|
29.7.2013
Czesław
Miłosz: Intelligence and Ecstasy
In honor of
the birthday of Czesław Miłosz (born in Lithuania on June 30, 1911;
died in
Kraków on August 14, 2004) we present a selection of his work from the
Review’s
archives.
Miłosz defected from
Poland to the West in
1951, living in France at first and moving in 1960 to the United
States. In
1980 he was awarded the Nobel Prize in Literature. In a 2004 essay,
Adam
Zagajewski praised the bravery and scope of his work: “Lesser talents
develop a
snail-like tendency to take refuge in a hut, a shell, to escape
contrary winds,
contrary ideas, to create miniatures. As both a poet and a thinker,
though,
Miłosz courageously takes the field to test himself against his foes,
as if
he’d told himself, I’ll survive this age only by absorbing it.”
Tờ NYRB vinh
danh Milosz nhân sinh nhật ông, viện dẫn Adam Zagajewski:
Tài năng tẹp nhẹp bắt
chước con sên chui vô vỏ, tránh bão tố, tạo ba thứ tủn mủn. Như cả hai
- nhà
thơ và nhà tư tưởng - Milosz can đảm xung trận để thử nghiệm
chính mình
trước kẻ thù, như tự bảo chính mình, ta sẽ sống sót thời đại này chỉ
bằng cách
nuốt trọn nó.
Tưởng Niệm Czeslaw Milosz
[1911-2004]
Trí Tuệ và
Những Bông Hồng
Adam Zagajewski
Ông là nhà thơ của thông
minh lớn và tuyệt cảm lớn [a poet of ‘great intelligence and great
ecstasy’]; thơ của ông sẽ không thể sống sót nếu thiếu hai món này.
Thiếu thông minh, là sẽ rớt vào trò cãi tay đôi với một trong những đối
thủ này nọ, rồi cứ thế mà tủn mủn, tàn tạ đi [bởi vì, những con quỉ của
thế kỷ 20 này, chúng đâu có thiếu khả năng biện chứng, chẳng những thế,
chúng còn tự hào về những “biện chứng pháp” duy này duy nọ…]. Thiếu
tuyệt cảm, làm sao vươn tới được những ngọn đỉnh trời?
Thiếu nó, là sẽ chỉ suốt đời làm một anh ký giả tuyệt vời! Ông tự gọi
mình là một tay bi quan tuyệt cảm [ecstatic pessimist], nhưng chúng ta
cũng sẽ vấp vào những hòn đảo nho nhỏ của sự tuyệt cảm mà Bergson
coi đây là dấu hiệu khi chạm tới được một sự thực nội tại.
Vào thời đại của Beckett,
một nhà văn lớn lao, dí dỏm, và cũng rất ư là sầu muộn, Milosz bảo vệ
chiều hướng tông giáo của kinh nghiệm của chúng ta, bảo vệ quyền được
vuơn tới cõi vô cùng của chúng ta. Bức điện tín của Nietzsche, thông
báo cho những con người ở Âu Châu, rằng Thượng Đế đã chết, bức điện đã
tới tay Milosz, nhưng ông không từ chối ký nhận, và cứ thế gửi trả cho
người gửi.
Czeslaw Milosz
The Nobel Prize in
Literature 1980 was awarded to Czeslaw Milosz "who with
uncompromising clear-sightedness voices man's exposed condition in a
world of severe conflicts".
Giải Nobel văn chương 1980
được trao cho Czeslaw Milosz “người mà, bằng cái nhìn rạch ròi, cương
quyết, không khoan nhượng, gióng lên phận người bày ra đấy, trong một
thế giới với những mâu thuẫn gay go, khốc liệt”.
Một trong
những người được Noebel mà tôi đọc khi còn là 1 đứa con nít đã ảnh
hưởng đậm lên tôi, tới cả những quan niệm về thơ ca. Ðó là Selma
Lagerlöf. Cuốn sách thần kỳ của bà, Cuộc
phiêu lưu trên lưng ngỗng mà tôi thật mê, đã đặt anh cu Nils
vào một vai kép. Anh cu Nils bay trên lưng ngỗng nhìn Trái Ðất như từ
bên trên, và cùng lúc, trong mọi chi tiết. Cái nhìn kép này có thể là 1
ẩn dụ về thiên hướng của nhà thơ. Tôi tìm thấy 1 ẩn dụ tương tự ở trong
một ode La Tinh, của nhà thơ thế kỷ 17, Maciej Sarbiewski, người được
cả Âu Châu biết dưới bút hiệu Casimire. Ông dạy thơ ở đại học của tôi.
Trong 1 bài ode, ông miêu tả cuộc du lịch của mình - ở trên lưng
Pegasus, từ Vilno tới Antwerp, thăm bạn thơ của ông. Như Nils
Holgersson, ông ôm bên dưới ông, sông, hồ, rừng, nghĩa là 1 cái bản đồ,
vừa xa nhưng lại vừa cụ thể.
Như thế, thì đây là hai bí kíp của nhà thơ: đói nhìn và đói, ham muốn miêu tả cái nhìn thấy.
Tuy nhiên, kẻ nào coi thơ ca là “nhìn và miêu tả”, thì phải coi chừng,
vì thể nào cũng có lần cãi lộn với... Thầy Kuốc, người vỗ ngực
xưng tên là “Hiện Ðại”, “Cái Mới”, và thể nào cũng mụ người, trở thành
cù lần vì muôn vàn lý thuyết về 1 ngôn ngữ thi ca đặc dị.
Simone Weil mà tôi mang nợ
rất nhiều những bài viết của bà, nói: “Khoảng cách là linh hồn của cái
đẹp”. Tuy nhiên, đôi khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả. Tôi là
Ðứa bé của Âu châu,
như cái tít của 1 trong những bài thơ của tôi thừa nhận, nhưng đó là 1
thừa nhận cay đắng, mỉa mai. Tôi còn là tác giả của một cuốn sách tự
thuật mà bản dịch tiếng Tây có cái tít Một Âu châu khác. Không nghi ngờ
chi, có tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng tôi, cư dân của một
Âu châu thứ nhì, bị số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng
đen của Thế Kỷ 20”. Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca, tổng quát.
Tôi phải nói về thơ ca và cuộc đụng độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của
nó, với một số hoàn cảnh kỳ cục, quái dị, về thời gian và nơi chốn…
Czeslaw Milosz
Chính là nhờ đọc đoạn trên
đây, mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là quãng đời đẹp nhất,
và “khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là của những
bản nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó để mang theo vô tù.
Cái câu phán hãnh diện của
Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975 ở trong những bản nhạc
sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!
Trại Tù VC: Hoàn cảnh kỳ
cục, quái dị về thời gian và nơi chốn,
ở nơi đó,
nhạc sến được cất lên:
sao không hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua?
và, đâu cần một dạng hoàn hảo nào cho thơ.
Milosz
Let Us Be Careful
More could
be said
of a dead
fly
in the
window
of a small
shed,
and of an
iron typewriter
that hasn't
lifted a key
in years
both in
delight
and dark
despair.
Merrymakers
A troop of late
night revellers,
most likely
shown the door
at some
after-hours club
or a party
in theneighbourhood,
still
whooping it up
as they
stagger down the street
with a girl
in a wedding dress
walking
pigeon-toed far behind them,
and calling
out in distress:
'Hey, you!
Where the fuck
do you think
you're going?'
Passing Through
An
unidentified,
inconspicuous
someone,
smaller than
a flea
snuck over
my pillow last night,
unbothered
by me,
in a big
rush", I bet,
to get to
his church
and thank
his saints.
In Its Own Sweet Time
That one
remaining, barely moving leaf
The wind
couldn't get to fall
All winter
long from a bare tree -
That's me!
Thinks the old fellow,
The one they
roll out in a wheelchair
So that he
can watch the children
Play in the
park, their mothers
Gossip all
day about their neighbours
While
pigeons take turns landing
And taking
off from a newly arrived hearse
Parked in
front of the parish church,
Dragging his
gaze along as they do.
LRB [London
Review of Books] May 9 2013
Bất
hạnh là
tài sản
Christa Wolf by
Economist
Yiyun Li by Economist
Note: Hai
bài viết trên The Economist, em Phan
Vịt nên đọc – em rành tiếng mũi lõ lắm mà - vì,
một cách nào đó, đều có liên quan tới Bất
Hạnh là Tài Sản.
Bài về
Christa Wolf, “một linh hồn chia năm xẻ bảy” - a divided soul - 1 bài
điểm
sách, nhưng nói đến cái tâm trạng của bà - a
“loyal
dissident”, in the end, no one judged Christa Wolf more harshly than
herself- Đám
Bắc Kít không khi nào lâm vào tâm trạng này, vì không thể nào coi cú ăn
cướp Miền
Nam, là “bất hạnh” được!
Còn bài của
Yiyun Li là 1 mẩu hồi ức những năm tem phiếu.
Hai bài này
TV sẽ dịch hầu độc giả TV, vì cũng ngắn, và cần!
Và bài về
Kafka, dưới đây.
Hà, hà!
*
Mấy bữa nay bác viết hay
ghê – hết viết tục rồi.
Cám ơn nhiều.
Anh Nguyễn tuyệt quá, càng
già càng dẻo càng dai - Hổng khác gì con trai!!. Cầu chúc anh mạnh khỏe
nhiều nhiều để còn cho ra những bài thật tuyệt.
Tks. NQT
Không viết tục, nhạt miệng
lắm. Bọ Lập trần tình với độc giả. Với riêng Gấu, nó là thứ “chim mồi”,
ở những người quá đát. Cái bài viết Nước
Mắm Lá Chuối tình cờ kiếm lại được,
hóa ra là viết dở, rồi bỏ ngang, đến cái tít cũng chưa giải thích được,
và nó – cái tít - là 1 hình ảnh tuyệt vời, giống như những hình ảnh
tuyệt vời của 1 miền đất, như những “cá rô cây, cá gỗ”... Khi bỏ vô
Nam, Gấu giữ cho riêng mình 1 số kỷ niệm, hình ảnh, của cái làng Bắc
Kít của Gấu, trong đó có "Nước Mắm Lá Chuối". (1)
Kafka:
Years of insight
Những năm đốn
ngộ
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Độc
và Đẹp
Tên
Người Yêu Dấu
Tên Người
Yêu Dấu
I
Trên đỉnh
đèo Hải Vân
Nếu nhớ quê
hương
Muốn chết
Vũ Đạo Ánh
Chiến tranh
vẫn còn (đến khi nào)
Đồn đóng sườn
núi
Ngó biển
không
Chiều chẳng
mặt trời
Một mình rừng
Mây lõa thể
Vũ Đạo Ánh
Đập cụt cổ
chai bia
Lấy súng bắn
lên không
Đạn chì sẽ
ghim ngực tao lép
Vũ Đạo Ánh
Chím én vẫn
bay đầy đàn trên trời chiều đường phố Sài Gòn
7 – 58
II
Khóc đi Nguyễn
Mùa này gió
biển thổi điên lên lục địa
Trời thành
phố ngục tù
Màu xanh thoảng
tiếng cười của kỷ niệm bâng quơ
Canh bạc về
khuya
Viên đạn lăn
đã mỏi
Chiếc đĩa
quay không ngừng
Rồi đó bệnh
tật và nghèo đói
Trở về căn
nhà [chúng ta]
Chăn chiếu
héo khô
Giống chiếc
quan tài của Thoại
Khóc đi Nguyễn
Trong giấc mộng
hằng đêm
Sân khấu lặng
thinh
Mưa dột trên
sàn gỗ
Mồ hôi giữa
ngực và lưng
Những hàng
ghế thầm muốn hỏi
Sao không một
ánh nến
Không người
nào
Mang một
vòng hoa
Ném lên nhà
mồ ấy
[Khóc đi Nguyễn]
Khi tỉnh dậy
Chẳng một ai
ôm mình
Đêm dài tiếng
kèn thê thiết
Thổi trên
môi ung độc người nhạc sĩ đen
Tội lỗi nhét
đầy hai con mắt ngây ngô
Kể lể toàn
chuyện tình vô vọng
Với một mình
cấu lấy tóc mình
[Phương ơi]
Khóc đi Nguyễn
8-58
Thanh Tâm
Tuyền
Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy
Chú thích:
1. Vũ Đạo
Ánh: Một người bạn của nhà thơ, sĩ quan VNCH, tử trận [tại Bình
Dương?], người
được đề tặng nơi trang đầu cuốn Bếp Lửa,
của TTT.
2. Quách Thoại:
Thi sĩ, (em trai Lý Hoàng Phong, chủ trương tờ báo Văn Nghệ),
đã mất vì bịnh lao, tại Sài Gòn trước 1975.
3. Nguyễn:
Chắc là Trần Lê Nguyễn, kịch tác gia, thi sĩ, thuộc nhóm Sáng
Tạo.
Những chữ in
nghiêng, và ngày tháng, không có trong tập thơ Liên Đêm
Mặt Trời Tìm Thấy, nhà xb Sáng Tạo, nhưng có trong
bài thơ được đăng trên báo Khởi Hành của Viên Linh, số
tháng 11,
2001.
Đánh giá lại
Tự Lực Văn Đoàn (1)
Nhưng không
được. Tôi không thể chịu nổi sự trong sáng, nhẹ nhàng, hiền lành và
chậm chạp của
các cuốn sách ấy. Cuối cùng, bao giờ tôi cũng bỏ cuộc. Hoặc buông sách.
Hoặc đọc
nhảy lóc cóc từng khúc.
NHQ
Cả 1 bộ
lạc
Cờ Lăng và râu ria làm 1 cuộc thổi Tự Lực Văn Đoàn, thú thực, Gấu
chẳng đọc được 1 bài nào
ra hồn!
Nhưng khủng nhất là bài của Thầy Cuốc!
Hóa ra Thầy không biết 1 tí gì về thế nào là truyện ngắn, thế nào là
truyện dài,
là tiểu thuyết, và thảm hơn nữa, Thầy chê TLVD hết lời.
Chê, thì cũng được thôi,
nhưng, lại “nhưng”, Thầy viện thêm mấy đấng nữa, đám hậu duệ TLVD, cũng
chê luôn!
TLVD, nếu bỏ
đi ba thứ tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, hay của Hoàng Đạo, thì
những truyện
ngắn của Thạch Lam, chẳng hạn, mà chẳng thần sầu, vượt thời gian ư?
Chỉ nội
một truyện Sợi Tóc, mà chẳng
khủng sao, chưa kể cái truyện hai em điếm, ngày Tết, nhớ
nhà, cúng ông bà, không có cái
bát
nhang, bèn lấy luôn cái chén ngày thường rửa buớm, sau mỗi lần đi
khách, một công đôi chuyện!
Tuyệt như
thế mà Thầy Kuốc chê!
Khoan chưa nói
đến tiểu thuyết, thí dụ, Đôi Bạn
của Nhất Linh.
Cái sự chê bai
TLVD theo Gấu, một phần là do nhóm Sáng Tạo mà ra. Nhưng Sáng Tạo, khi
"làm cỏ" TLVD, là có lý do của họ. Khoan sẽ bàn tiếp.
Cái ý "đọc nhảy
lóc cóc" của Thầy Cuốc, là từ TTT, khi ông chê văn chương TLVD, trong 1
cuộc thảo
luận bàn tròn của nhóm Sáng Tạo, về TLVD, bạn có thể kiếm thấy trên
talawas.
Văn chương
TLVD được coi như thứ văn chuẩn, và được đưa vô trong trường lớp, của
nền giáo
dục VNCH sau 1954 tại Miền Nam, cùng với 1 số nhà văn tiền chiến khác ở
bên ngoài
TLVD, trong số đó, có 1 ông có thể coi là Thầy của TTT, là Nguyên Hồng,
như chính
ông có lần viết ra. Cái sự đánh giá lại TLVD nếu có, là phải từ hai cái
nhìn
quy chiếu ấy, tức là từ cái cú đánh TLVD của Sáng Tạo, và từ cái quan
điểm coi
TLVD là văn chương chuẩn của 1 chế độ, trong khi Miền Bắc, cùng thời
với nó, là
1 nền sư phạm học về hận thù, mà 1 trong những thành tựu tiêu biểu của
nó, là Sến
Cô Nương, như chính Sến thú nhận, trong bài viết "Còn lại gì", hay "Cái
còn lại",
"What remains". Nếu mượn cái tít này, thì cái tít cho cú thổi TLVD phải
là "Cái còn
lại", sau tiền chiến, TLVD, Sáng Tạo, và cùng với tất cả, là di sản văn
minh của một Miền Nam đã không còn.
Nhất Linh là
1 bậc thầy viết tiểu thuyết. Cuốn "Viết và Đọc Tiểu Thuyết" của ông là
1 cuốn đại cẩm
nang cho bất cứ ai mơ tưởng trở thành tiểu thuyết gia. Ở trong mảng
tiểu thuyết của
ông, cũng có tới ba mảng, tiêu biểu bằng ba cuốn: Đôi Bạn, Xóm Cầu Mới, và
Dòng Sông Thanh Thuỷ.
Chúng khác hẳn nhau. Đôi Bạn
là của thời mới lớn, và cùng
với nó, là cuộc tình Dũng Loan, đâu có thua 1 mối tình thơ dại nổi
tiếng nào trên
thế giới: Dũng làm nhớ đến Camus và câu phán nổi tiếng của ông: Chúng
ta – lũ mới
lớn – luôn có dáng điệu của 1 kẻ sắp sửa ra đi. Xóm Cầu Mới là 1 tham
vọng lúc đã
chin mõm trong nghề văn: Viết 1 trường thiên tiểu thuyết, roman-fleuve,
tiểu
thuyết sông, tiểu thuyết ngăn kéo, roman-tirroir, cứ mở mỗi ngăn, là có
1 cuốn…
với những nhân vật từ “nowhere” trôi giạt, tụ vào 1 bãi sông,
nước.
Dòng
Sông Thanh Thuỷ mới ghê: Quốc Cộng giết nhau cứ tỉnh bơ, không
có toát ra 1 tí mùi
ý thức hệ, hay hận thù, “giết như không giết” [cái này là nhại văn Gấu
Cái: "viết
như không viết"!]
Nghe thấy rồi!
Nhất Linh,
khi viết Đôi Bạn, lăm lăm với
ý tưởng, phải làm bật lên hai nhân vật chính là
Loan và Dũng, cùng với nó, là một thế giới cũ, mà hai người bị nó
nghiền nát,
đưa tới một cô Loan giết chồng sau đó. Cứ tạm coi, “nghĩa chính” của
cuốn chuyện
là Loan. Nhưng về già, khi viết Viết
và Đọc Tiểu Thuyết, ông nhận ra, nhân vật
phụ là Hà lại nổi lên lấn át nhân vật chính. Cái cảnh từ giã giữa người
yêu và
cô khép lại cuốn truyện mới tuyệt vời làm sao! Anh chàng tới từ giã
người yêu,
để đi làm cách mạng, nghĩ trong bụng, chắc là căng lắm. Nàng tuy căng
lắm,
nhưng cứ tỉnh như không. Chàng ra về, trên đường, bóp chuông xe đạp
leng keng,
như một nỗi vui nho nhỏ, rằng cuộc chia ly đã không thê thảm như là
chàng nghĩ.
Tiếng chuông vọng tới tai người yêu, nàng “đau” lắm, đau hơn cả nỗi đau
chia ly
[Hà bị bịnh lao, nghĩa là chẳng bao giờ có cơ hội gặp lại người yêu],
bĩu môi,
buông một câu:
-Nghe
thấy rồi!
Đây mới là “nghĩa chính” của Đôi Bạn, mà đến
chót đời Nhất Linh mới nhận ra!
Chiếc Lư Đồng Mắt Cua của Nguyễn
Tuân cũng kết
thúc bằng một câu cà chớn như vậy:
-Xuyến người bên lương hay là
bên giáo?
Hay
câu kết của Bếp Lửa, nói lên
ý nghĩa của bếp
lửa:
-Anh yêu em,
yêu quê hương vô cùng.
Câu
nói đó, là câu nói của bao nhiêu năm sau
này, của bao nhiêu con người sau này, đã sống sốt cuộc chiến, sống sót
cuộc bỏ
chạy, sống sót biển cả, sống sót cuộc hội nhập nơi xứ người - như tiếng
chuông
xe đạp leng keng vọng về Quê Nhà.
-Nghe
thấy rồi!
Chúng ta tự hỏi, có gì nối
kết những câu nói
tưởng như bình thường, vô nghĩa đó?
NQT
Theo tôi,
trong các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, chỉ có một vài cuốn có thể được
xem là
bất hủ thực sự, còn lại, đều là những tác phẩm bất hủ một phần. Đó là những tác
phẩm, để thấy hay, người ta phải ở một lứa tuổi nhất định nào đó; và để
thấy lớn,
người ta phải đặt chúng trong cái thời đại mà chúng ra đời.
NHQ
Phán, kêu như
chuông!
Bài viết đầu
tiên của GCC về TLVD, là cho tờ Vấn
Đề, có cái tên “Đi tìm 1 tác phẩm sẽ có”,
và trong đó, nhớ, có chôm 1 câu xanh rờn, đếch còn nhớ của ai:
Nhà văn nhớn
là người kết hôn với xứ sở của họ.
Bài viết, là
về Nhất Linh, và cái xứ sở của ông, là xứ Bắc Kít.
Nếu phải “đặt”
Nhất Linh.... thì vào cái thế nhà văn lớn
của xứ Bắc Kít, của 1 cái thời mà chúng ta đếch có tuổi, như tác phẩm
của ông đếch
có tuổi!
Ui chao, lại
nhớ cái lần đến nhà cô bạn, thấy trên bàn học, đúng tờ Vấn Đề, mở ra đúng cái
bài viết của Gấu Cà Chớn. Sướng ơi là sướng!
Hà, hà!
When going
home with Oẳn Tà Roằn?
Đây là 1
khiá cạnh khác nữa, của "vấn nạn" “Oẳn Tà Roằn": Sắc dân và Sex,
vào cái thời còn mẫu quốc.
Ghi
chú
trong ngày
Dân Đức ngày càng mê
Hitler!
Phản bội
Trong số
báo, có bài trên, trong bài viết, Tabucchi, 1 tác giả Ý, coi mình là
"alias" [nick, bí danh] của Pessoa.
Tabucchi khám phá ra bài thơ "Tiệm Thuốc Lá" của
Pessoa, mê quá xá quà xa!
Nếu như thế,
thì Gấu cũng là "alias" của Pessoa!
Bởi là vì trên TV, Gấu cũng đã
từng coi "Tiệm
Thuốc Lá" là bài thơ thần sầu nhất của Pessoa.
Bài viết ngắn,
nhưng quá tuyệt. "Hoài nhớ" đã ghê, ở đây, là hoài nhớ bình phương, la
“Nostalgie
au carré”!
Không phải hoài nhớ cái đã có, mà cái có thể có – “không phải
tiếc cuộc
đời đã sống, mà cuộc đời bỏ lỡ, nhớ hoài”, thơ Gấu Cà Chớn!
"Reviens
demain, réalité! Ajourne-toi présent absolu!"
Thực tại ư?
Mai trở lại nhé!
Mà nhớ thêm
vô hiện tại tuyệt đối, nhe!"
Pessoa viết
Tiệm Thuốc Lá
Khi ta chết
hãy đem ta ra biển: Chàng du tử Ulysse trở về Xề Gòn
Từ hoài nhớ,
nostalgie, nguồn của nó là nostos, tiếng
Hy Lạp, theo Jacques Lacarrière, tác giả bài viết Le Chemin vers Ithaque, về nhà thơ
Cavafy, và cũng
là dịch giả bài thơ Ithaque của nhà thơ này,
trong số báo Le Magazine Littéraire,
Janvier 2004, đặc biệt về Homère. Từ này,
là từ những tiếng nhấp môi của người Hy Lạ mà ra, và nó bắt chước tiếng
thì thầm
của biển khi những con sóng của nó chết và tan ra khi đụng bờ.
L'Odyssée,
poème du nostos, ce désir intense de revoir le pays
natal éprouvé depuis
toujours par tout marin
expatrié ou exilé. Quand Ulysse va pleurer sur le rivage dans l'ile de
Calypso,
il pleure sous
la brusque emprise du nostos, ce mot
qui revient souvent dans l'Odyssée et
qui, des siècles plus
tard, a donné en francais nostalgie,
terme aujourd'hui banal et affadi mais qui, au temps d'Homère et
longtemps par
la suite, en fait jusqu'à nos jours, fut toujours synonyme en Grèce
d'état
quasi visceral de manque, le privation
et de dépossession.
Je me
souviens, à Ithaque précisement, où je suis allé dans les années 60 et
retourné
en 1978, de ma logeuse lisant une lettre de son fils, marin sur un
tanker grec.
Il était absent depuis trois ans et naviguait alors sur les mers
d'Australie et
dans sa lettre, il y avait trois fois le mot nostos !
Voilà un phénomene vraiment propre à la langue grecque :
des mots vieux de plus de trois mille ans continuent d'être utilisés
aujourd'hui dans un contexte presque identique. II suffit qu'un Grec,
marin ou
non, se sente loin de chez lui pour que sur ses lèvres, en son coeur ou
en sa mémoire,
surgisse le mot nostos. Je me suis
d'ailleurs souvent dit que, par sa consonnance et ses deux consonnes
sifflantes,
ce mot reproduisait ou imitait le murmure lancinant de la mer quand ses
vagues
viennent de mourir ou expirer sur le rivage ...
Quách Thoại
Page
Về Quách Thoại
Còn gì
chăng?
Tôi bưng mặt
khóc bên thềm cửa
Trời đất
rưng rưng
Em không để
cầm tay
Khi người
thi sĩ ấy chết trơ trụi
Không một lời
trối trăng từ biệt
Mắt khép
không đợi vuốt
Nửa đêm
Còn gì
chăng?
Tôi ngồi
khóc bên bờ sông trôi mãi
Em bỏ đi
Những ngiười
thân nhất đều hắt hủi
Giữa xứ sở
đau thương tôi chịu đọa đầy
Khi người
thi sĩ ấy đã gặp
Người tình
ngàn đời là vô cùng
Trong hồn đất
Còn gì
chăng?
Tôi bé nhỏ
và tôi than thở
Em bỏ đi
Em cũng chẳng
trở về
Những vì sao
rụng bỗng đầy lệ nhân gian
Người thi sĩ
bay vào miền đất lạ
Không nhớ mảy
may biển gió cát muôn trùng
Ở đây tôi
còn mở mắt
Dìu linh hồn
lang thang
Thanh Tâm
Tuyền
Liên Đêm Mặt
Trời Tìm Thấy
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Văn học miền
Nam: Huỳnh Phan Anh
Miền Nam trước
1975 có những nhân vật đa dạng đến đáng kinh ngạc.
Trong số ấy
có Huỳnh Phan Anh: viết văn, viết báo, dịch sách, phê bình, nghiên
cứu...
(còn nữa)
Blog NL
@ Tiệm thịt
chó, chân cầu Thị Nghè, 2001
Trang HPA
Gặp gỡ cuối năm
Nhà
văn Guenter Grass, khi Đức quốc còn bị chia đôi - bởi vì tên ông luôn
được nhắc tới, ròng rã trên hai thập kỷ - ông vẫn thường tự hỏi, tại
sao không chia giải thưởng Nobel, cho hai nhà văn thuộc hai miền của
một đất nước bị chia cắt, cho Christa Wolf, và tôi? Và, "hàng năm cứ
vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây
bàng bạc…", khi mấy ông Hàn Thụy điển đóng kín cửa phòng lo tranh cãi,
bàn bạc, Guenter Grass bảo cô thư ký, họ lại ỳ ra thôi, và chúng ta sẽ
có một mùa thu tuyệt vời!
Khi
nghe tin được giải, ông nhắc lại đề nghị, nhưng mấy ông Hàn lắc đầu.
Và
ông kết luận: may mắn thay, cả hai chúng tôi đều sống sót.
Grass
cho rằng, cũng như ông, Wolf, bằng tác phẩm đã cố gắng ngăn chặn một sự
"chia cắt vĩnh viễn" nước Đức. Tình bạn và sự kính mến giữa hai người,
đã có từ nhiều năm. Nhân dịp sinh nhật thứ 70 của ông, Wolf đã viết thư
chúc mừng, kể kỷ niệm, về cảm giác lúc nào cũng thấy ông hiện diện,
nhưng không đâu bằng, ở Dantzig-Gdansk. "Bạn đã 70 tuổi rồi. Không có
bạn, tôi không thể nào tưởng tượng ra được phong cảnh văn hóa Đức. Hãy
cứ khỏe mạnh. Và hãy lấy cái ống vố ra khỏi miệng nhé!"
Theo
Grass, sau chiến tranh và suốt chiến tranh lạnh, nước Đức bị tuyệt đối
chia cắt về kinh tế, ý thức hệ, quân sự, nhưng hai nền văn chương,
không bao giờ bị đứt đoạn. Trong bài phỏng vấn trên tờ Magazine
Littéraire, sau khi được Nobel, ông nhớ lại những chuyến vượt bức tường
qua Đông Bá Linh gặp bạn văn, trong những căn hộ ấm cúng, khi ra về
trời đã khuya, vui như Tết, hồn thoáng chút hơi men, và tội nghiệp cho
mấy tay mật vụ suốt buổi ở bên ngoài trời lạnh!
Người
viết cứ luẩn quẩn với những điều Grass viết, nhân chuyến gặp gỡ ông bạn
cũ Huỳnh Phan Anh, ở nơi xứ người. Bên chai rượu đỏ, tại sao chúng tôi
không có quyền đi một đường cảm khái: may mắn thay, cả hai vẫn còn sống!
Nhưng gặp ở đâu, chứ ở
Paris thì còn ca cẩm gì nữa!
GCC mua số
báo Cahiers du Cinéma, sống lại quãng
đời mới quen HPA, con hẻm Trần Quí Cáp với ngôi trường Kiến Thiết, nơi
BHD học
tiểu học, rồi sau đó, vô Gia Long, khu Chợ Đũi với quán cà phê hủ tíu,
nơi vẫn
thường ngồi chờ BHD sau khi đưa em đi học - cũng ngôi trường Kiến Thiết
- và
sau gặp Gấu... nhưng còn là vì bài viết trên, nhất là câu mở ra nó,
tính bệ về,
chép tặng… Sến và Bọ Lập, khi cả hai chửi
giả tưởng, chẳng đáng xách dép cho hiện thực kít đái xứ Mít hiện tại:
“Giữa lịch
sử và giai thoại, tớ chọn giai thoại” [John Ford]. Gấu cũng “tâm đắc
với cái ý
này” – thuổng nhà thơ Mít VCC - khi cho rằng, sau này, chỉ giả tưởng
mới nói
lên được sự thực xứ Mít, không phải ba thứ hồi ký dởm "Đêm giữa ban
ngày", hay "Bên Thắng Nhục", hay những trang viết của Bọ Lập mà
xừ luỷ rất tự hào, cái gì gì [Cái gọi là hư
cấu trong văn học hầu như đã quá lạc hậu, ai còn đánh đu
với nó kẻ đó chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi. Nếu như bên truyền hình
người ta
đã chán những phóng sự cắt dựng theo lối hư cấu và bị hút hồn bởi
truyền hình
thực tế, thì với văn học tuồng như văn tả thực đang rất quyến rũ mọi
người. Điều
này giải thích vì sao mình không còn ngó ngàng gì đến truyện ngắn nữa,
chỉ mải
miết viết tạp văn. Ngay cuốn tiểu thuyết mình vừa viết xong xét cho
cùng cũng
là một tạp văn dài 350 trang mà thôi. NQL]
[Cho lần xb
50 năm sau, tháng này, Tháng Tư, 2013)
Tôi viết Tên
điệp viên về từ miền đất lạnh ở cái tuổi ba mươi của mình, dưới sức
ép thật
căng, không thể chia sẻ với ai, và cực kỳ cá nhân. Là 1 sĩ quan tình
báo với
cái vỏ bọc là 1 nhà ngoại giao trẻ ở Tòa Đại Sứ Anh ở Bonn, tôi là 1 bí
mật, với
những đồng nghiệp, và trong hầu hết thời gian, với chính tôi. Tôi đã
viết vài
cuốn tiểu thuyết trước đó, bắt buộc dưới 1 cái tên giả, và Sở của tôi
gật đầu
cho phép in. Và sau 1 hồi dài tra hỏi linh hồn (soul-searching), họ
cũng gật đầu
với The Spy.
Vào ngày
này, [50 năm sau], tôi tự hỏi, nếu Sở lắc đầu, thì quyết định
của tôi
sẽ ra sao.
Như
chuyện xẩy ra, họ có vẻ như kết luận, hẳn là có ngần ngại, rằng
cuốn truyện
thuần giả tưởng, từ đầu cho tới cuối, chẳng có gì cho thấy là rút ra từ
kinh
nghiệm cá nhân, và như thế, nó không phạm luật xé rào an ninh. Tuy
nhiên, đây
không phải là cách nhìn của giới báo chí thế giới, mà, với một tiếng
nói, quyết
định rằng, cuốn sách không hoàn toàn chân thật, nhưng mà là 1 thứ Thông
Điệp Từ
Phía Bên Kia có tính phát giác, mặc khải gì đó, một phán quyết như thế
khiến
tôi, đâu có phản ứng nào khác, ngoài chuyện ngồi im re, và theo dõi, lẽ
dĩ
nhiên cũng rất ư là lạnh cẳng, như thể cuốn sách leo mãi lên tít cao
của danh
sách những best-seller, rồi chết sững ở đó, trong lúc hết nhà phê bình
này tới
nhà phê bình khác gật gù, đúng thứ thiệt đấy!
Và cái
lạnh cẳng của tôi, thì sau đó được thêm vào, với thời gian, cái
giận dữ,
cũng của tôi.
Một giận
giữ bất lực.
Bởi là
vì, kể
từ ngày cuốn tiểu thuyết của tôi được xb, tôi nhận ra là, bây giờ cho
đến mãi về
sau, tôi bị chụp mũ, một tên điệp viên biến thành nhà văn, chứ không
phải, một
nhà văn, và, bởi vì là nhà văn, lại có tí lem nhem với thế giới bí mật,
và thế
là bèn viết về nó. Tôi là 1 tên bí mật ngay cả với chính tôi!
Nhưng
những
ký giả thời đó không phải như thế. Tôi là 1 tên điệp viên Ăng Lê, một
kẻ bước
ra khỏi thế giới bí ẩn của mình, và nói, nó thực sự như thế nào, và bất
cứ cái
gì tôi nói ngược lại, thì đều củng cố thêm lên, huyền thoại. Và, bởi vì
tôi viết
cho một công chúng ăn phải bả [hooked on] Bond và tuyệt vọng cố tìm
thuốc rã độc
[desperate for the antidote], huyền thoại càng dính cứng. Cùng lúc, tôi
có được
1 thứ quan tâm mà nhà văn mơ tưởng. Vấn đề độc nhất của tôi là, tôi
đếch khoái
công chúng của riêng tôi. Tôi đếch khoái, ngay cả khi tôi phụ thuộc vào
nó, đăng
ký nó [subscribing to it].
Một sự thực
tế nhị, A delicate truth, (1) là tên cuốn tiểu thuyết mới nhất
của le Carré, và Bạt, là của tác giả, 50 năm sau, khi nhìn lại cuốn
tiểu
thuyết điệp viên đưa ông lên đài danh vọng, Tên điệp viên về từ miền đất lạnh, “The
Spy Who Came in from the Cold”.
Tác giả giải thích: Cuốn
tiểu thuyết của tôi
không bảnh [the merit], vì nó chân thực [authentic] nhưng mà là vì nó
đáng tin
cậy, credible.
Mít chúng ta cần thứ sự
thực này, khi viết về cuộc chiến
vừa
qua. Chúng ta đếch cần sự thực, vì “đéo” có. Chúng ta cần 1 “sự thực tế
nhị”.
Trên trang Tin Văn, có 1 sự thực tế nhị
như thế, khi GCC viết về VC, bởi rõ là họ rất quí Gấu Cà Chớn, khi dám
viết ra
rằng cuộc chiến vừa qua là giấc mơ tuyệt vời của dân Mít: Chúa cho
giống dân này
ra đời, để thực hiện giấc mơ đó. Nhưng sau cùng, giấc mơ biến thành ác
mộng!
Hà, hà!
Không chỉ "sự
thực tế nhị", Mít chúng ta còn cần cả 1 cơn "cuồng nộ kiềm chế", a
"measured fury"!
Le Carré: Notes on a
voice
TYPICAL
SENTENCE
It takes three (two short, one
long) to show his measured fury.
"'This is a war,' Leamas replied. 'It’s graphic and unpleasant because
it
is fought on a tiny scale at close range; fought with a wastage of
innocent
life sometimes, I admit. But it’s nothing, nothing at all besides other
wars—the last or the next.'" ("The Spy Who Came in from the
Cold")
Câu văn thần sầu
Phải ba (hai
ngắn, một dài), để chỉ ra, cơn cuồng nộ cố dằn lại của ông. “Đây là
một cuộc
chiến,” Leamas trả lời. “Nó có tính đồ thị, minh họa, và làm khó chịu,
bởi là
vì xẩy ra trong 1 phạm vi hẹp, và ngay trong tầm tay; đôi khi làm phí
những mạng
người vô tội, tôi đồng ý. Nhưng bõ bèn gì, bên cạnh những cuộc chiến
khác – cái
vừa qua, hay cái sắp tới.” ("Tên điệp viên về từ miền lạnh”)
*
Với Gấu Cà
Chớn, câu văn thần sầu của Gấu mà nhờ Le Carré mới viết được - vắt qua
hai cuộc đời, một đã qua
cùng cuộc
chiến đã qua, và một sắp tới, cùng cuộc chiến hội nhập sắp tới - là câu
văn mà,
chỉ 1 khi Gấu được Cao Uỷ Tị Nạn cho xe tới rước, sau hai tháng tù vì
tội nhập
vô Thái Lan bất hợp pháp, tại nhà tù quốc tế Bangkok, và sau đó đưa vô
Trại
Phanat Nikhom - chỉ tới khi đó, mới viết được khúc đuôi của nó:
"Trong
những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong
tôi,
tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những
nẻo đường
xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái
phần đời
đó mới đáng kể." (1)
Note: "Đáng kể",
“kể”, kể ra, viết ra...
Benjamin:
Kẻ tản bộ
Cali 2012 With H/A
Poet Power
Miłosz’s
very first contribution to the Review was this
short letter, humorously objecting to the addition of his name to a
manifesto
on “Poet Power” that had been drafted by Allen Ginsberg in 1968.
November
7,
1968
Czesław
Miłosz.
In response
to:
Poet Power
from the August 22, 1968 issue
To the
Editors:
I found my
name under the “Poet Power” manifesto published in your issue of August
22. My
belief is that poets should not add to the general confusion by using
words in
an irresponsible way. A joke should not be presented as a credo.
Because of my
European background I consider a search for salvation through racial
myths,
tribal structures, high natural herbs etc. dangerous nonsense. When the
text
was being written by Allen Ginsberg at Stony Brook, both myself and my
friend
Zbigniew Herbert treated the whole matter as an exercise in humor. We
did not
sign the thing.
Czeslaw
Milosz
Berkeley,
California
*
Đóng góp rất
ư là đầu tiên của Milosz cho tờ NYRB, là, nhờ các anh 1 tí, hãy bỏ cái
tên của
tớ ra khỏi cái danh sách manifesto “Quyền lực của thi sĩ”…
TTT hình như
cũng có cái đóng góp rất đầu tiên, tương tự, cho băng đảng Cờ Lăng, khi
băng này để ông
vào danh sách những người phân ưu nhà thơ “Áo nàng vàng anh về yêu hoa
cúc” - khi
còn sống, ông gọi thứ thơ này là thơ kẹo mứt, thơ tán gái:
-Nè, bỏ tên ta
ra ngay!
Cái mối tình
tưởng tượng của Gấu, kéo dài hết quãng đời còn lại của Gấu, khi ra được
hải ngoại,
chấm dứt, khi Gấu qua Cali, được biết người tình tưởng tượng của Gấu
cũng có mặt
cùng lúc, và Gấu bèn đi 1 đường mail, xin gặp, đi 1 đường cà phê, vừa
uống cà
phê, vừa chiêm ngưỡng em, và em trả lời, đại khái, tôi có mặt trong bữa
ra mắt sách
báo cái con mẹ gì của băng Cờ Lăng. Anh muốn gặp tôi thì tới chỗ đó
đó....
Ui chao, có
bao giờ Gấu nhục nhã đi dự ba thứ cà chớn đó đâu, nhất là ở chỗ có ông
số 2, đã
từng ngồi nhâm nhi cà phê ở tòa soạn, ở Quận Cam, nhẹ nhàng phán, Sài
Gòn có người
chết đói đấy, ở ngay bên hông chợ Bến Thành, hay ông “fondateur” giải
thưởng văn
học Mai Thảo!
Ôi chao, cái
lần gặp Hải Âu Buồn, quả là đúng được Ông Trời bồi thường!
Em cũng từ 1
thành phố lạ đến Quận Cam, Gấu thì từ Canada qua, gặp nhau…
Tks again,
and please forgive
GNV
Sau đây là cái
mail, của 1 tên trong cái băng cà chớn đó, viết cho Gấu, phản ứng v/v
Gấu khen thơ của em,
những ngày đầu vừa mới ra hải ngoại:
Anh Tru,
Toi nghi,
tha anh dung viet gi ca ve “….” [tên riêng] con do... kho cho tac gia
hon la viet
theo kieu nay.
Cai goi la
van chuong của “….”, la mot loai Gia
Huan Ca con o dang tho thien, tot nhat, cu de no nam yen o do, hon la
viet ve
no, nhat la viet mot cach... kie^.m lo+`i va co ve nhu khong phai la
trong tam
cua bai viet, thi “….” [tên riêng], thu nhat, se khong hieu gi het (toi
hieu
lam tam muc tu duy van hoc gioi han cua ba chi nay), thu hai, ba chi se
rat
khong vua long. Doc sach, theo loi nhin va hieu cua ba ay thi phai dai
khai
theo kieu trung hoc de nhat cap: gioi tieu tac pham, tac gia, tom tat
cot
truyen moi truyen, chua them vai loi binh, cuoi cung la ket luan:
truyen nhan
hau, day ap tinh nguoi, nguoi Viet Nam ly huong, xa roi coi nguon, bi
tha hoa trong
cac xa hoi phuong Tay, tac pham nhu mot cai neo, se gin giu va danh
thuc trong
moi chung ta ky cuong, tinh tu dan toc (sic)...
Thoi ong oi,
tha cho doc gia gium toi. Nguyen Quoc Tru ma viet nhu the thi con gi la
Nguyen
Quoc Tru ?!!!
[còn 1 khúc
chót, GCC delete. NQT]
Cứ mỗi lần Sad
Seagull bực Gấu, là 1 lần em nghỉ chơi thật lâu, sau 1 cái mail bằng
tiếng của
tụi mũi lõ. Gấu như đang thấy em bực mình, làm sao mà mi để ta dính vô
cái vụ cà
chớn như thế này
Hà, hà!
Nhưng quả
cái
lần đầu tiên gặp HA, tại quán phở Nguyễn Huệ, là do Ông Trời sửa sai,
sau khi trao tặng "lầm" Gấu, món quà
vào lúc
chót đời, sau khi gật gù hài lòng, về 1 số mission impossible, mà
Gấu hoàn
tất!
|
|