Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
HPA @ Home,
2001 or 2002
Trang HPA
Văn học miền
Nam: Huỳnh Phan Anh
Miền Nam trước
1975 có những nhân vật đa dạng đến đáng kinh ngạc.
Trong số ấy
có Huỳnh Phan Anh: viết văn, viết báo, dịch sách, phê bình, nghiên
cứu...
(còn nữa)
Blog NL
Tình cờ, Gấu
mua số báo trên, cũng là vì nghĩ tới HPA và những ngày mới quen, cả hai
hay lê
la những tiệm sách cũ đường Trần Quý Cáp, Chợ Đũi, tìm những số báo
trên, cùng
với những số nrf, Ellery Queen [trinh thám], science-fiction… Gấu
học tiếng
Tây qua những số báo trên, cùng 1 số tác giả như Simenon, J.H. Chase.
Sau gặp đại
họa vì cái tật mê đọc série noire, trinh thám…
V/v “Duyên
Anh, tuổi trẻ, mộng và thực”.
Cuốn này HPA viết theo đơn
đặt hàng của chính Duyên
Anh. Chuyện này có thực, do chính anh nói với Gấu.
Không phải
DA chi tiền,
mà là 1 tên đầu nậu sách. Hai trăm, hay ba trăm ngàn gì đó!
Khu Chợ Đũi,
Huỳnh Phan Anh, và tôi
HPA tại nhà,
ở 1 con hẻm đường Trần Quí Cáp, 2001 or 2002
HPA & Phạm
Năng Cẩn tại 1 tiệm thịt chó ở khu cầu Thị Nghè, Sài Gòn, cc 2001
GCC & HPA @ Nhà Thờ Thánh Tâm Paris, 1999
Trang HPA
Gặp gỡ cuối
năm
Nhà văn
Guenter Grass, khi Đức quốc còn bị chia đôi - bởi vì tên ông luôn được
nhắc tới,
ròng rã trên hai thập kỷ - ông vẫn thường tự hỏi, tại sao không chia
giải thưởng
Nobel, cho hai nhà văn thuộc hai miền của một đất nước bị chia cắt, cho
Christa
Wolf, và tôi? Và, "hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều
và
trên không có những đám mây bàng bạc…", khi mấy ông Hàn Thụy điển đóng
kín
cửa phòng lo tranh cãi, bàn bạc, Guenter Grass bảo cô thư ký, họ lại ỳ
ra thôi,
và chúng ta sẽ có một mùa thu tuyệt vời!
Khi nghe tin
được giải, ông nhắc lại đề nghị, nhưng mấy ông Hàn lắc đầu.
Và ông kết
luận: may mắn thay, cả hai chúng tôi đều sống sót.
Grass cho rằng,
cũng như ông, Wolf, bằng tác phẩm đã cố gắng ngăn chặn một sự "chia cắt
vĩnh viễn" nước Đức. Tình bạn và sự kính mến giữa hai người, đã có từ
nhiều
năm. Nhân dịp sinh nhật thứ 70 của ông, Wolf đã viết thư chúc mừng, kể
kỷ niệm,
về cảm giác lúc nào cũng thấy ông hiện diện, nhưng không đâu bằng, ở
Dantzig-Gdansk. "Bạn đã 70 tuổi rồi. Không có bạn, tôi không thể nào
tưởng
tượng ra được phong cảnh văn hóa Đức. Hãy cứ khỏe mạnh. Và hãy lấy cái
ống vố
ra khỏi miệng nhé!"
Theo Grass,
sau chiến tranh và suốt chiến tranh lạnh, nước Đức bị tuyệt đối chia
cắt về
kinh tế, ý thức hệ, quân sự, nhưng hai nền văn chương, không bao giờ bị
đứt đoạn.
Trong bài phỏng vấn trên tờ Magazine Littéraire, sau khi được Nobel,
ông nhớ lại
những chuyến vượt bức tường qua Đông Bá Linh gặp bạn văn, trong những
căn hộ ấm
cúng, khi ra về trời đã khuya, vui như Tết, hồn thoáng chút hơi men, và
tội
nghiệp cho mấy tay mật vụ suốt buổi ở bên ngoài trời lạnh!
Người viết cứ
luẩn quẩn với những điều Grass viết, nhân chuyến gặp gỡ ông bạn cũ
Huỳnh Phan
Anh, ở nơi xứ người. Bên chai rượu đỏ, tại sao chúng tôi không có quyền
đi một
đường cảm khái: may mắn thay, cả hai vẫn còn sống!
Nhưng gặp ở
đâu, chứ ở Paris thì còn ca cẩm gì nữa!
Huỳnh Phan
Anh, sau 1975, có vẻ như không gặp rắc rối gì nhiều với chế độ mới.
Nhưng có lẽ
đó chỉ là bề mặt của câu chuyện. Lần đầu tiên, anh cho biết, vợ và hai
con gặp
tai nạn khi vượt biển. Tôi đã được nghe, cũng chỉ có vậy, và anh cũng
không nói
thêm chi tiết, như chỉ muốn xác nhận một chuyện mà bất cứ một người dân
Miền
Nam nào cũng biết, cũng hiểu. Như chỉ muốn xác nhận, tao vẫn vậy, vẫn
"dur" (cứng rắn), như ngày nào. Và anh quyết định cho cháu gái may mắn,
không có mặt vào giờ chót ở chuyến trước, đi chuyến liền sau đó. Bà chị
lớn hiện
ở Mỹ, nhân dịp này đi cùng cháu gái qua Paris thăm anh. Tôi hỏi về cô
em gái,
tên Như, trong nhà gọi Bé. "Nó ở Đức. Cả nhà tao vẫn mến mày như ngày
nào." Cô em, bây giờ đã có gia đình, vậy mà vẫn chưa quên, cái cảm giác
sững
sờ, khi nhờ bạn ông anh giải giùm một bài toán hắc búa. "Nó nói, chưa
bao
giờ gặp một người giỏi toán như vậy!"
Cô Bé này, học
cùng lớp với "cô bé" của tôi, những năm đầu trung học. Anh bạn chắc
vì thương tình, không nhắc chuyện, khi em anh đọc truyện tôi, về cái
cảnh thất
thểu chạy theo "cô bé" nơi cổng trường Đại Học Khoa Học...
"Nó đọc
và khóc vùi! Đúng là cải lương!", anh kết luận, về văn chương của tôi!
Bạn cứ
thử
tưởng tượng, hai thằng bạn văn, người Việt, sau cuộc chiến 30 năm vui
sao nước
mắt lại trào, sau thống nhất 29 năm (lúc này trên tháp Eiffeil, là dòng
chữ tiếng
Pháp 59 ngày trước năm 2000), vậy mà muốn gặp nhau phải... hẹn hò ở
Paris!
Nhờ hên
thôi, anh nói. Qua mấy ngày gặp, anh vẫn còn "nắc nỏm", tao không thể
tưởng tượng, có ngày lang thang ở Paris!
Anh cho
biết,
chỉ riêng năm vừa qua, có 10 đầu sách xuất bản, toàn là sách dịch. Tôi
hỏi về
tin, anh được nhà thơ Pháp Yves Bonnefoy, với tư cách cá nhân, bỏ tiền
túi ra mời
anh qua thăm Paris. (Anh có dịch một tuyển tập thơ của ông Tây này,
xuất bản dưới
dạng song ngữ). Anh nói, "lúy" có viết thư, gợi ý hai lần, nhưng tao
không ưng (thấy ngại quá!). Chuyến đi này, là do một tay Tùy Viên Sách
(Attaché
du Livre) của Tòa Đại Sứ Pháp. Đề nghị lâu rồi, không đi được, không
phải nhà
nước ngăn cấm, mà vì không đào đâu ra tiền giấy máy bay. Cuối cùng
người tùy
viên tốt bụïng lại phải lo giùm thêm khoản này.
Huỳnh Phan
Anh được học bổng đi Pháp ba tháng, nghiên cứu về "trường" (champ) dịch
thuật. Nghe nói, giới dịch thuật "chính thức" trong nước có vẻ
"bực" (hay nực?) vì chuyện này. Nhưng đây là tại "thằng
Tây" nó muốn cho ai thì cho chứ mắc mớ gì tới chuyện Nam Bắc kỳ, chia
để
trị, (văn sĩ) chính thống hay tề ngụy!
Lớp học trò
chúng tôi, đa số biết Paris qua... Thanh Tịnh. Con đường tới Paris bắt
đầu bằng
cảnh: mẹ tôi âu yếm dẫn tay tôi trên con đường làng, tôi vẫn quen đi
lại nhiều
lần, nhưng lần này tôi thấy lạ. Con đường làng Việt Nam dẫn hai đứa
chúng tôi tới
những lối đi nơi vườn Lục Xâm Bảo, và bầu trời hàng năm cứ vào cuối
thu, lá
ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc của
Thanh Tịnh,
bỗng lẫn vào bầu trời chập chùng Mùa Thu Paris, những chiếc lá vàng rơi
trên những
pho tượng trần, những bữa cơm tối ăn dưới ánh đèn... ôi chao, tôi lại
thấy cảnh
này, ở nơi vườn Bờ Rô Sài Gòn, những ngày quen cô bé...
Thanh Tịnh,
là của thời con nít. Gần gụi hơn, là những câu thơ, thí dụ như "hãy cho
anh một tí Paris, để anh làm thi sĩ...", (mô phỏng thơ Thanh Tâm
Tuyền),
hoặc "ga Lyon đèn vàng..." của Cung Trầm Tưởng.... hay là những trang
nhật ký của Roquentin, mùi củi ướt tại một xưởng thợ, và câu văn khép
lại cuốn
Buồn Nôn của Sartre: Ngày mai trời sẽ mưa trên thành phố Bouville.
Chúng đã khiến
cho những chiếc lá của Anatole France trên một con đường làng Việt Nam
đột ngột
sống lại, cùng với thời mới lớn của lũ chúng tôi.
Không biết
Thanh Tâm Tuyền đã làm một chuyến ngao du "Về Miền Tây" nào chưa,
nhưng thay vì một tí Paris, là những dòng thơ ở giữa chiến tranh và
trại tù.
Còn nhớ, những ngày đài phát thanh Sài Gòn, bằng một cái giọng thật ư
là đều đều,
đọc danh sách những người phải trình diện, tôi bảo ông, bữa trước có
nghe tên một
người bạn của anh..., ông vỗ đùi đánh đét, thế là sắp tới tao rồi!
Thanh Tâm
Tuyền trước đó đã mất hai năm lính, vừa được giải ngũ ít lâu thì xẩy ra
vụ Mậu
Thân, và sau đó là lệnh Tổng Động Viên. Hồi còn la cà ở Quán Cái Chùa,
đường Tự
Do Sài Gòn, tôi và Huỳnh Phan Anh hay được dịp ngồi chung bàn với ông.
Huỳnh
Phan Anh cho biết, sau khi ông đi cải tạo về, có gặp, và một lần có kéo
ông tới
một "căng-tin", làm vài hơi bia. Trong số những cô gái phục vụ, có một
cô rất mê thơ Thanh Tâm Tuyền. Bài hát tủ của cô: Lệ Đá Xanh. Cô bé
thật tình
muốn trổ tài trước nhà thơ, nhưng ông lắc đầu. Tôi nghĩ thầm: sau một
trận tù
dài như thế, vừa mới về nhà gặp vợ gặp con chưa hoàn hồn làm sao mà
Giang Châu
Tư Mã đầm đìa áo xanh cho được!
Chưa hoàn hồn...
tôi lại nhớ tới một "tục lệ" của người dân ngoài Bắc, mà tôi đã được
trải qua. Lần đó, mê chơi bi, hòn bi lăn mãi tít vô gầm chiếc rương lớn
chứa
thóc. Lui cui bò vô, hai chiếc mễ gỗ quá mục, sụp xuống, chiếc rương
thóc đè
lên thằng nhỏ. Người lớn lôi ra, thằng bé ngơ ngác, mắt lé xệch. Mấy
người lớn
tuổi nói: nắm cho nó mấy nắm cơm đi, để chuộc lại ba hồn bẩy vía.
Lại nói chuyện
dịch. Huỳnh Phan Anh "khoe", nếu mày về Sài Gòn, vào tiệm sách, là thấy
sách của tao bầy la liệt...
Anh dịch khủng
khiếp thật! Trước 1975, cuốn "đắc ý" của anh, có lẽ là "Ca Ngợi
Triết Học", dịch Merleau-Ponty, một trong hai người chủ trương tờ Thời
Mới.
Sartre ca ngợi bạn, trong khi ông còn mê mải với hiện sinh,
Merleau-Ponty đã bước
qua hiện tượng luận. Ông còn là một trong những chuyên gia "nghiêm
túc" về chủ nghĩa Cộng Sản, và đã tìm ra những mắt xích dễ gẫy của nó.
Không hiểu vào những năm 1960, trước bóng ma của một chiến thắng của
Miền Bắc,
anh bạn tôi khi dịch Ca Ngợi Triết Học, có nghĩ tới những dòng của
Merleau-Ponty, trong cuốn Ký Hiệu (Signes, 1960): "Chủ nghĩa Mác-xít
tìm
thấy trong lịch sử, những thảm kịch trừu tượng về Hữu thể và Hư vô và
đặt vào
đó, một gánh nặng siêu hình lớn lao; điều này đúng, vì nó nghĩ tới bộ
khung, tới
kiến trúc tính của lịch sử, tới sự xen lấn, bổ sung, giữa vật chất và
tinh thần,
giữa con người và thiên nhiên, giữa hiện hữu và ý thức, trong khi triết
học chỉ
đưa ra một bài toán đại số, và bản thiết kế. Thu tóm toàn bộ nguồn gốc
nhân loại,
chính trị cách mạng đi qua trung tâm siêu hình này. Nhưng trong thời kỳ
gần
đây, chính trị chỉ là thủ đoạn, một chuỗi đứt đoạn những hành động,
những giai
đoạn không có ngày mai, và người ta 'buộc' vào đó tất cả những hình
thức của
tinh thần và cuộc sống. Thay vì nối kết những đức hạnh, triết học và
chính trị
chỉ trao đổi cho nhau những cái xấu: người ta có, một thực hành quỉ
quyệt và một
tư tưởng mê tín". Là một người ở trong nước, chắc chắn là anh có thẩm
quyền
hơn tôi, để nói về quỉ quyệt và mê tín.
(Anh
than, về
chuyện giới viết lách ở trong nước coi anh là một trong những người
sống bằng
ngòi bút: cần tiền quá!)
Trong một
bài viết cho tờ Việt ở Úc, người viết có đưa đề nghị, cái dịch là cái
mới, và
cái mới nằm trong cách người viết, người đọc trân trọng một bản văn,
khi nó được
chuyển dịch ra khỏi nơi chốn, thời gian "thực" của nó, thí dụ như
dòng văn chương hải ngoại chẳng hạn, vốn được viết bởi những người Việt
phải từ
bỏ quê hương, ở khắp nơi trên mặt đất, tụ lại với nhau qua "bản văn
tiếng
Việt". Nhìn theo viễn tượng đó, với riêng tôi, dịch thuật là... cánh
cửa mở
vào thiên niên kỷ đối với chúng ta.
Gerald. L.
Bruns, trong bài viết "On Difficulty: Steiner, Heidegger, and Paul
Celan" (1) - kinh nghiệm của cả ba đều liên quan tới Nazi, tới Lò Thiêu
-
cho rằng chỉ những kẻ bị tống xuất, bị ruồng bỏ (outcasts), những kẻ
lang thang
vất vưởng (wanderers), nếu không muốn nói, chỉ những thi sĩ, mới có thể
trở
thành những dịch giả số một. Tại sao vậy?
Tác giả đặt
câu hỏi: Điều gì làm cho một bản văn (hay bất cứ một cái gì khác) cưỡng
lại mọi
cố gắng nhằm hiểu nó? Theo ông, đây là kinh nghiệm cơ bản đối với người
dịch.
Và là một kinh nghiệm vừa mang tính đạo hạnh, vừa bỏ ngỏ: "anh này
(one) cố
gắng lột trần anh kia (the other), bằng một ngôn ngữ, ở bên trong khung
văn hóa
riêng, nhưng anh kia không thể nào bị biến thành đối vật theo kiểu này,
bởi vì
anh (cũng lại) thuộc về thế giới riêng, và không thể bị bứng lên mà
không phải
dùng tới vũ lực. Cổ đại La-tinh hiểu điều này, khi gắn dịch với chiến
thắng những
thành phố, bắt nô lệ, và cướp bóc của cải."
"Nói ngắn
gọn, đây là sự thành lập đế quốc."
Nhưng dịch
có những hậu quả không thể kiểm soát được. Gần mực thì đen, chơi dao có
ngày đứt
tay: người dịch phải đối đầu với một điều vượt ra ngoài căn cước, bản
sắc
riêng. Hậu quả là, theo Steiner, "cái kia" (the otherness) chui vào
bên trong chúng ta, làm cho chúng ta thành kẻ khác.... Chẳng thể có
dịch thuật,
ngoại trừ dưới điều kiện khủng hoảng tri thức luận (There can be no
translation
except under conditions of epistemological crisis). Nhìn như thế mới
thấy một sự
thực cay đắng chua chát: chỉ mấy anh/mấy chị xẩy nhà ra thất thổ, mất
quê
hương, sống đầu đường xó chợ, mất mẹ căn cước mẹ đẻ, mới hiểu thế nào
là dịch
thuật: chiếm tiếng người làm tiếng mình!
Trường hợp dịch
của ông bạn tôi, có thể giải thích, bằng nhận định của G. Grass. Phản
ứng trước
hiện tượng "không giờ" của văn chương (hãy chui vào tháp ngà, hãy nói
chuyêän cái mỹ, hãy làm đao phủ thiền....), ông tuyên bố: kẻ nào muốn
thống nhất
nước Đức, kẻ ấy phải ôm riết lấy (lò thiêu) Auschwitz.
Điều này giải
thích tại sao, trong cuốn sách vừa mới xuất bản tại Việt Nam ("Tao đi
đây,
phải nhắn họ mang tiền nhuận bút tới cho bà xã ở nhà"), "Không gian,
Khoảnh khắc Văn chương" (Tiểu luận-Phê bình, người biên tập Lại Nguyên
Ân,
nhà xb Hội Nhà Văn, 1999), không nói tới những tác giả đã qua đời như
Tản Đà,
Nhất Linh, Đinh Hùng, giữa những tên tuổi như J.M.G. Clezio, Claude
Simon,
Heinrich Boll... bạn tôi đặt vào, chỉ một tác giả Việt Nam, "mới":
Phan Thị Vàng Anh.
Đây là một
cuốn sách thâu gom những bài viết phê bình, tiểu luận, rải rác trước và
sau
1975. Huỳnh Phan Anh cho biết, cũng phải nhờ một nhà phê bình thuộc
diện nhà nước,
cuốn sách mới ra được: "Mày thấy không, một tác giả chuyên về 'hư vô'
như
tao, sống giữa một xã hội 'không hư vô' một chút nào, với những bài
viết từ trước
1975, đấy không phải là một dấu hiệu đáng mừng của 'văn chương' hay
sao?"
Một dấu hiệu
đáng mừng, liệu người ta có thể nhận ra nó, khi đọc Phan Thị Vàng Anh?
Một trùng hợp
khá thú vị: Đọc Vàng Anh, tôi cũng liên tưởng tới Francoise Sagan,
nhưng không
hẳn như Huỳnh Phan Anh nhận xét: "Họ (những nhân vật trẻ tuổi của Phan
thị
Vàng Anh) đáng yêu hơn những nhân vật của Sagan mà người đọc có thể
liên tưởng
tới khi đọc Vàng Anh bởi sự buồn nản; sự nổi loạn không đẩy họ tới
những buông
thả, phá phách, suồng sã, mù quáng một cách vô duyên cớ, đặc trưng của
một tuổi
trẻ nào khác, ở một nơi nào khác."
Phan Thị
Vàng Anh, theo tôi, cũng nằm trong hiện tượng "không giờ" của văn
chương. Ở đây, còn có sự nuông chiều (một trong những hậu duệ, của "con
cưng" chế độ). Có sự õng ẹo, với văn chương chữ nghĩa. Với tuổi trẻ.
Với
cái nhìn xuống, khi bóng gió xa xôi, về nỗi cơ cực của những con người
quanh
"cô bé". Cô bé đôi lúc cũng đăm chiêu về phận người, theo kiểu
"Buồn Ơi, Chào mi!" của Sagan.
Khi "Buồn
ơi…" xuất hiện tại Pháp, người ta chào đón nó như một loài chim quí.
Với
Vàng Anh, một loài chim quí, để nuôi trong lồng, như một dấu hiệu đẹp
đẽ về một
chế độ không đẹp đẽ. Giới phê bình Tây Phương cũng đã nhận ra điều này
với bao
nhiêu tác phẩm của Sagan: trong bao nhiêu năm, người Pháp đã giữ riêng
cho họ,
một người tình.
Nhưng xã hội
Tây Phương (nước Pháp), khi Sagan mô tả, là những năm kinh tế khá ổn
định, và
giới tính đang được mùa.
Có còn hơn
không. Khi Sagan được đón nhận, "như một con chim hiếm", người ta biết,
cái khí hậu văn chương hiện sinh cần một thái độ đạo đức-phi đạo đức
như vậy.
Cũng cần phải phân biệt, phi đạo đức khác với vô đạo đức. Phi đạo đức,
một cách
nào đó, là treo lửng đạo đức bên trên ngòi bút. Với Vàng Anh, độc giả
trong nước
có một cô bé õng ẹo, giữa một đám đao phủ đang ngồi thiền là thế hệ cha
chú của
cô. Vậy cũng là dấu hiệu đáng mừng rồi! Huỳnh Phan Anh đã nhận ra điều
này,
nhưng ông nói, với một sự châm chước, của một người đã lớn tuổi: "Có lẽ
họ
nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống".
[Vàng Anh là
con gái nhà thơ Chế Lan Viên. Nghe nói, những bản viết đầu tay của cô
là do bố
sửa sang, đánh bóng lại. Một anh bạn cho biết, trong một truyện ngắn
viết về
người bố, sau khi mất được hỏa thiêu, nhìn hũ tro cốt, "cái còn lại"
của một đời người cúc cung với chế độ, cô cay đắng hỏi chủ nghĩa, hỏi
chế độ, hỏi
đời, hỏi chính mình, "Chỉ có thế thôi à?"]
NQT