyên bố,
thực sự tao là VC, còn tất cả ba thứ lăng nhăng kia chỉ là trò ngụy
trang.
Patrick
Wright, trong bài viết Nghệ Thuật Ngụy Trang trên tờ Điểm sách London,
số đề ngày 23 Tháng Sáu, 2005, (2) đã kể câu chuyện lý thú liên
quan tới đám trí thức
sống ở Paris sau đây.
"Tôi nhớ rõ
ràng," Gertrude Stein [nữ văn sĩ Mẽo sống tại Paris], viết
vào năm 1938,"sống cùng với Picasso tại Đại Lộ Raspail, khi chiếc xe
tải
ngụy trang đầu tiên chạy qua, vào ban đêm. Chúng tôi chưa từng thấy một
chiếc
xe nào như thế. Và khi nhìn thấy nó, Picasso la lên, chính chúng ta đã
làm ra
nó, và nó là Lập Thể [Cubism]."
Sau đó, bà
phán tiếp, cả một cuộc Đệ Nhất Thế Chiến chỉ là một bài tập về Lập
Thể. [Stein went on to suggest that the entire First World War had been
an
exercise in Cubism].
Cung Tiến
khi được hỏi về bản nhạc Thu Vàng đã nhún vai trả lời, ôi dào, chỉ là
một bài tập nho nhỏ về bút pháp!
Liệu Cao
Bồi, khi được hỏi, sẽ nhún nhường trả lời, cả cuộc chiến Việt Nam chỉ
là một bài tập nho nhỏ, về "nguỵ trang", của tớ? (1)
Trang TV, có
đoạn trên, chẳng biết tại sao mà độc
giả TV lại mò ra, vì như sever cho biết, cũng đang... hot!
Tình cờ, GCC đọc cùng lúc với cái entry của
Blog NL (3) về cái gọi là lịch sử, khi nhắc
tới Hồ Hữu Tường, qua lời phán của vị “thần
linh của Miền Nam” [nick của Thanh Nam ban cho HHT], đại khái, tớ đếch
coi lịch
sử là 1 một khoa học.
Theo GCC, lịch sử không phải là khoa học, như
toán, vật lý…. nhưng khoa học nhân văn, nghĩa là, nó rất thích lầm lẫn.
Và
hơn thế nữa, như khúc trên cho thấy, nó rất thích trò ngụy trang, và
nếu như thế,
nó đẻ ra nghệ thuật, qua giai thoại về chủ nghĩa lập thể.
Sự thực lịch
sử cuộc chiến Mít, 1 đám tù VC tham ăn trúng thực, được chở gấp đi nhà thương rửa ruột, ngụy
trang thành Ngụy đầu độc tù VC, và sau đó là 3 triệu người chết, và 1
nước Mít
như hiện nay.
Sĩ
phu Bắc Kít vs Dalai Lama
Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ
phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng
Nobel Toán!
Thú vị
quá, với riêng Gấu,
Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!
“Tôi
nói
với
Tông Tông Mẽo, Obama, đám Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, bộ não của họ bị thiến
mất 1 mẩu,
đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người”. Đức Dalai
Lama nói với tôi, [ký giả Jonathan Mirsky của tờ NYRB] trong lần lèm
bèm
giữa
chúng tôi tại London vào giữa Tháng Sáu, 2012
Đây chính là
đoạn chìa khóa để hiểu câu “không chọn hòa bình mà chọn thanh kiếm” nói
trên. Nhà
văn Victor Yerofeyev biết mình đang nói gì. Bản dịch của tôi chỉ
trung thành
với nguyên bản. Nó không có nhiệm vụ dạy độc giả nên hiểu thế nào về
những lời
giáo huấn trong Kinh thánh. [GCC gạch đít] (1)
Sến gáy, lên
lớp độc giả Dân Luận.
Có thể, trong cái phần não bị thiến, có cái gọi là sự tôn
trọng độc
giả, dù của 1 diễn đàn khác?
NQT
Evil Axis
Nhân đây
tôi cũng hi vọng bài viết này không bị tất cả các trang của chính quyền
ma này
đồng loạt đăng lại, như trường hợp bài “Báo quan” mới đây. Không thể
tránh,
nhưng tôi không mong có những đồng minh bất ngờ như thế. (1)
Đám mê đội dĩa Sến
[như DDTK, NV của băng Cờ Lăng, Diễn Đàn HV… thí
dụ], có thấy nhục & nhột... không?
NQT
Traduit du silence
Journal
intime
FRANZ KAFKA
Traduit (de
l'allemand) et préfacé
par Pierre
Klossowski
Ed. Rivages
poche. 256 p .. 9 €.
En 1936,
Pierre Klossowski publia la version francaise d'un texte prophétique de
Walter
Benjamin, qu'il intitula: L'Oeuvre d'art à l’époque de sa reproduction
mécanisée.
À Adrienne Monnier, irnpressionnée par son travail, il ne cacha pas ses
réserves
sur cette traduction, trop libre au gout du « visionnaire », rencontré
à l'époque
où il participait aux « agglutinations Breton-Bataille ».
L’écrivain
berlinois venait de saluer en Kafka, mort douze ans auparavant, un
habitant du
pays de l'oubli, «réservoir d'où surgit la lumière ». Klossowski se
souvenait
sans doute de ces lignes quand, en 1945, avant l'édition presque
définitive que
devait parachever Marthe Robert, il proposa une traduction du Journal de Kafka, et dit, au sujet de
ces cahiers, en partie détruits par leur auteur et certainement jamais
lus par
aucun de ses proches, homis Milena Jesenska: C'est le journal d'un
malade qui désire
la guérison, qui croit à la santé.
Georges
Bataille s'empara de ces pages et les commenta en 1950, tout au long
d'une étude,
incluse par la suite dans La Littérature
et le Mal, où Kafka plaide coupable, ayant cornmis, enfant, le
“crime de
lire », puis, une fois parvenu a l'âge d'homme, le « crime d'écrire »,
tout en
demeurant dans la “puérilité du rêve ». La littérature fut-elle pour
Kafka ce
que la Terre promise fut pour Moise? En octobre 1921, il nota que si ce
dernier
n'atteignit pas Chanaan, ce n'est pas parce que sa vie fut trop brève,
mais
parce que c'était une vie humaine. Commencé au moment ou, malgré
quelques
couacs, i1 composait Richard et Samuel,
de concert avec Max Brod, le Journal
de Kafka l'Éléate est le livre des impossibilitiés: impossibilité
d'écrire, d'écrire
en allemand, ou d'écrire autrement, impossibilité de tourner le dos à
sa judéite,
ou de l'accepter pleinement, impossibilité d'approuver
le celibat, et de supporter la vie en commun ...
Rappelons
seulement les allusions aux armes d'estoc et de taille dont le Journal est émaillé. Ce sent aut ant
d'indications des luttes que menait un « isole », a couteau tire avec
le monde
(Klossowski, lui-même admirateur de Soren Kierkegaard, esquisse dans
son
introduction une comparaison entre Franz Kafka et ce dernier). Résolu à
défendrc
sa solitude, à se preserver des relations humaines, jamais exemptés de
mensonges,
il voulait s'en tenir à un cercle limité, mais pur.
Cette résistance est d'une innocence d'autant plus diabolique que,
selon
Georges Bataille, elle s'accompagne d'un refus de l'action: la manière
qu'avait
1'« exclu » de s'incliner devant l'autorité est « plus violente qu'une
affirmation criée'», Dès lors, Maurice Blanchot l'avait relevé dans un
texte de
1949, l'impossibilité est plus qu'une impossibilité: écrire, c'est
s'ernpecher
d'écrire, mais c'est aussi « nommer le silence”, réchapper au silence
des sirènes.
LINDA LÊ
Email nay rat co gia tri,
khi Toa Lanh su My
tai Hanoi danh gia rat chinh xac tinh hinh that su tai Viet Nam hien
nay.. Khong
nen bo qua......
TÀI LIỆU ĐÁNH GIÁ TỪ HÀ-NỘI
Nhận được tập tài liệu rất đáng chú ý từ
nguồn ẩn danh, theo nhận định thì đây đều là những văn bản có xuất xứ
từ Tổng cục
2 – Bộ Quốc Phòng Việt Nam (tức Tổng cục Tình Báo). Nội dung các tài
liệu liên
quan đến nhiều vấn đề thời sự mà dư luận đang rất quan tâm. Bên cạnh đó
là những
đánh giá, nhận định theo quan điểm của những người hiện đứng trong hàng
ngũ Đảng
Cộng Sản Việt Nam (CSVN)…Nhưng qua hình thức thì tập tài liệu này có
thể xuất xứ
từ Cục 16, thuộc Tổng cục 2, là các bản báo cáo. Mời qúy độc giả đọc,
theo dõi
và nhân định…
****CỤC
16 Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt NamPhòng 7 Độc lập – Tự do – Hạnh
phúc Số
/2012/BRC Ngày 23 tháng 4 năm 2012 Số trang: 4, Nguồn: S(A.199)
Báo Cáo Đánh giá của Mỹ về thực
trạng tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam và động thái mới của Mỹ trong
triển
khai chiến lược “DBHB” đối với Việt Nam (VN)
I. TRƯỜNG HỢP
LẤY TIN: Tổng hợp qua quá trình tiếp xúc trực tiếp Claire
Pierangelo/Phó Đại sứ
Mỹ tại Hà Nội, Gary/Phòng chính trị Bộ Ngoại giao Mỹ; Greg/Thiếu tá
pháo binh Mỹ;
Chuck/Đại úy lính thủy đánh bộ Mỹ, từ 20.3.2012 đến nay.
II. NỘI DUNG
TIN:Bà Claire Pierangelo 1. Về thực trạng tình hình kinh tế – xã hội VN
hiện
nay: Theo đánh giá của Claire Pierangelo: “Nền kinh tế VN hiện nay đang
tồn tại
rất nhiều vấn đề và cần phải tốn rất nhiều thời gian để khắc phục.Vấn
đề lớn nhất
của VN chính là lợi ích nhóm và tính nhiệm kỳ của các lãnh đạo quá cao,
quá điển
hình mà không có tầm nhìn dài hạn. Tất cả các giải pháp chính sách được
đưa ra
chỉ có tính thời vụ, tạm thời. Các tập đoàn kinh tế của nhà nước được
hưởng quá
nhiều lợi ích và Chính phủ VN hầu như chỉ in tiền phục vụ nhóm này
trong khi hiệu
quả đầu tư công vô cùng thấp, tham nhũng tràn lan. Trong khi đó, các
công ty,
doanh nghiệp tư nhân là những người sản xuất và đem lại nhiều lợi ích
cho xã hội
hơn cả thì lại thiếu đi những sự hỗ trợ và gặp rất nhiều khó khăn”…
“Ở VN hiện
nay, cụm từ “tái cơ cấu” được Chính phủ và báo chí nhắc tới rất nhiều
nhưng
không có nội dung và hành động cụ thể đi kèm. Chính phủ VN hiểu vấn đề
của họ,
nhưng những lợi ích nhóm và cá nhân đang làm mờ mắt và chậm bước trên
con đường
thay đổi”.
Claire
Pierangelo phân tích: “Đáng lẽ kinh tế VN phải vững vàng hơn hiện nay
rất nhiều
chứ không phải ở tình trạng bưng bít và vá sửa lung tung như hiện nay.
Mặc dù
Chính phủ VN đang cố gắng che đậy những bất cập, yếu kém của nền kinh
tế nhưng
người dân VN ai cũng biết nguyên căn của sự yếu kém đó. Tiền chỉ tập
trung vào
một số ít người và nhóm nhất định. Các nhà lãnh đạo VN ai cũng rất
giầu, có tiền
gửi ở khắp các Ngân hàng trên thế giới. Điển hình là Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng,
hoặc nhiều Bộ trưởng, người nào cũng rất giầu. Tiền của họ chính là
tiền của
Nhà nước. Rõ ràng, tham nhũng tại VN đã trở thành một căn bệnh trầm
kha, tới mức
nói tới cái gì xấu người dân cũng đều gán cho cái mác “Cộng sản”…
Bên cạnh vấn
đề tham nhũng thì vấn đề đất đai cũng đang gặp những bức xúc và phản
ứng gay gắt
từ xã hội. Chính phủ VN thực sự đang đánh mất lòng dân trong khi xã hội
VN lại
đang tồn tại quá nhiều vấn đề…
Nhiều nhà
khoa học và học giả VN hiện nay thường đề cập tới các vấn đề của xã hội
Trung
Quốc (TQ) và cho rằng, TQ khó có thể phát triển vì quá nhiều vấn đề và
bất cập
xã hội. Tuy nhiên,thực tế Chính phủ VN cũng đang gặp những vấn đề tương
tự TQ,
thậm chí còn tồi tệ hơn TQ, vì Chính phủ VN không dám thẳng tay làm gì,
ngược lại
cố tình bao che, dung túng cho các sai lầm. Đây chính là yếu tố để VN
“tự diễn
biến” một cách hết sức hòa bình và tự nhiên”.
Ngoài ra,
qua tìm hiểu được biết: Từ 20.3.2012 đến nay, theo sự bố trí, sắp xếp
và chỉ đạo
của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc Phòng Mỹ, 3 nhân viên Mỹ là Gary/Phòng chính
trị Bộ
Ngoại giao Mỹ; Grek/Thiếu tá thuộc Pháo Binh và Chuck/Đại úy Thủy Quân
Lục Chiến
Hoa Kỳ (đây đều là những nhân viên được đào tạo tại Đại học John
Hopkins – Lò
đào tạo CIA/Mỹ) đã được cử sang VN để khảo sát tình hình VN và báo cáo
về Bộ
Ngoại giao Mỹ.
Sau một thời
gian ngắn thực hiện nhiệm vụ ở VN, những nhân viên này đã được Bộ Ngoại
giao Mỹ
đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và tiếp tục được chỉ đạo ở lại
VN để
khảo sát tình hình và nắm bắt thông tin thêm một thời gian nữa. Một số
vấn đề
mang tính kết luận liên quan đến tình hình VN đã được 3 nhân viên này
báo cáo về
Mỹ gần đây như sau:Thứ nhất, người dân VN hiện đang rất bất mãn với chế
độ. Tại
các quán café, quán bia, quán trà (phổ biến của giới trẻ VN)… các vấn
đề mà mọi
người thường đề cập là vấn đề tham nhũng, vấn đề Biển Đông và quan hệ
Việt –
Trung với thái độ chỉ trích cách xử lý của Chính quyền.Thứ hai, người
dân VN hiện
nay rất ghét Trung Quốc (TQ). Không chỉ vì TQ “chơi bẩn” trong vấn đề
chủ quyền
lãnh thổ mà còn do cách hành xử của Chính phủ VN với Chính phủ TQ. Đáng
chú ý,
Mỹ và các vấn đề liên quan tới Mỹ hiện đã không còn là vấn đề thời sự
được người
dân VN nhắc đến. Trong khi đó, TQ mới thực sự là đối tượng hay được
nhắc đến
như một kẻ thù chủ yếu và trực tiếp của VN. Người Mỹ có thể yên tâm
rằng VN sẽ
không bao giờ thân với người TQ. Sự gần gũi của Chính phủ VN hiện nay
đối với
TQ chỉ mang lại những hiệu ứng tiêu cực, càng làm cho người dân VN chán
ghét và
phản kháng lại Chính phủ nhiều hơn.Thứ ba, người dân VN hiện đang bị Mỹ
hóa rất
nhanh. Thời gian qua, cuộc cách mạng về văn hóa của Mỹ đã có sự lan tỏa
và phát
triển sâu rộng trong toàn xã hội VN. Người dân VN hiện không còn căm
ghét Mỹ
như 10 – 15 năm trước nữa, ngược lại trở nên thân thiện với Mỹ nhiều
hơn. Người
VN rất mến khách và dần dần đã coi người Mỹ thực sự là bạn. Đáng chú ý,
không
ít người VN (kể cả giới quan chức) có tư tưởng bài TQ thậm chí còn coi
Mỹ là một
cứu cánh cho VN. Grek bộc lộ rằng: “Nếu như các nhà hoạch định chính
sách Mỹ hiểu
rõ hơn về tình hình VN như cách chúng tôi hiểu thì người Mỹ chắc chắn
sẽ có
cách tiếp cận VN khác nhiều so với trước. Người Mỹ chưa hiểu nhiều về
VN vì họ
chưa có dịp sang VN và tiếp xúc với người dân VN.Nhiệm vụ của chúng tôi
là sẽ
làm cho người Mỹ hiểu rõ hơn về VN. Đây là một chuyến đi rất thành công
của
chúng tôi và khi về nước, chúng tôi sẽ giúp người Mỹ hiểu rõ hơn về VN.
VN hiện
đã ở rất gần Mỹ”.2. Một số động thái mới của Mỹ trong triển khai chiến
lược
“DBHB” đối với VN thời gian tới: Claire Pierangelo cho rằng: “Vấn đề
của Chính
phủ VN hiện nay không phải do bên ngoài đem tới mà chính là vấn đề tự
thân của
Chính phủ VN. Nếu không giải quyết được các vấn đề này thì chính VN sẽ
gặp rắc
rối lớn mà không cần ai/nước nào can thiệp…
Trước đây,
Chính phủ Mỹ từng nghĩ rằng, Mỹ sẽ phải bằng cách này hay cách khác đổ
thật nhiều
tiền vào VN mới có thể đạt được các mục đích của mình, nhưng hiện nay
việc làm
này không còn cần thiết nữa. Chính phủ Mỹ không cần phải can thiệp hoặc
đổ quá
nhiều tiền vào VN, chỉ cần có những tác động cụ thể trong từng giai
đoạn phù hợp,
những tình huống nhất định thì Mỹ có thể đạt được mọi điều mình mong
muốn ở
VN”. Cơ sở để đưa ra nhận định này đó là: Giới trẻ VN hiện nay đã khác
hẳn thế
hệ đi trước. Tuổi 32 có thể coi là một mốc quan trọng cho ranh giới
giữa các thế
hệ ở VN. Theo các cuộc điều tra, khảo sát và nghiên cứu của Đại sứ quán
Mỹ tại
Hà Nội: Ở VN hiện nay, những người từ 32 tuổi trở xuống là một thế hệ
mới, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tư tưởng rất thoáng, văn hóa và
cách nghĩ,
cách sống gần với phương Tây và Mỹ hơn. Thậm chí một bộ phận giới trẻ
VN hiện
nay còn thuộc phim ảnh Mỹ, âm nhạc Mỹ, thời trang Mỹ nhiều hơn chính
những người
Mỹ… Đây là một thành công lớn của Mỹ trong việc truyền bá văn hóa Mỹ
vào VN
trong suốt thời gian vừa qua. Claire Pierangelo nói: “Không cần phải
làm gì quá
nhiều, biên giới Mỹ đang ngày càng tiệm cận, thâm nhập sâu và mở rộng
hơn tại
VN. Tình trạng “Mỹ hóa” đang xẩy ra nhanh chóng và ngày càng phổ biến
trong giới
trẻ. Giới trẻ VN hiện nay cũng không còn chịu ảnh hưởng nhiều của thế
hệ đi trước,
đặc biệt về tư tưởng, thái độ, lối sống, cách suy nghĩ mà họ có xu
hướng tách
ra, độc lập và tự chịu trách nhiệm”… “Điều mà Mỹ lo lắng là sự bền chặt
trong mối
quan hệ Việt-Trung. Tuy nhiên, VN hiện đã đi xa khỏi khu vực ảnh hưởng
của văn
hóa TQ. Tư tưởng bài xích TQ luôn xuất hiện trong suy nghĩ của người
dân VN,
chính điều này lại giúp văn hóa Mỹ gần với văn hóa VN hơn…”Những ưu
tiên của Mỹ
đối với VN trong thời gian tới là:Thứ nhất, trong thời gian tới, Mỹ sẽ
tiếp tục
khai thác và tập trung vào giới trẻ VN nhiều hơn, nhất là lứa tuổi từ
32 trở xuống.
Song song với đó, Mỹ cũng sẽ tìm hiểu và khai thác thông tin từ cộng
đồng dân
chúng để hiểu rõ hơn về thực trạng tình hình VN để có những đối sách
phù hợp. Đối
với Mỹ, những thông tin có được qua quá trình tiếp xúc dân chúng là hết
sức giá
trị,thể hiện rõ thực trạng đất nước và xã hội VN, nó khác hẳn với những
thông
tin chính thống của Chính phủ. Qua tìm hiểu được biết, với các kết quả
đạt được
trong chuyến công tác VN vừa qua, Greg và Chuck đã được Bộ Quốc phòng,
Bộ Ngoại
giao Mỹ điều động ở lại VN tiếp tục hỗ trợ cho Tùy viên quân sự Đại sứ
quán Mỹ
tại Hà Nội trong một thời gian nữa để theo dõi sát về tình hình VN,
nhất là những
vấn đề liên quan đến Biển Đông và mối quan hệ Việt-Trung. Đây là nhiệm
vụ đột
xuất vì Đại sứ quán Mỹ tại VN vừa nhận được báo cáo mới nhất của Bộ
Quốc phòng
Mỹ gửi sang có đánh giá rằng: Sự căng thẳng gần đây giữa VN và TQ liên
quan tới
Biển Đông có nguy cơ bùng nổ xung đột và Bộ Quốc phòng Mỹ hiện đang
muốn tìm hiểu
quan điểm và phản ứng của VN về vấn đề này. Đặc biệt, nhiệm vụ tối quan
trọng
mà Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Mỹ giao cho 2 nhân viên này là tăng
cường tiếp
xúc các tầng lớp, đối tượng VN để xây dựng mạng lưới quan hệ xã hội,
tìm hiểu
tâm lý và các vấn đề quan tâm của người dân VN hiện nay (tự do báo chí,
tôn
giáo, Intermet, vấn đề Biển Đông, quan hệ Việt-Trung, Mỹ-Việt…) nhằm
phục vụ
cho việc hoạch định chiến lược của Mỹ đối với VN trong thời gian tới.
Vì chưa phải
là giới chức ngoại giao Mỹ nên hoạt động của 2 nhân viên này ở VN sẽ có
nhiều
thuận lợi, có thể dễ dàng tiếp xúc với các đối tượng thuộc nhiều thành
phần xã
hội ở VN. Thứ hai, Mỹ sẽ tiếp tục sử dụng vấn đề nhân quyền để gây sức
ép mạnh
mẽ lên Chính phủ VN nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của mình
trong quan hệ
Mỹ-Việt. Claire Pierangelo bộc lộ: “Trong thời gian tới, Mỹ sẽ tiếp tục
quan
tâm tới tình hình nhân quyền tại VN. Vấn đề này tuy luôn nóng nhưng chỉ
là một
phương tiện để Chính phủ Mỹ đạt được những mục đích khác chứ không phải
đây là
mục đích thực sự của Chính phủ Mỹ tại VN…Thực tế cho thấy, có rất nhiều
chính
phủ khác còn vi phạm nhân quyền nhiều hơn VN nhưng Chính phủ Mỹ không
đề cập tới…
Trong thời gian tới, dù chính quyền VN vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền,
thậm
chí mức độ vi phạm còn lớn hơn, nhưng Chính phủ Mỹ có thể sẽ không đề
cập nhiều.Tuy
nhiên, đó là vấn đề của sau này, còn hiện tại thì nhân quyền vẫn sẽ là
một
trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Mỹ, Đại sứ quán Mỹ tại VN để
gây sức
ép với Chính phủ VN nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của Mỹ”.
Claire
Pierangelo khẳng định: “Với những gì đang diễn ra tại VN hiện nay có
thể đi đến
kết luận rằng: Trong 20 năm nữa, diện mạo VN sẽ thay đổi rất nhiều so
với hiện
nay. 10 năm tới vẫn sẽ là thời kỳ ‘hỗn loạn’, ‘tranh tối, tranh sáng’
nhưng 10
năm tiếp theo sẽ là một sự chuyển dịch ‘chóng mặt’. Rất có thể Chính
phủ cộng sản
cũng sẽ không còn tồn tại nữa”.
III. NHẬN
XÉT: Tin phản ánh một số nhận định, đánh giá của nhóm nhân vật Mỹ nhạy
cảm thuộc
Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Mỹ về thực trạng tình hình kinh tế-xã hội
VN và
cách tiếp cận của Mỹ đối với VN trong thời gian tới. Đáng chú ý là nhận
định
cho rằng: Thực trạng yếu kém, những bất cập về kinh tế-xã hội VN, cùng
sự xuất
hiện những tư tưởng “gần Mỹ”, bài xích TQ hiện nay đang khiến người dân
mất niềm
tin vào Đảng, vào chế độ. Đây chính là nền tảng để VN “tự diễn biến”,
“tự chuyển
hóa” và chỉ cần một cú hích nhẹ của Mỹ tại các thời điểm, tình huống
phù hợp
thì chế độ VN sẽ sụp đổ. Trước mắt, Mỹ (mà trực tiếp là Đại sứ quán Mỹ
tại Hà Nội)
đang tìm cách xây dựng các mạng lưới xã hội VN, khai thác, lôi kéo và
chuyển
hóa giới trẻ VN; đẩy mạnh tuyên truyền, kích động gây chia rẽ mối quan
hệ Việt-Trung…
nhằm thực hiện được mục tiêu chuyển hóa, lật đổ chính quyền VN trong 20
năm tới.
IV. TÀI LIỆU
KÈM THEO: Không. Cục trưởng Cán bộ hoạt động Đại tá: Nguyễn Tân Tiến *
Nơi nhận:
- TT Lưu Đức Huy : 01 bản - Ban A : 01 bản
Note: Tks. NQT
Pussy Riot's
Punk Prayer is pure protest poetry
Đọc bài
viết
thì GCC nghĩ tới nhóm Ngựa Trời của Sài Gòn
Note: Đọc bài
viết của Sến thì nhìn ra truyền
thống muôn đời của… bướm.
Đọc bài viết của David Remnick thì lại nhìn ra, truyền thống của…
Brodsky!
August
11,
2012
The
Pussy
Riot Scandal
Posted
by
David Remnick
Đồng nghiệp
của tôi, Masha Lipman đang làm 1 việc thật là
OK, tường thuật bi kịch khủng khiếp, phi lý
ở Moscow, bi kịch có cái nick nghe thật sướng lỗ tai, vụ án “Bướm Khoe
Bướm, Bướm
Nổi Loạn, Bướm Xuống Đường, Bướm Đi Ăn Mày” [hai cái nick chót thì chỉ
mấy đấng
VC nằm vùng, được đám bợ đít VC khâm phục, hiểu được]… Masha nhắc nhở
chúng ta
rằng, bi giờ đếch phải Moscow của Xì, hay của Bẻn (Brezhnev] - vụ án
được tường
thuật theo 1 đường hướng nó không thể xẩy ra ở nơi trái tim của thời
đại Xô Viết
– nhưng không có chuyện giảm thiểu khoảnh khắc tiêu biểu, của thời kỳ
Nga Hoàng
Đỏ đương trị vì, là Vladimir Putin. Bắt đầu từ cuối năm vừa rồi, Putin
lạnh
lùng tàn nhẫn nhìn cảnh tượng cứ thế kéo dài của những cuộc biểu tình
tập thể
chống lại chính quyền của Người và sự trở lại làm Nga Hoàng, cũng của
Người. Những
bàn cãi thời kỳ tiền bầu cử, đa số là, hoặc Putin sẽ ra đòn dẹp loạn
sau khi bỏ
phiếu, hoặc ông ta sẽ xóa bỏ những dấu vết cuối cùng của trò hùng biện
phò dân
chủ giả hiệu của những năm con rối của Dmitry Medvedev. (Không phải
chuyện, với
Dmitry Medvedev, sẽ có tự do thực sự; thỉnh thoảng ông ta hành động
cách đó,
như một cuộc trình diễn đần độn dành cho báo chí nước ngoài). Đám kẻ
thù chính
trị sẽ tấn công? Sẽ có những lục soát, bắt bớ, trò hề ra toà? Câu trả
lời, thì
thực là hiển nhiên, trong nhiều tháng nay: Những tiếng nói chỉ trích
Putin dữ dằn
nhất, có mọi lý do để mà sợ.
Điều nên
nghe, và cần đọc, là tiếng nói trực tiếp của những nhà ly khai ở tòa
án.
Pussy
Riot là 1 tập thể nữ- rác rưởi, một nhóm nghệ sĩ nổi loạn mang tính
chính trị,
những người, đối diện với những năm ở tù Nga, trở nên can đảm, tự sở
hữu. và rất
quan tâm, về mặt ý thức lịch sử. Và qua những lời chứng của họ ở tòa,
cho thấy,
họ tự chứng tỏ họ, rất thông minh, về mặt thách đố nhà nước, xứng đáng
nhập vô
truyền thống dài của những Andrei Sinyavsky, Larisa Bogoraz, Joseph
Brodsky, và
rất nhiều nhà ly khai khác, những người chường mặt ra trước mọi người,
và nói
cho chính họ, và cho nghĩa cả, là tự do.
Nadezhda
Tolokonnikova, một bà mẹ vào những năm đầu của tuổi đôi muơi của bà, là
một
nghệ sĩ có tài hùng biện, đếch biết sợ là gì, nhờ ngàn ngàn người ủng
hộ nhóm của
bà- ở hải ngoại và đặc biệt ở Nga – đã nối kết nghĩa cả của họ tới
truyền thống
lớn: tới Socrates, tới Dostoevsky, người dám đối diện với đội hành
quyết (một
đòn của Nga Hoàng nhằm làm ông hoảng sợ), tới những nhà thơ Oberiu (bị
Xì thanh
trừng) và tới Solzhenitsyn, người đã từng viết, và bà trích dẫn: “từ,
thì thành
thực, chân thực, chứ không phải chỉ cụ thể, và những từ như thế, đếch
phải chuyện
vặt. Một khi những con người phong nhã huy động, những từ của họ sẽ đè
bẹp vật
thể cụ thể, bê tông”. Những lời phán của bà kết thúc bản án chế độ thì
đúng là
1 thứ cổ điển tức thời, của thơ ca phản kháng, ly khai
Và đó là diễn
biến cuộc “Bướm Khoe Bướm” tại tòa: bản án đích thực sẽ dành cho chế
độ, không
phải cho họ. Những vị nữ lưu của nhóm Pussy Riot, giống những những vị
đực rựa
, như Sinyavsky and Brodsky trước họ, đã nói, với niềm tự tin của những
con người
tự do, biết rất rõ, những từ của họ - nhất là những từ kết thúc tuyên
bố - sẽ
sống dai hơn những tên bách hại họ, cả ở tòa án cũng như ở điện Cẩm Linh
Cái khó, cái khổ, cái nhục
của Mít, là đếch có 1 Nobel Hoà Bình như Miến, một Nobel Văn
Chương Cao
Hành Kiện như Tẫu, nhưng thay vì vậy, thì có 1 ông Nobel Toán.
Là VC cứ
tiếp tục một mình ăn cỗ, đếch cho thằng nào ăn ké, dù 1 tí, làm sao mà…
bắt tay?
Phải có 1
tay, chỉ 1 tay, dũng cảm nói, hành động, đúng lúc, đúng thời điểm, thí
dụ như Brodsky
khi bị lịch sử lọc ra giữa muôn người, và dũng cảm đóng vai của mình,
dù đếch
muốn.
My colleague
Masha Lipman has been doing a brilliant job of covering the terrifying
and
absurdist drama in Moscow known as the Pussy Riot trial. Masha reminds
us that
this is not Stalin or Brezhnev’s Moscow—the trial has been covered in a
way
that never would have happened in the heart of the Soviet era—but there
is no
minimizing what a distinctly representative moment this is for Vladimir
Putin.
Beginning at the end of last year, Putin stonily endured the spectacle
of mass
demonstrations protesting his regime and his imminent return as
President. Much
of the pre-election discussion was about whether Putin would crack down
on the
demonstrators after the balloting, whether he would erase the last
traces of
semi-liberal rhetoric and practice during the marionette years of
Dmitry Medvedev.
(Not that Medvedev was ever truly liberal; he just acted that way, from
time to
time, as if in a dumb show for foreign consumption.) Would political
enemies
come under attack? Would there be searches, arrests, or show trials?
The answer
has been obvious for months: Putin’s most vocal critics have every
reason to
fear.
What should
also be heard and read is the direct address of the dissenters
themselves to
the court. A punk-feminist collective, Pussy Riot is a band of
political
rebel-artists who, faced with years in a Russian prison, turn out to be
courageous, self-possessed, and historically aware. And in their
testimony they
have shown themselves to be defiantly intelligent, worthy of the long
tradition
of Andrei Sinyavsky, Larisa Bogoraz, Joseph Brodsky, and so many other
dissidents who stood in the dock and spoke for themselves and the cause
of
freedom.
Nadezhda
Tolokonnikova, a mother in her early twenties, and an artist of
fearless
eloquence, thanked the group’s myriad supporters—those abroad but
especially
those in Russia—and linked their cause to that great tradition: to
Socrates; to
Dostoevsky, who was made to face a firing squad (a ruse to terrify
him); to the
Oberiu poets (who were purged by Stalin); and to Solzhenitsyn, who once
wrote,
as she quotes him, “the word is more sincere than concrete, so words
are not
trifles. Once noble people mobilize, their words will crush concrete.”
Her
closing statement is a kind of instant classic in the anthology of
dissidence.
(A video is below; translations are available.)
And that has
been the Pussy Riot credo all along in court: the true verdict will be
a
verdict on the regime, not them. The women of Pussy Riot, like
Sinyavsky and
Brodsky before them, have spoken with the confidence of free people who
know that
their words—not least their closing statements—will outlive their
persecutors,
both in the courtroom and the Kremlin.
Note: Đọc bài
viết của Sến thì nhìn ra truyền
thống muôn đời của… bướm.
Đọc bài viết của David Remnick thì lại nhìn ra, truyền thống của…
Brodsky!
Kafka,
hàng độc
"Kafka
was Prague and Prague was Kafka.
It had never been so completely and so typically Prague, nor would it
ever again
be so as it was during Kafka's lifetime. And we, his friends ... knew
that this
Prague permeated all of Kafka's writings in the most refined miniscule
quantities." From an intimacy with a common spiritual homeland shared
with
Kafka, Professor Johannes Urzidil conjures up the essential background
of the
poet and provides authentic emphases for the understanding of his
literary art.
Personal experiences and recollections, wide reading, penetrating
insight, and
love congeal in Urzidil into an authentic and convincing interpretation
of the
living atmosphere surrounding Kafka and of his prime literary motifs
and ideas.
This edition, like that of the Deutsche Taschenbuch Verlag, has been
enlarged
so as to include five hitherto unpublished chapters, viz., impressive
portraits
of people close to Kafka, commentaries on Kafka's relation to the
visual arts,
on the history and impact of the Colem myths, on Kafka's intent at one
time to
destroy his manuscripts, as well as Urzidil's speech at the
commemorative
observance in 1924 in the Little Theater in Prague shortly after
Kafka's death.
Professor Johannes Urzidil
was born in 1896 in Prague. After completing his philosophical
studies there, he became one of the younger poets of the German
expressionist movement
and was in close contact with the Prague Literary Circle of Brod,
Kafka, Werfel,
and others. In 1939 he emigrated to the United States via Italy and
England and
settled in New York, where he is still living. His first publication
was a
volume of expressionistic poems (1919). Professor Urzidil has published
seven
volumes of stories and novels and is the author of many essays and
treatises.
Among his better known and more important scholarly works are Goethe in
Bohmen
(Goethe in Bohemia), 1962; Goethes Amerikabild (Goethe's Image of
America),
1958; and Amerika und die Antike (America and Ancient Antiquity)1964.
He was
awarded the Swiss International Prix Veillon for the best German novel
(1957),
the literary prize of the City of Cologne (1964), the Great Austrian
State Prize
for Literature (1964), and the Andreas Gryphius Prize (1966). He is a
corresponding
member of the German Academy of Language and Poetry in Darmstadt, of
the Austrian
Adalbert Stifter Institute and of several other learned and literary
societies.
Works of Johannes Urzidil have been translated from the German
originals into
English, French, Italian, Czech, Dutch, Hungarian, Russian, and Spanish.
jacket
design by S. R. Tenenbaum
Sài Gòn là Gấu,
và Gấu là Sài Gòn. Sài Gòn sẽ chẳng bao giờ hoàn tất đến như thế, đặc
biệt Sài
Gòn đến như vậy, và nó sẽ chẳng bao giờ lại như vậy, như trong đời của
Gấu,
khi ở Sài Gòn!
Gấu “dịch loạn”
câu, "Kafka
was Prague and Prague was Kafka. It had never been so completely and so
typically Prague, nor would it ever again be so as it was during
Kafka's
lifetime.
Cái “Sài Gòn
là Gấu và Gấu là Sài Gòn”, áp dụng chung cho tất cả chúng ta, Miền Nam,
và nó là 1
chân lý, bị cố tình hiểu lầm ra là, toan tính phục hồi cái xác chết
VNCH.
Cái gì gì lịch
sử có thể viết lại nhưng không thể làm lại!
Lịch sử
không thể làm lại, mặc dù có thể viết lại
Gáy cho cố,
trong khi lịch sử Mít đang lập lại chính nó hàng ngày, từng giờ, trên
từng cây
số: Anh Tẫu đang lập lại lời hứa của PVD. Dân Mít lập lại những vụ biểu
tình chống, thay
vì VNCH, thì bây giờ, VC. Lịch sử lập lại, trước “khâm phục” mấy anh VC
nằm
vùng dũng cảm chống Ngụy, thì bây giờ “thông cảm” mấy thằng khốn kiếp
bị Đảng
bịt miệng!
Làm sao có
thể khép lại quá khứ, khi người Việt và người Mĩ đã có thể chìa tay cho
nhau,
nhưng người Việt tiếp tục không chìa tay cho người Việt?
Người Việt
nào không chìa tay cho người Việt nào? Việt bắt tay Việt, hay Việt bắt
tay VC?
Anh y tá dạo ngày nào đâu có chịu anh Râu Kẽm, dù anh Râu Kẽm nhục nhã
bò về.
Anh PD bò về, mình mẩy nát bấy vì vết thương di tản, đâu có thoát bị VC
chửi là
tội đồ của dân tộc?
Có khó của Mít, là đếch có 1 Nobel Hoà Bình như Miến, một Nobel Văn
Chương Cao
Hành Kiện như Tẫu, nhưng thay vì vậy, thì có 1 ông Nobel Toán. Cái khó
là VC cứ
tiếp tục một mình ăn cỗ, đếch cho thằng nào ăn ké, dù 1 tí, làm sao mà…
bắt tay?
Phải có 1
tay, chỉ 1 tay, dũng cảm nói, hành động, đúng lúc, đúng thời điểm, thí
dụ như Brodsky
khi bị lịch sử lọc ra giữa muôn người, và dũng cảm đóng vai của mình,
dù đếch
muốn.
Cả hai nhà văn gối đầu
giường của tôi, Kafka và Nabokov, đều ít nhiều bỏ âm nhạc ra ngoài
trường quan tâm của họ. Lần
duy nhất Kafka nhắc đến âm nhạc, và không hẳn là tích cực, là trong
“Josephine, nữ ca sĩ hay Dân chuột“, còn Nabokov thì liệt kê âm
nhạc, nhất là âm nhạc làm nền cho những cuộc trò chuyện uyên bác, vào
danh mục những thứ ông ghét cay ghét đắng.
PTH
childish
measures may also serve to rescue one." With these words he begins his
story about the "Silence of the Sirens”. For Kafka's Sirens are silent;
they have "an even more terrible weapon than their song ... their
silence." This they used on Ulysses. But he, so Kafka tells us, "was
so full of guile, was such a fox that not even the goddess of fate
could pierce
his armor.
Perhaps he
had really noticed, although here the human understanding is beyond its
depths,
that the Sirens were silent, and opposed the afore-mentioned pretense
to them
and the gods merely as a sort of shield." Kafka's Sirens are silent.
Perhaps because for Kafka music and singing are an expression or at
least a
token of escape, a token of hope which comes to us from that
intermediate world
at once unfinished and commonplace, comforting and silly-in which the
assistants are at home. Kafka is like the lad who set out to learn what
fear
was. He has got into Potemkin's palace and finally, in the depths of
its
cellar, has encountered Josephine, the singing mouse, whose tune he
describes:
"Something of our poor, brief childhood is in it, something of lost
happiness which can never be found again, but also something of active
present-day life, of its small gaieties, unaccountable and yet real and
unquenchable."
Walter
Benjamin: Franz Kafka
“Nhân ngư” của
Kafka là im lặng. Có lẽ, với Kafka, âm nhạc và ca hát là diễn tả, biểu
hiện, hay
ít ra, một cái vé tẩu thoát, hy vọng....
V/v Lâu đài của
Potemkin:
Walter
Benjamin, trong một truyện cực ngắn khác, Chữ
Ký, kể câu chuyện xẩy ra tại cung đình nữ hoàng Catherine, ở Nga.
Vị cận thần
của bà, Potemkine, đang trong cơn sa sút tinh thần trầm trọng, kéo dài
ngày này
qua ngày khác. Không ai được tới gần căn phòng của ông. Không ai dám xì
xào về
căn bệnh của vị cận thần sủng ái. Khổ một nỗi, bao nhiêu giấy tờ đệ
trình nữ
hoàng, là phải có chữ ký của Potemkine. Đám quan chức hàng đầu trong
triều
không biết phải giải quyết ra sao.
Bữa đó, may
quá, một viên chức thuộc loại vô danh tiểu tốt, tên là Chouvalkine,
không hiểu
vì lý do nào, lại có mặt tại căn phòng bầu dục. Thấy mấy sếp mặt mày
nhăn như bị,
anh ta mới rụt rè vấn an, và khi biết được sự tình, bèn xung phong: để
em xông
vô phòng, với mớ giấy tờ cần chữ ký của Ngài Bí Thư. Mọi người thấy,
đâu có mất
gì, bèn gật đầu.
Chouvalkine
ôm mớ giấy tờ, mở cửa phòng, thấy Ngài Potemkine đang ngồi mơ màng trên
chiếc
ghế bành. Anh tới gần, Ngài cũng chẳng biết. Thế là anh cầm cây viết,
chấm mực,
dí vào tay Ngài; và Ngài cứ thế ký lia lịa, hết tờ này tới tờ khác.
Xong, anh
trở ra. Mọi người vồ lấy mớ giấy đã được thị thực. Mở ra, tất cả các
chữ ký, từ
chính tay Potemkine, nhưng đều biến thành... Chouvalkine! (1)
Kafka,
sử dụng truyện ngắn Chữ Ký,
để mở ra bài viết về Kafka. Ông viết, câu chuyện
về Potemkin có trước tác
phẩm Kafka 200 năm. Sự bí ẩn của nó, là của tác phẩm của Kafka. Cái
nhân
vật Shuvalkin, "tưởng" được việc, tưởng có tất cả, để rồi mất tất cả,
là K. của Kafka.
Ui
chao, sao dễ liên tưởng tới VC quá, chúng tưởng, chúng có tất cả để rồi
mất tất cả.
Lời Ước
[Nhìn lại một
năm văn học, 1999]
Nhìn lại thế
kỷ, tuần báo Văn Học Nghệ Thuật trên
lưới (internet), do Phạm Chi Lan chủ trương, có làm một cuộc phỏng vấn
bỏ túi
(mini). Trong số những câu hỏi có một: Anh/Chị coi Y2K [Year Two
Thousands], là một ý niệm
hay một sự
kiện?
Văn học hải
ngoại trong năm qua, hình như mang cả hai yếu tố: như một ý niệm, khi
vẫn luôn
luôn phải nhìn lại chính nó, tự hỏi về chính nó, liệu có một dòng văn
học hải
ngoại, sau cuộc tháo chạy tán loạn, mất quê hương, chọn biển cả thay vì
đất liền,
để dựng nước mới.... hay như một sự kiện quan trọng: cùng nhân loại
chấm dứt thế
kỷ hung bạo, với những biểu tượng của nó là Hitler và Lò Thiêu, Stalin
và trại
cải tại, Pol Pot và cánh đồng giết người...
Trong một
truyện cực ngắn, Lời Ước, Walter
Benjamin kể chuyện, sau một bữa lễ sabbath, mấy người Do Thái, từ xóm
đông xóm
đoài kéo nhau tới một cái quán tồi tàn nhất trong làng. Chuyện bá láp
một hồi,
một ông đưa ra ý kiến, từng người sẽ nói lên một lời ước của mình. Thôi
thì đủ
thứ ước ao: thêm căn nhà, thêm tí nhau, thêm tí thu nhập, thêm chiếc
xế... Khi
đã chán chê, họ mới chú ý tới một "kẻ lạ" ngồi thu lu ở một góc. Chẳng
ai biết anh ta. Trông cách ăn mặc, rõ ra một nhân vật cái bang. Anh ta
cũng
không tỏ vẻ hăm hở nói lên lời ước của mình:
-Tôi ao uớc
được làm một vị hoàng đế rất hùng mạnh, trị vì một vương quốc thẳng
cánh cò
bay; một đêm đang ngủ trong tòa lâu đài của tôi, quân thù thình lình
vượt biên
giới và trước khi ánh dương đầu tiên xuất hiện, đám giặc đã vào tới bên
trong
lâu đài... Tôi chẳng còn đủ thì giờ vớ đủ bộ quần áo, cứ thế chạy trối
chết,
ngày này qua ngày nọ, đêm này qua đêm khác, cuối cùng tìm được một chỗ
trú ẩn,
là góc quán này. Đó là lời ước của tôi.
Cả bọn, người
nọ ngó người kia, chưng hửng.
-Thế anh có
thêm được một món đồ nào không?
-Có, một chiếc áo thun!
Liệu chúng ta có thể nhìn lại văn học
hải ngoại, bắt đầu bằng lời ước của nhân vật cái bang kể trên?
Thật khó mà quên được lời ước, với
bất cứ một người Việt nào đã từng kinh nghiệm cuộc bỏ chạy tán loạn.
Nhưng với
thời gian, nó biến đổi, hoặc bị những lời ước khác, tức thời hơn, khẩn
cấp hơn,
làm quên lãng.
Những tác phẩm
văn học trong năm qua cho thấy, hai mặt của cùng một lời ước đó. Có
những cuốn
sách mà người ta cho rằng, đã hội nhập, không còn hoang tưởng, hết còn
ở trong
ghetto. Ở đây, cần phải nói rõ một điều, người ta đã lầm lẫn, hoặc đã
cố ý đồng
hoá, một tác phẩm văn học với một số hiện tượng xã hội. Cho tới nay,
chẳng hề
có một tác phẩm văn học nào hoang tưởng đến độ, muốn dấy lên một cuộc
chiến, để
tái lập một chế độ. Và cũng chưa có tác phẩm nào cho thấy, con người
Việt Nam
đã hội nhập thực sự ở quê hương mới. Tôi thật sự không tin, những tác
giả của
những cuộc tình chốc lát ở nơi đất người, trong lúc kiếm sống, lại tự
hào mình
đã hội nhập! Họ thực ra là đã từ bỏ đề tài những năm ngay sau 1975, mà
chủ yếu
là tố cáo cái ác của chủ nghĩa Cộng Sản, và hậu quả của nó, những thảm
họa khi
vượt biển tìm tự do. Bây giờ, hoặc là đề tài này không còn ăn khách,
hoặc là
chính tác giả của chúng cũng chán, hoặc nội lực không đủ để đương đầu
với nó,
bèn quay ra kể chuyện cuộc sống thường nhật của người Việt, đã có một
công ăn
việc làm ổn định, đã có va chạm chút xíu với người bản xứ. Va chạm chút
xíu,
nhưng không phải là xung đột, bởi vì ở đâu có hội nhập, ở đó có xung
đột; theo
nghĩa, anh mới tới muốn nơi đây thoải mái như là nhà của mình, còn chủ
nhà thì
muốn chui vào tận trong ngõ ngách tâm hồn người khách, để coi nó có gì
khác ta.
Nhà văn,
nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Nếu những năm sau 1975,
đề tài
trại cải tạo, vượt biển có lượng nhưng thiếu phẩm, trong năm 1999, đề
tài này
trở lại, trầm hơn, nặng hơn, và dĩ nhiên chất lượng hơn. Ở những tác
phẩm trước
đó, tác giả thi nhau tố cáo cái độc, cái ác, và những đau khổ mà bản
thân hay
gia đình, và đất nước đã phải chịu đựng. Vô tình, chỉ có tính chính
trị, thời
cuộc. Kundera đã chỉ đích danh tác phẩm được coi là khuôn mẫu của văn
chương chống
cộng, cuốn 1984 của Orwell:
đây chỉ là chính trị giả danh văn chương.
Tác phẩm 1984 giản lược
chế độ Cộng Sản vào danh sách những tội ác của nó, và
như thế,
vô hình trung, cũng rơi vào thế giới xám xịt của những trại tù! Rồi ông
chứng
minh, ngay cả trong thế giới mê cung là Vụ
Án, hay Lâu Đài, nhân vật của
Kafka cứ hở được chút nào là loay hoay kiếm một cái cửa sổ, để thở! Và
ông nhặt
ra được không biết bao nhiêu là chi tiết thơ, trong một thế giới không
thơ, là
thế giới mê cung, tức thế giới toàn trị.
Hơn nữa, khi
hăm hở tố cáo, chính nạn nhân không biết, không còn có thì giờ nhận ra,
cái phần
tha hóa ở nơi họ: bất cứ một con người nào, ở trong thế giới đó, cũng
bị tổn
thương. Nói như Todorov, chủ nghĩa Cộng Sản là thử nghiệm tối hậu về
đạo đức của
con người.
Nhân vật chính, viên sĩ quan trong Đá Mục của
Thảo Trường, có vẻ như thấy hết, hiểu hết, và tỏ ra có một
thái độ vượt lên khỏi những đau thương, giận dữ; nhưng được như vậy, là
nhờ đệ
tử, một anh lính truyền tin. Anh này làm độc giả nhớ tới nhân vật chính
trong Một ngày trong đời Ivan Denisovich, của
Solzhenitsyn (độc giả Đá Mục chắc khó
quên "xen" đệ tử kiếm việc làm nhàn rỗi cho sư phụ, và sư phụ lầm lẫn
trứng gà bồi dưỡng; đúng ra là của con heo đực).
Thảo Trường
đi tù tất cả 17 năm. Qua đây, ông đã cho xuất bản liền mấy cuốn, riêng
trong
năm qua là Đá Mục và Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu
Quả. Trong một phỏng
vấn trên đài Kicon, mạng Internet, ông cho biết, trong tù ông cứ thế
nghiền ngẫm,
và đã "bỏ túi" năm bẩy cuốn sách, qua đây tuần tự xuất bản. Ông sống
lại một lần nữa thời gian dài 17 năm. Nhưng nếu chúng ta theo sát những
bài viết
của ông, sẽ nhận ra, đã có dấu vết thay đổi, giữa những truyện ngắn
đầu, và mới
đây. Tác giả tuy bỏ túi vài tác phẩm thực, nhưng khi viết ra, nó không
giống
như là lúc ông còn ở trong trại tù, đã tưởng tượng mặt mũi của chúng.
Ông ngày
trầm hơn, văn ngày thấm hơn, vượt lên nỗi cay đắng còn đè nặng hồi ức
những
ngày tù.
Ở Lâm Chương
cũng vậy. Khi trả lời phỏng vấn, hình như ông cho biết, chỉ vào nhà tù,
ông mới
biết căm thù nghĩa là gì. Nhưng càng viết, ông càng bớt căm thù. Bởi
vì, hận
thù, với một nhà văn, là thất bại của trí tưởng tượng. Trong truyện của
ông,
người đọc nhận ra những cay đắng, nhưng còn nhận ra, vết thương đang
lành.
Trong một bài tổng quan, thật khó mà đưa ra chi tiết chứng minh, hy
vọng sẽ có
dịp được viết rõ hơn về từng tác giả, trong năm 2000. Vả chăng, khi
người ta
"trung thành" với một điều gì, cùng lúc người ta "phản bội"
một điều khác: chống Cộng, ở một số nhà văn Miền Nam mang tính công dân
(thù
nhà, nợ nước?), hơn là mang chất văn chương.
Chính chúng
ta, độc giả, khi phải nhìn lại (đọc lại) một số tác phẩm văn học, cũng
thấy
mình đã đổi khác. Tác phẩm có thể vẫn vậy, nhưng con người đổi khác.
Trước đây,
những độc giả Miền Nam thật khó mà chấp nhận một tác phẩm của một người
ra đi từ
Miền Bắc, lại có thời rất thân cận với cung đình Bắc Bộ Phủ, như Vũ Thư
Hiên.
Và người ta nhận ra một điều, ngay cả những lúc phải "ăn nằm" với chế
độ toàn trị, tiếng nói của một miền đất vẫn giữ riêng cho nó một khoảng
cách.
["Đi tù với một bông hồng", là tên một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa,
trên báo Diễn Đàn, về tác phẩm "Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên.]
Rõ rệt nhất là ở Lê Minh Hà, với hai tác phẩm xuất bản liền trong hai
năm vừa
qua, Trăng Góa, và Gió Biếc.
Có người cho
rằng ở Lê Minh Hà, truyện không ra truyện, tủn mủn, manh mún. Với Gió Biếc (1999), có người chỉ thấy những
cảnh đời nhếch nhác của một số người Việt, phải bỏ nước ra đi, rồi cố
tìm cách
để khỏi phải trở về. Nhưng vẫn như trong trường hợp Kundera nói về sự
khác biệt
giữa Orwell và Kafka: Bạn phải kiếm cửa sổ để mà thở, thay vì cố chứng
minh,
đây là những nhà tù!
Vẫn có những
tác giả đã không thể quên ước mơ thoạt đầu, ngày xưa. Họ không nói tới,
nhưng
chúng ta cảm thấy, qua cách viết, qua hành động của nhân vật. Trong
truyện ngắn Biển (của Miêng) là chia sẻ tấm áo
thun, ở đây là những giọt lệ nhỏ xuống cho một kẻ điên khùng, không còn
nhận ra
chính mình, nhưng lại nhận ra người vợ, và qua đó, những đứa con đã
chết trên
biển cả. Hay như Kẻ Lạ (của Hồ Như),
khi trở về, và nghe quê hương xì xào: Kìa ai như Cô Thắm... Hay như
nhân vật
trong truyện Trở Về (tạp chí Hợp Lưu)
của Phạm Hải Anh, về để thấy rằng, quê hương không từ chối anh. Hay như
nhân vật
Nữ Độc Thủ của Linda Lê la lên: Ông ta chết rồi, hãy để cho ông ta yên
thân!
Theo tôi,
văn chương Việt hải ngoại 1999, là một năm được mùa. Mùa gặt mới, trong
đó có cả
lúa chín muộn: sự góp mặt của một tác giả như Trần Thị NGH. Đây là một
tác giả
trước 1975 tại Miền Nam, vừa xuất hiện đã gây chấn động giới viết lách
ở Sài
Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa Khoá Trái.
Nếu trí nhớ không phản bội tôi, hình như truyện đầu tay của bà là về
một người
đàn ông có vợ, đến gặp một người đàn bà không chồng, nhưng có con;
thằng nhỏ bữa
đó bị đau, anh chàng đi mua thuốc cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng
tôi vẫn
còn nhớ cái cảnh cô đơn của người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác
ngác trước
tiệm thuốc tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm. Ở những
truyện
viết sau này (trong tập truyện ngắn do nhà Văn Nghệ xuất bản, 1999),
nhân vật của
bà vui hơn, tuy vẫn chưa quên được những người tình cũ, cuộc đời con
gái, cũ.
Nếu phải chọn
một tác phẩm, tôi chọn tập truyện ngắn của Miêng. Do cái phần tâm linh
của nó,
hơn là do cách dựng truyện, cách dựng nhân vật. Với Lê Minh Hà, tôi
chọn ngôn
ngữ, hơn là truyện ngắn. Có một cái gì đó, làm tôi phải tự hỏi: làm sao
cái mầm
sống của chữ nghĩa, của một miền đất, sau bao nhiêu đọa đầy, nhưng vẫn
không chịu
bị bẻ gẫy, ở đôi chỗ, vẫn tươi mát đến như vậy?
Walter
Benjamin, trong một truyện cực ngắn khác, Chữ
Ký, kể câu chuyện xẩy ra tại cung đình nữ hoàng Catherine, ở Nga.
Vị cận thần
của bà, Potemkine, đang trong cơn sa sút tinh thần trầm trọng, kéo dài
ngày này
qua ngày khác. Không ai được tới gần căn phòng của ông. Không ai dám xì
xào về
căn bệnh của vị cận thần sủng ái. Khổ một nỗi, bao nhiêu giấy tờ đệ
trình nữ
hoàng, là phải có chữ ký của Potemkine. Đám quan chức hàng đầu trong
triều
không biết phải giải quyết ra sao.
Bữa đó, may quá,
một viên chức thuộc loại vô danh tiểu tốt, tên là Chouvalkine, không
hiểu vì lý
do nào, lại có mặt tại căn phòng bầu dục. Thấy mấy sếp mặt mày nhăn như
bị, anh
ta mới rụt rè vấn an, và khi biết được sự tình, bèn xung phong: để em
xông vô
phòng, với mớ giấy tờ cần chữ ký của Ngài Bí Thư. Mọi người thấy, đâu
có mất
gì, bèn gật đầu.
Chouvalkine
ôm mớ giấy tờ, mở cửa phòng, thấy Ngài Potemkine đang ngồi mơ màng trên
chiếc
ghế bành. Anh tới gần, Ngài cũng chẳng biết. Thế là anh cầm cây viết,
chấm mực,
dí vào tay Ngài; và Ngài cứ thế ký lia lịa, hết tờ này tới tờ khác.
Xong, anh
trở ra. Mọi người vồ lấy mớ giấy đã được thị thực. Mở ra, tất cả các
chữ ký, từ
chính tay Potemkine, nhưng đều biến thành... Chouvalkine!
Với câu chuyện
cực ngắn Chữ Ký, chúng ta nhìn về
trong nước. Cái me-xừ Potemkine, phải chăng là chủ nghĩa hiện thực xã
hội (thứ
thiệt?), mà những anh chàng Chouvalkine vẫn hy vọng viết dưới ánh sáng
của nó?
Nguyễn Quốc
Trụ
Ui chao, đọc
lại bài viết, thấy Gấu ngày đó sao ngây thơ, yêu đời thế!
Thảo nào, Sến vừa xuất hiện, là cắp giỏ theo hầu liền!
The Balcony, [Ban công, Bao
Lơn], kịch nổi tiếng của "Thánh" Genet.
Thánh,
là do Sartre phong cho ông.
The Balcony satisfies to a degree
hitherto
unknown our contemporary appetite for violence, perversion, and squalor
Bao Lơn thoả
mãn tới mức độ - cho tới nay chưa biết được - cơn thèm khát sự hung
bạo, trò dâm
loàn tởm lợm, thú đau thương bịnh hoạn đương thời của chúng ta
The New Yorker
A theatrical
experience as starting as anything since Ibsen’s revelation that there
was such
a thing a syphilis
Khủng chẳng
thua gì Ibsen, khi ông mặc khải ra giang mai.
Đâu có phải
là dân Hà Nội “thiếu tự trọng”, khi sắp hàng để được chửi, và sau đó,
được ăn
phở, và tất nhiên, được trả tiền, và thảnh thơi ra về:
Trong sạch như 1
lần sự thật
[TTT]
Sở dĩ PXA quằn
quại, nắm tay vợ, em ơi, em cứu anh... Võ Tướng Quân sống hoài
hoài, không
làm sao “đi”, là cũng do không được ăn phở chửi!
Genet viết kịch này, ấn bản thứ
nhất, vào năm 1955. Kịch xẩy ra
tại Bao Lơn Lớn, Le Grand Balcon, một nhà bướm, khách của nó, tầng lớp
tinh anh
của thành phố, của chế độ, của tôn giáo... Họ tới để được bướm hành hạ,
chửi
mắng, xỉa xói, đánh đập. Sau khi được hành, cả phần xác lẫn phần hồn,
tới chỉ
như thế, họ thảnh thơi ra về, được thanh hoá.
“Mắm mì”, chủ
nhà bướm - căn nhà của những ảo tưởng, the house of illusions - tên là
Irma.
Những nhân vật khi xuất hiện, thường lập đi lập lại những "ẩn dụ"
liên quan tới cuộc cách mạng đang diễn ra dưới phố. Một trong những
bướm,
Chantal, trốn nhà bướm tham gia cách mạng và trở thành biểu tượng của
Tự Do.
Cách mạng thành công, làm thịt Vua và Hoàng Hậu, trùm Công An bèn thay
thế
Hoàng Hậu bằng “mắm mì” Irma....
Gấu,
lần về Hà Nội, được ông cậu dẫn đi ăn phở chửi. Ông nói, phải sắp hàng,
và chỉ
1 quán gần đó, mày thấy không, vắng hoe.
Bà chủ quán, mập như heo, cũng lao dộng như mọi nhân viên, ngồi chễm
chệ trên 1
cái ghế khá cao, tay lia lịa chặt thịt, mắt liếc như dao, không bỏ xó
nào, vị
khách nào. Y chang em bướm từng khinh bỉ mắng Gấu, mi Nam Kít, học chi
tiếng
Bắc Kít, bà hất hàm, bao giờ "nhỏ máu ngón tay, viết đơn tình nguyện đi
R" thì biểu, Bác đãi 1 tô!
Bạn
có nhớ cái cảnh Sến tả, mấy anh Bắc
Kít tình nguyện đi Nam, sáng hôm sau ra ga Hàng Cỏ lên tàu, thì tối hôm
đó, được
Bác cho hửi mùi bướm!
Ui chao, bà nói một phát, là Gấu cảm thấy thoải
mái vô cùng, ấy là vì như vậy là bà
tha cho cái tội, tội đồ của dân tộc
Bà "trọng" Gấu hơn cả Tướng Râu Kẽm hay vị đại nhạc sĩ của dân Mít!
Hà, hà!
Cái vụ cháo
chửi, phở chửi này, không có là không được. Cứ coi hai trường hợp nhãn
tiền là
PXA và Võ Tướng Quân, là đủ rõ.
Nếu bạn còn nghi ngờ, Gấu Cà Chớn xin nêu thêm trường
hợp, nguồn của nó, là từ Liêu Trai
của Bồ Tùng Linh, do ông anh của Gấu là Hiếu
Chân kể lại.
Đó là câu chuyện mất vịt
không
chửi.
Đại khái như sau: một bà già nhà quê có một bầy vịt, cứ
hao hụt dần. Nhưng chẳng bao giờ bà ra đầu ngõ, chổng mông, vén váy tố
“mả cha,
mả bố thằng nào, con nào bắt trộm của bà...”.
Anh chàng hàng xóm khoái
món thịt vịt luộc chấm mắm gừng, một
bữa thức dậy, bỗng thấy lông vịt mọc lên, trước còn ít sau cứ thế lan khắp người! Hoảng quá,
lên chùa, cầu cứu
Phật. Phật nói, muốn hết bệnh, phải đến nhờ bà cụ mất vịt chửi
cho! Chửi
đến đâu, lông vịt rụng tới đó!
Giả như không
có cháo chửi, phở chửi, người Hà Nội bây giờ ra sao? (1)
Mũi lõ kêu
là “Catharsis”gì gì đó.
VC khi đưa
Ngụy vô Trại Tù, kêu là Cải Tạo, Phục Hồi Nhân Phẩm…
là cũng ý đó: Thanh hóa, tẩy rửa, ăn năn, sám
hối thông qua lao động, học tập… để được làm người trở lại.
Reality
Versus Illusion: Jean Genet’s ‘The
Balcony’
Ba thao
tác
giúp báo Người Việt triệt để sửa sai
Sự kiện, báo
Người Việt chửi cả lũ VNCH hải ngoại, và lũ này vẫn tiếp tục mua báo
của băng đảng
Cờ Lăng của chúng, và sự kiện, dân thủ đô VC xếp hàng chờ tới lượt
“được” chửi,
có khi được đá, được đạp, nếu đông khách quá, rồi mới cho ăn cháo, ăn
phở,
tưởng chẳng mắc mớ gì với nhau, hay chỉ là 1 sự kiện văn hóa sa đọa
- theo Gấu Cà Chớn, có lẽ không phải.
Không phải tự
nhiên mà Sến “ngứa miệng”. Phải có lý do hoặc tiềm ẩn hoặc đen tối nào
đó. Có
khi chính Sến cũng không biết, và có thể nó liên can đến cái chuyện
"Tôn
Phu Nhân qui Thục"!
Bắc Kít đâu còn là quê hương của Sến?
Gấu nghĩ hoài, và cuối
cùng ngộ ra, khi nhớ tới vở kịch Le Balcon
của
Jean Genet.
Gấu biết đến cái tên vở kịch cũng như tên tác giả, là qua ông anh nhà
thơ. Một
lần ngồi Quán Chùa, lèm bèm về kịch - Ông anh phán, kịch mới đứng đầu
thiên hạ,
Thơ là đàn em, là “Ông Số 2”, so với nó - và nhân đó, ông nhắc
tới Le Balcon, và cho biết, ông mê kịch
này lắm; và bây giờ, ông đi xa rồi, Gấu tự hỏi, hay là, sự kiện ông mê
kịch, có
liên can tới sự kiện Sến “ngứa miệng”, và có thể còn liên quan đến cả
Gấu nữa,
liên can đến Cái Ác Bắc Kít!
Liên can đến “Tội Tổ Tông”, từ đó, đẻ ra
cú ăn cướp
Miền Nam!
Hà, hà!
Nhưng gì thì
gì, phải đi một đường “Le Balcon” trước đã.
*
Trùng
hợp làm sao, trên talawas thấy có link, một bài viết
về mấy quán ăn của đất Hà Thành ngàn năm văn vật. Khách đến, để ăn, lẽ
dĩ
nhiên, nhưng còn để được nghe chửi.
Gấu bỗng nhớ đến kịch nổi tiếng của ông "Thánh" Jean Genet, La
Balcon.
Và nhớ... Đỗ Hoàng Diệu, tuy chưa từng gặp.
Hiện Tượng Bóng
Đè
The
Balcony, [Ban công, Bao Lơn], kịch nổi tiếng của "Thánh" Genet.
Thánh,
là do Sartre phong cho ông.
Genet viết
kịch này, ấn bản thứ nhất, vào năm 1955. Kịch xẩy ra tại Bao Lơn Lớn,
Le Grand Balcon, một nhà bướm, khách của nó, tầng lớp tinh anh của
thành phố, của
chế độ, của tôn giáo... Họ tới để được bướm hành hạ, chửi mắng, xỉa
xói, đánh đập.
Sau khi được hành, cả phần xác lẫn phần hồn, tới chỉ như thế, họ thảnh
thơi ra
về, được thanh hoá, và phạm tội tiếp. Mắm mì, chủ nhà bướm - căn nhà
của những ảo
tưởng, the house of illusions - tên là Irma. Những nhân vật khi xuất
hiện, thường
lập đi lập lại những "ẩn dụ" liên quan tới cuộc cách mạng đang diễn
ra dưới phố. Một trong những bướm, Chantal, trốn nhà bướm tham gia cách
mạng và
trở thành biểu tượng của Tự Do.
Cách mạng thành công, làm thịt Vua và Hoàng Hậu, trùm Công An bèn thay
thế
Hoàng Hậu bằng mắm mì Irma....
Gấu tui không hiểu, Đỗ Hoàng Diệu đã từng đọc "The Balcony"?
Thiên hạ khen Bóng Đè um lên,
bởi là vì ĐHD đã "viết giùm" những ẩn ức,
những ẩn dụ cho họ?
Đọc Bóng Đè, theo một nghĩa
nào đó, là trở thành khách hàng của
Bóng Đè [của
The Balcony]?
Được đến The Balcony, được
hành xác, và sau đó, được thanh hoá?
Những đao phủ, thay vì ngồi thiền, thì đọc... Bóng Đè?
Gấu sợ rằng, những quán chửi ở Hà Thành, là đã nắm đúng huyệt của thời
đại, đi
đúng giòng văn học tự kiểm, tự vấn với những NHT chẳng hạn.
Ông này chẳng phải chửi um lên, mà gạt đi không hết độc giả?
*
Le mauvais gout mène au crime [Stendhal].
Thưởng ngoạn dởm đưa đến tội ác.
Trong
nhiều năm Genet mơ tưởng viết một vở kịch về Tây Ban Nha, và Bao Lơn
bật ra từ ao ước đó:
"Điểm xuất phát Bao Lơn được ấn định là Tây Ban Nha. Một Tây Ban
Nha của Franco, và cuộc cách mạng tự thiến chính nó, là của tất cả đám
Cộng
Hoà, khi họ chấp nhận thua trận."
"Nhưng sau đó, vở kịch cứ thế triển nở, mặc xác, chẳng thèm để ý đến
Tây
Ban Nha: Kịch đi đằng kịch, Tây Ban Nha đi đằng Tây Bán Nhà! [And then
my play
continued to grow in its own direction and Spain in another]."
Rõ ràng là Trùm Công An có thể coi như Franco, nhà độc tài, Roger,
những anh em
cách mạng, Chantal, cô bướm bỏ nhà điếm đi theo cách mạng: cuộc đời
ngắn ngủi của
nền Cộng Hòa.
Và mắm mì Irma: Tây Ban Nha đích thị đất nước thân yêu của chúng ta!
Nhìn như thế, có thể giải thích, con đường từ NHT đến ĐHD, và liệu có
thể đây
là lý do thầm kín tại sao vẫn lại là NN làm bà đỡ cho tài năng mới mẻ
này: Thất
bại của một Tướng Về Hưu phát sinh một Bóng Đè? Hay
nói theo kiểu
"bỗ bã" đặc biệt NHT: Tướng Về Hưu bị thiến biến thành Bóng
Đè, hay ngược lại, Bóng Đè là một trường hợp "quá cái
biến
thành đực", "âm thịnh dương suy"?
Trong những kỳ tới Tin Văn sẽ giới thiệu bài phỏng vấn Genet, và trường
hợp Bao
Lơn được dàn dựng, phản ứng của chính tác giả với đứa con của mình,
khi qua
tay đạo diễn, và của khán thính giả. Có vẻ như, nó sẽ đưa ra thêm một ý
kiến
cho cuộc tranh luận chung quanh vấn đề tác giả có nên bảo vệ tác phẩm
của mình,
hay là kệ mẹ nó, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu!
Quá
cái biến thành đực?
Ai
vậy cà?
Đè
Bắc Kít đâu
còn là quê hương của Sến?
Câu này, thực sự GCC không tính viết về Sến, mà là về Gấu. Và về cuộc
tình thê
lương, ngay những ngày đầu ra hải ngoại, của 1 anh già không làm sao
quên được
cái chuồng giam giữ tuổi thơ của nó, là xứ Bắc Kít.
Bạn có nhớ Mai Thảo, đang nằm ốm, chờ đi xa, có 1 em Bắc Kít 100 phần
dầu, Hà Nội
cũng 100 phần dầu, ghé thăm, ông nhỏm phắt dậy, thảng thốt hỏi, ai đó,
lâu quá
mới được nghe giọng Hà Nội.
Cuộc tình
khi sắp đi xa, của Gấu cũng thê lương, cũng thảng thốt như thế đó!
Hà, hà!
Cuộc tình chót đời, vào lúc sắp
xuống lỗ, đơn phương, của Gấu,
là... tưởng tượng ra 1 em Bắc Kít, lấy chồng ngoại, và khi được hỏi,
tại sao
không lấy Mít, và, tại sao không lấy 1 tên Bắc Kít, Em trả lời, tụi
khốn đó đâu
có biết trọng đàn bà, nhất là đàn bà đã có 1 đời chồng mất đi vì cuộc
chiến!
Thế là Gấu bèn tưởng tượng tiếp, ta sẽ là tên Mít đó, tên Bắc Kít đó,
và ta
nói, ta yêu Em, và chắc chắn em sẽ tin.
Nói tiếng Vịt, tất nhiên:
Anh "thươn" EM!
[Em gốc “rau muốn”, thành “giá sống”, từ 1954]
Ui chao, Em tin thiệt!
Gấu nhận được cái mail sau cùng
của Em, chắc là trong mơ, mới
tuyệt vời làm sao:
Tui bận lắm, đâu có thì giờ
rảnh mà trả lời mail
của anh.
Nào chồng, nào con, nào công việc chùa chiền, nào.. ‘viết’ nữa.
Nhưng cũng ráng viết vài dòng…
Ui chao GNV lại nhớ đến nhân
vật của Camus, lo hết cuộc đời trần
tục này, rồi nếu có tí dư, thì dành cho… trăng sao, và cho Gấu!
Tks. Take Care. Plse Take Care.
NQT
Ui
chao, đúng cái cảm giác của MT, khi nghe giọng Bắc Kít, Hà Nội của em,
bữa đó….
Còn 1 cú
nữa, cũng xẩy ra vào thời kỳ mới tới Xứ Lạnh, cũng 1 em Bắc Kít,
phôn cho Gấu, khi đang làm 1 tên bán bảo hiểm nhân thọ, nhưng em này
còn trẻ
măng, giọng nũng nịu không thể nào mà không mê cho được... Gấu
hình như
cũng đã lèm bèm rồi, chính vì thế mà Gấu nghi là cái miền
đất
khốn kiếp đó trả thù Gấu, khi Gấu lấy 1 em miệt vườn, để chống
lại nó!
Lại
còn cái mẩu chuyện, lần trở về mái nhà xưa [Người xa vắng biết đâu nấm
nhà buồn]
đi tham quan bướm Hà Nội, gặp1 bướm, khi nghe giọng Gấu, bèn cau mặt,
mi là 1
tên Nam Kít, bày đặt học tiếng Bắc Kít. Cái thứ tiếng Bắt [Bắc, em chọc
quê Gấu],
chua như dấm, the thé như 1 con động kinh, hay gì mà bắc [bắt] chước?
Vỗ
tay
Được, được!
Tuy cũng còn sến, thí dụ, gối đầu giường!
Cũng vẫn... khoe hàng!
Làm Gấu nhớ
tới lần đầu tiên đi nghe nhạc, khi ban nhạc Jazz với những Vua Kèn Đồng
Louis
Amstrong, Quận công, Duke Clarinet, Ellington ghé Sài Gòn những ngày
đầu Diệm, và Diệm còn đầu, ngay sau 1954, và hình "anh cu Gấu" ngồi
ngay hàng đầu, sau được đưa lên tờ Thế
Giới Tự
Do.
Cứ mỗi lần Louis Amstrong rống kèn đồng là toàn thể Mít ngồi nghe sướng
điên
lên, vỗ tay đến bể rạp
Lần đó, ông anh nhà thơ và băng của ông, cũng
đi nghe, và ông để ý đến "chi tiết là Thượng Đế", vỗ tay đó, và, tất
nhiên, Vua Kèn cũng để ý, thế là ông rống kèn dài dài!
Nhưng ông em
nhà thơ, bạn C của Gấu, thì lại chỉ mê, những lần Vua Kèn ngưng thổi
kèn, buông
cây kèn ra, và lừ đừ cất lên cái thứ tiếng hát khàn khàn, đục, đầy nhựa
bàn đèn, đầy mùi rượu,
thuốc lá, và đầy chất Jazz “đen ơi là đen, như một bông hồng đen”!
Về nhà, bạn
ta bắt chước, cứ mỗi lần vô nhà tắm, là bạn hò, và một bà hàng xóm,
qua, gặp bà
cụ, hỏi thăm, chắc là Cậu Ba [Cậu Hai là ông anh lớn, tức nhà thơ TTT]
bịnh, thấy
cậu rống lên, nghe… tội quá!
Về hàng của
Sến, Nabokov, Gấu không… khứng. Ông này con nhà giàu, mà giàu là Gấu
tởm rồi!
Thành thử,
không để ý đến chuyện ông thích hay không thích âm nhạc.
Nhưng Kafka,
sai.
Sến đọc Kafka như thế là chưa tới. Chưa biết tới thứ âm nhạc mà Kafka
thích
nghe, thứ âm nhạc chỉ tấu lên ở địa ngục, thứ nhạc sến, thí dụ, được
tấu lên ở
Trại Tù VC.
Cả hai nhà
văn gối đầu giường của tôi, Kafka và Nabokov, đều ít nhiều bỏ âm nhạc
ra ngoài
trường quan tâm của họ. Lần
duy nhất Kafka nhắc đến âm nhạc, và không hẳn là
tích cực, là trong “Josephine, nữ ca sĩ hay Dân chuột“, còn
Nabokov thì liệt kê
âm nhạc, nhất là âm nhạc làm nền cho những cuộc trò chuyện uyên bác,
vào danh mục
những thứ ông ghét cay ghét đắng.
PTH
GCC nhắc bài,
Kafka còn viết “Sự Im Lặng của Người Cá”, "The Silence of the Sirens",
"cũng" bàn về âm nhạc, với câu phán thần
sầu: Người Cá vẫn còn 1 vũ khí khủng khiếp hơn cả tiếng hát, đó là sự
im
lặng của
họ [Now the Sirens have a still more fatal weapon than their song,
namely their
silence. Kafka The Complete Stories &
Parables]
Trong Errata,
Steiner dành 1 chương cho âm nhạc,
theo ông, vượt ra khỏi xấu và tốt, giả và thực, thiện và ác, chữa lành
và làm
khùng, la musique peut rendre fou, et peut aider à guérir l’esprit
brisé. Ông nhắc tới im lặng của người cá, và câu của Kafka, mà GCC
chôm, ở trên:
Thứ âm nhạc thần sầu là của những linh hồn trầm luân hát ở Địa Ngục, la
plus pénétrante
des musiques, le plus beau des chants est celui des âmes damnés qui
chantent
dans la fosse de l’enfer.
Đây là đề tài một bài viết
GCC "mang nặng" mà không dám "đẻ đau", tính viết hoài, và cứ như sợ,
không dám đụng tới [Gấu mà cũng nhát thế ư?]
Bài Tựa của
tập Truyện & Ngụ ngôn Toàn Tập
của Kafka, của Joyce Carrol Oates, rất thú. GCC
nhớ là đã từng phải vô thư viện photocopy bài viết này, hồi
mới tới
Canada!
Lại khoe!
Thì cũng bắt
chước Sến!
Cái vụ không
thích âm nhạc của Kafka, là có thực, ông nói về nó, nhiều lần. Với ông,
không
thích âm nhạc có nghĩa là, “không thể viết văn bằng tiếng Đức”. (1) Bởi vì
như ông
nói, ngôn ngữ là âm nhạc và hơi thở của gia đình. [Language is the
music and
breath of home. Gustav Janouch: Chuyện
trò với Kafka].
Âm nhạc
đối với tôi thì giống biển. Tôi bị áp đảo, overpowered, kinh ngạc,
wonderstruck, mê hoặc, enthralled, tuy nhiên, sợ, rất ư sợ cái sự không
chấm dứt
của nó, so terribly afraid of its endlessness. Tôi đúng là 1 tên thuỷ
thủ dở, I
am in fact a bad sailor. Max Brod hoàn toàn khác hẳn. Anh lao đầu vô
cơn lũ âm
thanh, je dives head first into the flood of sound…. Ngôn ngữ là âm
nhạc và hơi
thở gia đình. Tôi - bởi vì tôi bị bịnh xuyễn nặng, kể từ khi mà tôi
không thể nói
cả hai thứ tiếng Czech và Hebrew. Tôi đang học cả hai. Nhưng đúng là
như thể một
kẻ đang theo đuổi một giấc mơ [bỗng nhớ đến giấc mơ của mấy đấng VC nằm
vùng của
TKD!]: Làm sao mà lại có kẻ thấy mình ở bên ngoài một điều gì đúng ra
phải tới
từ bên trong?
How can one
find outside oneself something which ought to come from within?….
“Gia đình
Kafka (?) ở khu Do Thái, nơi tôi sinh ra, thì xa nhà, xa, xa lắm, không
thể đo được”
[The Karpfengasse in the Jewish quarter, where I was born, is
immeasurably far
from home]
GCC sẽ post đoạn hai ông Janouch và Kafka
lèm bèm về
âm nhạc, bởi vì “vụ việc” không đơn giản như Sến Cô Nương nghĩ, và cái
vụ hai
tác giả gối đầu giường là Kafka và Nabokov của Sến, cũng kỳ kỳ, và nó
làm Gấu
nhớ đến sư phụ của NMG, là… Dos.
Lần Gấu ở
nhà ông, có Nguyễn Bá Trạc, từ San Jose xuống, và anh lôi ảnh Dos từ
trên bàn
thờ trong phòng khách, để chứng minh cho Gấu thấy!
Nhân đó, Gấu
hỏi, làm sao mà ông mê Dos, vô lý quá, văn của ông, viết 1 lần là xong,
khỏi phải
sửa, còn Dos, rậm rạp như bộ râu của ông ta, [Gấu nhớ là, có 1 ông Tẩy
còn nói,
may quá, chúng ta không phải đọc Dos bằng nguyên bản tiếng Nga!], và
ông bèn biểu
Gấu, chính vì thế mà tôi mê.
Tôi mê cái
điều tôi không thể!
Sợ Sến cũng
thế!
Ui chao,
chán quá, lại nhớ đến BHD, nhảm thế:
Ta thương mi
vì mi muốn điều không thể.
Em phán bằng
tiếng Tẩy nữa chứ!
Oates trong
bài viết dùng làm Tựa cho “Toàn tập Truyện
ngắn & ngụ ngôn”, Kafka as
Storyteller, coi Kafka chủ yếu là nhà kể chuyện thần sầu, but he is
primarily a superb storyteller.
GCC, nhân đang đọc bài của Joan Acocella trên
tờ The New Yorker, bèn liên tưởng, và
ngộ ra rằng, truyện ngắn, ngụ ngôn của Kafka chẳng khác chi một câu
chuyện cổ tích
dành cho con nít.
"Thiên
sứ" của Sến chẳng phải là 1 đứa con nít thèm được Bắc Kít “mi”, nhưng
Bắc
Kít bận giết người, cướp của, cướp Miền Nam, quá, đâu có thì giờ, thế
là em bỏ
đi luôn qua… Đức ư?
Thảo nào mê Kafka!
The
witch tests the apple for Snow White.
Mụ phù thuỷ
thử trái táo
Once Upon a
Time
The lure of
the fairy tale.
by Joan
Acocella
July 23,
2012
Truyện Thằng
Bé Bướng Bỉnh, của Grimmm:
Ngày xưa có
1 thằng bé bướng bỉnh không bao giờ làm điều mẹ biểu làm. “Bụt” bực
quá, bèn phạt
bịnh dài dài, bác sĩ cũng chào thua, và thằng bé bèn nằm bịnh ít lâu,
rồi chết.
Chôn rồi, nhưng vẫn bướng bỉnh, thò một cánh tay ra khỏi mặt đất. Ấn
xuống, lại
chui lên. Bà mẹ đành phải đích thân tới mồ, lấy cành cây quất cái tay
ngỗ nghịch
một phát.
Cánh tay bèn
rút lui, và, lần thứ nhất, nó không trồi lên nữa: Lần
đầu tiên thằng bé cảm thấy bình an, bên
dưới mặt đất.
Lại... liên
tưởng:
Giả như
“Thiên Sứ” được mấy đấng bố mẹ Bắc Kít "mi", chắc là thoát cuộc chiến
Mít?
Tướng Giáp
được thăm nhân ngày thương binh, liệt sĩ (1)
Tôi đọc tin
thấy Quân ủy Trung ương thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân ngày thương
binh, liệt
sĩ mà cảm thấy kỳ kỳ. Tướng Giáp không phải là thương binh, tất nhiên
không phải
là liệt sĩ, và cũng không phải là con em hay cha mẹ thương binh, liệt
sĩ. Vậy
hà cớ gì lại phải thăm ông nhân danh dịp kỷ niệm 65 năm ngày thương
binh, liệt
sĩ? Hay Quân ủy Trung ương coi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một thứ
thương binh,
hay thậm chí là liệt sĩ, tức là tuy còn sống mà như là đã chết? Trong
khi đó,
ngày chiến thắng Điện Biên Phủ vừa qua (7-5) chẳng thấy ma nào từ Quân
ủy Trung
ương tới thăm tướng Giáp. Tướng Giáp là người luôn luôn bị sỉ nhục
trong cuộc đời
của ông, trước đây là làm Chủ nhiệm Ủy ban sinh đẻ có kế hoạch, giờ đây
là được
thăm nhân ngày thương binh, liệt sĩ. Các kiến nghị của ông chẳng được
một ai
đang là lãnh đạo đất nước bận tâm. Phải chăng đấy là quả báo dành cho
người
thành lập lực lượng vũ trang và là một khai quốc công thần của chế độ
hiện
hành?
Trong khi đấy
thương binh, bệnh binh ở Quốc Oai lại phải lặn lội tới UBND TP Hà Nội
để đòi
quyền lợi của mình. Tuyệt đối không thấy một ai ở Tổng cục Chính trị, ở
Hội Cựu
chiến binh tới thăm. Tình nghĩa đồng đội là thế đấy!
Note: Viết đểu
cáng thật. Nhưng tay này không nhìn ra vấn đề:
Nhà nào có cú kêu, là nhà đó sắp
có người chết.
Võ Tướng Quân không thể nào đi được, thành ra cú tới, như là 1 sự
"chúc phúc"!
Ba thao
tác
giúp báo Người Việt triệt để sửa sai
Note: Quả
là
có Trục Ma Quỷ, Evil Axis, thiệt!
Evil
Axis, theo Wiki, là từ của Tông Tông Mẽo, Bụi Cây, Bush, để chỉ “tam
giác
Ma Quỉ”: Iran, Iraq, và Bắc Hàn.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, nó đã từng được dùng để chỉ Trục Nazi, gồm Đức,
Ý, và Nhật Bản.
Tuy nhiên, cái vụ “ngứa miệng” của em Sến này xem ra có vấn đề.
Thứ nhất băng đảng
Cờ Lăng này dễ gì ngu, đâu có phải vô tư mà chúng cứ phạm hết lỗi này
tới
lỗi khác?
Tờ Sài Gòn Nhỏ của Đào Nương,
tờ Việt Báo của "Giải Khăn Sô
Cho Huế", tờ Viễn Đông…
thí dụ, có tờ nào… phạm lỗi đâu?
GCC
đã kể
cái
lần qua Cali, đến tờ NV thăm mấy người bạn làm ở đây, thấy ông nhà
văn của xứ
Bắc Kít, tác giả "Đêm Giữa Ban Ngày", một mình một văn phòng to tổ bố
trong tòa
soạn. Đó là lần đầu Gấu được diện kiến Người!
Không lẽ
lại
gọi cái bài viết của em Sến là "dạy đĩ vén váy", nhưng quả thực là vậy,
trừ
phi có gì đen tối khác.
NQT
Gấu nghe,
qua bà Hương, phu nhân NDT, kể, là DN đã từng đi giữa 2 hàng vệ sĩ tới
gặp nhà
thơ NCT, tác giả Hoa Ðịa Ngục, để đối chất về những lời tố cáo của DN,
đây là 1
nhà thơ dởm, và đã dùng tiếng Tây để hỏi, vì NCT khoe rất rành tiếng
Tây, và nhà
thơ NCT đã ú ớ không làm sao trả lời, và điều này chứng tỏ, ông ta
không phải là
tác giả của những vần thơ Hoa Ðịa Ngục.
Theo GCC, một
cú trình diễn như thế, chưa đủ thuyết phục, và… vẫn
theo GCC, NCT chắc đúng là tác giả của những
vần thơ chửi VC, trong có chửi, tất nhiên Bác Hát.
Cái vụ đối
chất tiếng Tẩy, sủa tiếng Tây trên, làm Gấu nhớ tới vụ của Gấu, lần gặp
cha
Brission: Nói như máy, liên tục cả tiếng đồng hồ, dù mấy chục năm sống
trong ngục
tù VC, chẳng hề có dịp dùng tới tiếng Tẩy! (1)
Thường thường,
tiếng nước ngoài, cho dù bạn giỏi cách mấy, nếu không thường xuyên sử
dụng, thì
đều loạng quạng, nhất là khi bất thình lình phải dùng tới nó, trong
trò chuyện,
đối đáp, vì cái lưỡi thịt của bạn biến thành lưỡi gỗ mất rồi.
Những
người tự
học như
NCT, ít có cơ hội nói tiếng nước ngoài, chắc chắn là phải ú ớ thôi.
Chính vì thế
mà sau này, mãi gần đây, hồi nhớ lại, khi sắp lên chuyến tầu suốt, thì
Gấu mới
hiểu ra
được tại làm sao buổi trưa bữa thứ Bẩy, ở văn phòng của Cha Brission,
Gấu
lại nói tiếng
Tây ào ào, nhờ vậy được Cha tin tưởng, chứa chấp trong nhà thờ, đến thứ
Hai đưa tới Cao Uỷ,
xin cho vợ chồng Gấu được tị nạn VC.
Bữa đó, không
phải Gấu nói tiếng Tây, mà là nỗi đau của Gấu, của bao nhiêu con người
như Gấu, bật ra thành tiếng Tây!
Tất cả cái sự học tiếng Tây để làm gì, đối với Gấu, thì có nghĩa là, để
xổ ra nỗi
đau của mình vào lúc đó, bằng cái thứ tiếng đó!
Đây là hiện
tượng lên đồng, hồn ma nói thay người sống.
[Sở dĩ Nguyễn
Hiến Lê chê truyện ngắn “Anh Phải Sống”, của Khái Hưng, đoạn
tả bà vợ kiệt sức
mà còn nhắc đủ tên các con, trước khi buông tay chìm xuống đáy sông,
"không
đúng sự thực", là vì ông chưa từng lâm vào tình trạng đó].
Những vần
thơ tù của NCT cũng thế, theo Gấu. Cũng là 1 hiện tượng lên đồng, nhà
thơ, như
là 1 tên tù của VC, bật ra nỗi đau của người tù. Cái đau, cái khổ, cái
nhục làm
bật ra 1 thứ thơ mà những ai chưa từng đi tù khó mà coi là thơ. Bởi thế
mà
chính đám nhà văn nhà thơ VC, ăn lương VC, đều lắc đầu, nói không phải
là thơ.
Hết cơn lên đồng NCT trở lại là con người thực của ông. Gấu đã từng
nhìn thấy
nhà thơ, 1 lần ông đi qua nhà NDT, thời
gian ông ở chung với PNN, cùng khu nhà "mobile home", mặt nghếch lên
trời, chẳng thèm nhìn ai.
Có lần bị
NDT mời khéo ra khỏi nhà, là vậy.
GNV từng lèm bèm, sở dĩ đám
tinh anh Bắc Kít, không có lấy 1 mống,
đau vì một “Miền Nam Sâu Thẳm” biến thành “Cánh Ðồng Bất Tận”, chiều
chiều đĩ
lượn như muỗi rừng U Minh, ấy là vì một nửa bộ óc của chúng, dù bảnh cỡ
Nobel
Toán, bị liệt.
Cũng thế, là ở đám tinh anh hải
ngoại, thí dụ, bộ lạc Cờ Lăng.
Không những không đau, chúng còn mừng: nếu không có cuộc chiến tàn
khốc, làm
sao chúng… sống sót, trở thành chứng nhân của lịch sử, tố cáo Cái Ác
của VC,
làm sao có được cơ ngơi như hiện nay ở Mẽo: Chúng ông tới đây rồi là
chúng ông
không đi đâu nữa như đám này đã từng tuyên bố.
Cái sự thành công của băng đảng
Cờ Lăng, và cái sự làm chủ cả nước
Mít của băng đảng Mafia Ðỏ, có cái gì đó làm chúng ta hoảng sợ, và, ghê
tởm.
[Bây
giờ lại thêm cái băng “Dissident” kiểu Sến!]
Thứ nhất, nó
chứng minh, cuộc
chiến Mít nuốt sạch những ai thực sự
đám dương đầu với nó, thực sự mong muốn, đó là cuộc chiến sau cùng của
Mít, một
khi đất nước qui về một mối, thì tha hồ mà xây cái nhà Mít.
Thứ nữa, nó chứng minh, đây là
cuộc chiến của chỉ những đám Bắc
Kít với nhau, nào là Bắc Kít / PXA, vô Nam từ hổi nảo hồi nào, do mảnh
đất quê
hương Hải Dương của cha ông của ông ta đói quá, không nuôi nổi 1 cộng
đồng cứ
ăn rồi lại đẻ mãi ra [điều này không phải Gấu, mà là cái tay viết về
PXA, trên
tờ The New Yorker phán], rồi Bắc Kít/ Tô Hoài, một kẻ đã từng tới thiên
đàng
Miền Nam, trở lại đất Bắc, và mỗi lần nhớ tới là thèm… , rồi tới đám
Bắc Kít di
cư, trong có tên “Người của chúng ta ở Paris”, có Gấu, ông số 1, và ông
số 2.
Và tất nhiên, đám Bắc Kít sinh Bắc tử Nam, đám Bắc Kít sống sót sau
cùng theo
xe tăng vô Dinh Ðộc Lập.
Cả 1 lũ Bắc Kít đánh nhau loạn
xà ngầu, gây họa cho cả thế giới.
Khủng khiếp thật!
Ðó là
hai mặt, phải và trái,
của cuộc chiến Mít.
V/v Hồn ma nói
thay người sống. Bạn có thể nói ngược lại, cũng được, người sống nói
thay hồn
ma: Trường hợp Akhmatova và bài thơ Kinh Cầu: Như một thi sĩ, qua cái
miệng bị
tra tấn của người đó, hàng trăm triệu con người than khóc, bà đã ghi
nhận chuyện
từng ngày của những năm tháng khủng khiếp. (1)
Ngay con
trai của bà, mà cũng không nhận mẹ, vì nghĩ rằng mẹ mình “làm thơ” với
nỗi khổ đau
của gia đình!
Trái Tim của
Thế Giới.
Có lẽ tôi không ngu nhiều
hay không mê nhiều để chọn con
đường văn chương. Còn con tôi thì ngu đủ để theo đuổi ý thích của nó. (1)
Bồi thêm câu
này, nhân lướt TV vớ được:
Nhà phê bình
văn học người Mỹ, Harold Bloom,
coi Saramago là "tiểu thuyết gia vĩ đại nhất hiện đang còn sống." Nhà
phê bình người Anh, James Wood, thì bảo, giọng tự sự, cách kể chuyện ở
trong tiểu
thuyết của ông ta thật lạ thường, và theo ông, "bởi vì đây là giọng kể
của
một người khôn ngoan đáo để, nhưng ngu ngốc cũng chẳng kém".
GCC còm:
Không ngu, không viết văn được.
Chứng cớ:
Coi đám Bắc Kít thì thấy, có đứa nào
biết viết văn đâu?
Nguyễn Hiến
Lê chưa từng kinh qua VC Gulag, ông không thể nào hiểu được, điều những
người
như Solzhenitsyn đã trải qua, và được một người, thí dụ Steiner - đúng
ra là phải chết ở Lò Thiêu, như ông cho biết - viết về họ, như sau đây.
Nói thì có vẻ bày đặt, lên lớp, nhưng sự
thực là như vậy.
Ngay cả ông con trai của Akhmatova, đã từng đi cải tạo, mà còn
hiểu lầm mẹ ruột của mình.
Every time a
human being is flogged, starved, deprived of self-respect, a specific
black
hole opens in the fabric of life. It is an additional obscenity to
depersonalize inhumanness, to blanket the irreparable fact of
individual agony
with anonymous categories of statistical analysis, historical theory,
or
sociological model-building. Consciously or not, anyone who offers a
diagnostic
explanation, however pious, or even condemnatory, erodes smoothes
toward
oblivion, the irremediable concreteness of the death by torture of this
man or
that woman, of the death by hunger of this child. Solzhenitsyn is
obsessed by
the holiness of the minute particular. As happens with Dante and
Tolstoy,
proper names cascade from his pen. He knows that if we are to pray for
the tortured
dead, we must commit to memory and utter their names, by the million,
in an
incessant requiem of nomination. (1)
Mỗi một sự sỉ
nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp
riêng lẻ
không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh
đập, bị
bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra
trên tấm
dệt đời. Đây là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm cho sự phi nhân không còn
có tính
cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối của từng cá
nhân, bằng
đủ thứ phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử,
hay xây dựng
mẫu mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời
giải
thích chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi
nữa, cũng
làm tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể không
thay đổi
được về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái chết vì
đói khát của
em bé nọ. Solz. bị ám ảnh bởi sự linh thiêng của khoảnh khắc đặc biệt,
dị thường.
Như đã từng xẩy ra với Dante, và Tolstoy, tên riêng của con người trào
ra như
thác dưới ngòi viết của ông. Ông biết, nếu chúng ta cầu nguyện cho
những người
chết vì tra tấn, chúng ta phải nhập tâm và thốt lên tên của họ, trong
dòng kinh
cầu hồn không ngừng, từng tên một, hàng triệu tên.
Nói ngắn gọn,
vào cái lúc buông tay ra khỏi người chồng, cho chồng đủ sức bơi vô bờ,
thì, bà
mẹ không thể nào không “trong dòng kinh cầu hồn không ngừng, từng tên
một, đủ tên tất
cả những đứa con của họ”.
|
|