Lời Ước
[Nhìn lại một
năm văn học, 1999]
Nhìn lại thế
kỷ, tuần báo Văn Học Nghệ Thuật trên
lưới (internet), do Phạm Chi Lan chủ trương, có làm một cuộc phỏng vấn
bỏ túi
(mini). Trong số những câu hỏi có một: Anh/Chị coi Y2K là một ý niệm
hay một sự
kiện?
Văn học hải
ngoại trong năm qua, hình như mang cả hai yếu tố: như một ý niệm, khi
vẫn luôn
luôn phải nhìn lại chính nó, tự hỏi về chính nó, liệu có một dòng văn
học hải
ngoại, sau cuộc tháo chạy tán loạn, mất quê hương, chọn biển cả thay vì
đất liền,
để dựng nước mới.... hay như một sự kiện quan trọng: cùng nhân loại
chấm dứt thế
kỷ hung bạo, với những biểu tượng của nó là Hitler và Lò Thiêu, Stalin
và trại
cải tại, Pol Pot và cánh đồng giết người...
Trong một
truyện cực ngắn, Lời Ước, Walter
Benjamin kể chuyện, sau một bữa lễ sabbath, mấy người Do Thái, từ xóm
đông xóm
đoài kéo nhau tới một cái quán tồi tàn nhất trong làng. Chuyện bá láp
một hồi,
một ông đưa ra ý kiến, từng người sẽ nói lên một lời ước của mình. Thôi
thì đủ
thứ ước ao: thêm căn nhà, thêm tí nhau, thêm tí thu nhập, thêm chiếc
xế... Khi
đã chán chê, họ mới chú ý tới một "kẻ lạ" ngồi thu lu ở một góc. Chẳng
ai biết anh ta. Trông cách ăn mặc, rõ ra một nhân vật cái bang. Anh ta
cũng
không tỏ vẻ hăm hở nói lên lời ước của mình:
-Tôi ao uớc
được làm một vị hoàng đế rất hùng mạnh, trị vì một vương quốc thẳng
cánh cò
bay; một đêm đang ngủ trong tòa lâu đài của tôi, quân thù thình lình
vượt biên
giới và trước khi ánh dương đầu tiên xuất hiện, đám giặc đã vào tới bên
trong
lâu đài... Tôi chẳng còn đủ thì giờ vớ đủ bộ quần áo, cứ thế chạy trối
chết,
ngày này qua ngày nọ, đêm này qua đêm khác, cuối cùng tìm được một chỗ
trú ẩn,
là góc quán này. Đó là lời ước của tôi.
Cả bọn, người
nọ ngó người kia, chưng hửng.
-Thế anh có
thêm được một món đồ nào không?
-Có, một chiếc áo thun!
Liệu chúng ta có thể nhìn lại văn học
hải ngoại, bắt đầu bằng lời ước của nhân vật cái bang kể trên?
Thật khó mà quên được lời ước, với
bất cứ một người Việt nào đã từng kinh nghiệm cuộc bỏ chạy tán loạn.
Nhưng với
thời gian, nó biến đổi, hoặc bị những lời ước khác, tức thời hơn, khẩn
cấp hơn,
làm quên lãng.
Những tác phẩm
văn học trong năm qua cho thấy, hai mặt của cùng một lời ước đó. Có
những cuốn
sách mà người ta cho rằng, đã hội nhập, không còn hoang tưởng, hết còn
ở trong
ghetto. Ở đây, cần phải nói rõ một điều, người ta đã lầm lẫn, hoặc đã
cố ý đồng
hoá, một tác phẩm văn học với một số hiện tượng xã hội. Cho tới nay,
chẳng hề
có một tác phẩm văn học nào hoang tưởng đến độ, muốn dấy lên một cuộc
chiến, để
tái lập một chế độ. Và cũng chưa có tác phẩm nào cho thấy, con người
Việt Nam
đã hội nhập thực sự ở quê hương mới. Tôi thật sự không tin, những tác
giả của
những cuộc tình chốc lát ở nơi đất người, trong lúc kiếm sống, lại tự
hào mình
đã hội nhập! Họ thực ra là đã từ bỏ đề tài những năm ngay sau 1975, mà
chủ yếu
là tố cáo cái ác của chủ nghĩa Cộng Sản, và hậu quả của nó, những thảm
họa khi
vượt biển tìm tự do. Bây giờ, hoặc là đề tài này không còn ăn khách,
hoặc là
chính tác giả của chúng cũng chán, hoặc nội lực không đủ để đương đầu
với nó,
bèn quay ra kể chuyện cuộc sống thường nhật của người Việt, đã có một
công ăn
việc làm ổn định, đã có va chạm chút xíu với người bản xứ. Va chạm chút
xíu,
nhưng không phải là xung đột, bởi vì ở đâu có hội nhập, ở đó có xung
đột; theo
nghĩa, anh mới tới muốn nơi đây thoải mái như là nhà của mình, còn chủ
nhà thì
muốn chui vào tận trong ngõ ngách tâm hồn người khách, để coi nó có gì
khác ta.
Nhà văn,
nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Nếu những năm sau 1975,
đề tài
trại cải tạo, vượt biển có lượng nhưng thiếu phẩm, trong năm 1999, đề
tài này
trở lại, trầm hơn, nặng hơn, và dĩ nhiên chất lượng hơn. Ở những tác
phẩm trước
đó, tác giả thi nhau tố cáo cái độc, cái ác, và những đau khổ mà bản
thân hay
gia đình, và đất nước đã phải chịu đựng. Vô tình, chỉ có tính chính
trị, thời
cuộc. Kundera đã chỉ đích danh tác phẩm được coi là khuôn mẫu của văn
chương chống
cộng, cuốn 1984 của Orwell: đây chỉ là chính trị giả danh văn chương.
Tác phẩm
1984 giản lược chế độ Cộng Sản vào danh sách những tội ác của nó, và
như thế,
vô hình trung, cũng rơi vào thế giới xám xịt của những trại tù! Rồi ông
chứng
minh, ngay cả trong thế giới mê cung là Vụ
Án, hay Lâu Đài, nhân vật của
Kafka cứ hở được chút nào là loay hoay kiếm một cái cửa sổ, để thở! Và
ông nhặt
ra được không biết bao nhiêu là chi tiết thơ, trong một thế giới không
thơ, là
thế giới mê cung, tức thế giới toàn trị.
Hơn nữa, khi
hăm hở tố cáo, chính nạn nhân không biết, không còn có thì giờ nhận ra,
cái phần
tha hóa ở nơi họ: bất cứ một con người nào, ở trong thế giới đó, cũng
bị tổn
thương. Nói như Todorov, chủ nghĩa Cộng Sản là thử nghiệm tối hậu về
đạo đức của
con người. Nhân vật chính, viên sĩ quan trong Đá Mục của
Thảo Trường, có vẻ như thấy hết, hiểu hết, và tỏ ra có một
thái độ vượt lên khỏi những đau thương, giận dữ; nhưng được như vậy, là
nhờ đệ
tử, một anh lính truyền tin. Anh này làm độc giả nhớ tới nhân vật chính
trong Một ngày trong đời Ivan Denisovich, của
Solzhenitsyn (độc giả Đá Mục chắc khó
quên "xen" đệ tử kiếm việc làm nhàn rỗi cho sư phụ, và sư phụ lầm lẫn
trứng gà bồi dưỡng; đúng ra là của con heo đực).
Thảo Trường
đi tù tất cả 17 năm. Qua đây, ông đã cho xuất bản liền mấy cuốn, riêng
trong
năm qua là Đá Mục và Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu
Quả. Trong một phỏng
vấn trên đài Kicon, mạng Internet, ông cho biết, trong tù ông cứ thế
nghiền ngẫm,
và đã "bỏ túi" năm bẩy cuốn sách, qua đây tuần tự xuất bản. Ông sống
lại một lần nữa thời gian dài 17 năm. Nhưng nếu chúng ta theo sát những
bài viết
của ông, sẽ nhận ra, đã có dấu vết thay đổi, giữa những truyện ngắn
đầu, và mới
đây. Tác giả tuy bỏ túi vài tác phẩm thực, nhưng khi viết ra, nó không
giống
như là lúc ông còn ở trong trại tù, đã tưởng tượng mặt mũi của chúng.
Ông ngày
trầm hơn, văn ngày thấm hơn, vượt lên nỗi cay đắng còn đè nặng hồi ức
những
ngày tù.
Ở Lâm Chương
cũng vậy. Khi trả lời phỏng vấn, hình như ông cho biết, chỉ vào nhà tù,
ông mới
biết căm thù nghĩa là gì. Nhưng càng viết, ông càng bớt căm thù. Bởi
vì, hận
thù, với một nhà văn, là thất bại của trí tưởng tượng. Trong truyện của
ông,
người đọc nhận ra những cay đắng, nhưng còn nhận ra, vết thương đang
lành.
Trong một bài tổng quan, thật khó mà đưa ra chi tiết chứng minh, hy
vọng sẽ có
dịp được viết rõ hơn về từng tác giả, trong năm 2000. Vả chăng, khi
người ta
"trung thành" với một điều gì, cùng lúc người ta "phản bội"
một điều khác: chống Cộng, ở một số nhà văn Miền Nam mang tính công dân
(thù
nhà, nợ nước?), hơn là mang chất văn chương.
Chính chúng
ta, độc giả, khi phải nhìn lại (đọc lại) một số tác phẩm văn học, cũng
thấy
mình đã đổi khác. Tác phẩm có thể vẫn vậy, nhưng con người đổi khác.
Trước đây,
những độc giả Miền Nam thật khó mà chấp nhận một tác phẩm của một người
ra đi từ
Miền Bắc, lại có thời rất thân cận với cung đình Bắc Bộ Phủ, như Vũ Thư
Hiên.
Và người ta nhận ra một điều, ngay cả những lúc phải "ăn nằm" với chế
độ toàn trị, tiếng nói của một miền đất vẫn giữ riêng cho nó một khoảng
cách.
["Đi tù với một bông hồng", là tên một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa,
trên báo Diễn Đàn, về tác phẩm "Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên.]
Rõ rệt nhất là ở Lê Minh Hà, với hai tác phẩm xuất bản liền trong hai
năm vừa
qua, Trăng Góa, và Gió Biếc.
Có người cho
rằng ở Lê Minh Hà, truyện không ra truyện, tủn mủn, manh mún. Với Gió Biếc (1999), có người chỉ thấy những
cảnh đời nhếch nhác của một số người Việt, phải bỏ nước ra đi, rồi cố
tìm cách
để khỏi phải trở về. Nhưng vẫn như trong trường hợp Kundera nói về sự
khác biệt
giữa Orwell và Kafka: Bạn phải kiếm cửa sổ để mà thở, thay vì cố chứng
minh,
đây là những nhà tù!
Vẫn có những
tác giả đã không thể quên ước mơ thoạt đầu, ngày xưa. Họ không nói tới,
nhưng
chúng ta cảm thấy, qua cách viết, qua hành động của nhân vật. Trong
truyện ngắn
Biển (của Miêng) là chia sẻ tấm áo
thun, ở đây là những giọt lệ nhỏ xuống cho một kẻ điên khùng, không còn
nhận ra
chính mình, nhưng lại nhận ra người vợ, và qua đó, những đứa con đã
chết trên
biển cả. Hay như Kẻ Lạ (của Hồ Như),
khi trở về, và nghe quê hương xì xào: Kìa ai như Cô Thắm... Hay như
nhân vật
trong truyện Trở Về (tạp chí Hợp Lưu)
của Phạm Hải Anh, về để thấy rằng, quê hương không từ chối anh. Hay như
nhân vật
Nữ Độc Thủ của Linda Lê la lên: Ông ta chết rồi, hãy để cho ông ta yên
thân!
Theo tôi,
văn chương Việt hải ngoại 1999, là một năm được mùa. Mùa gặt mới, trong
đó có cả
lúa chín muộn: sự góp mặt của một tác giả như Trần Thị NGH. Đây là một
tác giả
trước 1975 tại Miền Nam, vừa xuất hiện đã gây chấn động giới viết lách
ở Sài
Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa Khoá Trái.
Nếu trí nhớ không phản bội tôi, hình như truyện đầu tay của bà là về
một người
đàn ông có vợ, đến gặp một người đàn bà không chồng, nhưng có con;
thằng nhỏ bữa
đó bị đau, anh chàng đi mua thuốc cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng
tôi vẫn
còn nhớ cái cảnh cô đơn của người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác
ngác trước
tiệm thuốc tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm. Ở những
truyện
viết sau này (trong tập truyện ngắn do nhà Văn Nghệ xuất bản, 1999),
nhân vật của
bà vui hơn, tuy vẫn chưa quên được những người tình cũ, cuộc đời con
gái, cũ.
Nếu phải chọn
một tác phẩm, tôi chọn tập truyện ngắn của Miêng. Do cái phần tâm linh
của nó,
hơn là do cách dựng truyện, cách dựng nhân vật. Với Lê Minh Hà, tôi
chọn ngôn
ngữ, hơn là truyện ngắn. Có một cái gì đó, làm tôi phải tự hỏi: làm sao
cái mầm
sống của chữ nghĩa, của một miền đất, sau bao nhiêu đọa đầy, nhưng vẫn
không chịu
bị bẻ gẫy, ở đôi chỗ, vẫn tươi mát đến như vậy?
Walter
Benjamin, trong một truyện cực ngắn khác, Chữ
Ký, kể câu chuyện xẩy ra tại cung đình nữ hoàng Catherine, ở Nga.
Vị cận thần
của bà, Potemkine, đang trong cơn sa sút tinh thần trầm trọng, kéo dài
ngày này
qua ngày khác. Không ai được tới gần căn phòng của ông. Không ai dám xì
xào về
căn bệnh của vị cận thần sủng ái. Khổ một nỗi, bao nhiêu giấy tờ đệ
trình nữ
hoàng, là phải có chữ ký của Potemkine. Đám quan chức hàng đầu trong
triều
không biết phải giải quyết ra sao.
Bữa đó, may quá,
một viên chức thuộc loại vô danh tiểu tốt, tên là Chouvalkine, không
hiểu vì lý
do nào, lại có mặt tại căn phòng bầu dục. Thấy mấy sếp mặt mày nhăn như
bị, anh
ta mới rụt rè vấn an, và khi biết được sự tình, bèn xung phong: để em
xông vô
phòng, với mớ giấy tờ cần chữ ký của Ngài Bí Thư. Mọi người thấy, đâu
có mất
gì, bèn gật đầu.
Chouvalkine
ôm mớ giấy tờ, mở cửa phòng, thấy Ngài Potemkine đang ngồi mơ màng trên
chiếc
ghế bành. Anh tới gần, Ngài cũng chẳng biết. Thế là anh cầm cây viết,
chấm mực,
dí vào tay Ngài; và Ngài cứ thế ký lia lịa, hết tờ này tới tờ khác.
Xong, anh
trở ra. Mọi người vồ lấy mớ giấy đã được thị thực. Mở ra, tất cả các
chữ ký, từ
chính tay Potemkine, nhưng đều biến thành... Chouvalkine!
Với câu chuyện
cực ngắn Chữ Ký, chúng ta nhìn về
trong nước. Cái me-xừ Potemkine, phải chăng là chủ nghĩa hiện thực xã
hội (thứ
thiệt?), mà những anh chàng Chouvalkine vẫn hy vọng viết dưới ánh sáng
của nó?
Nguyễn Quốc
Trụ