Gặp gỡ cuối năm
Nhà văn Guenter Grass, khi Đức quốc
còn bị chia đôi - bởi vì
tên ông luôn được nhắc tới, ròng rã trên hai thập kỷ - ông vẫn thường
tự hỏi,
tại sao không chia giải thưởng Nobel, cho hai nhà văn thuộc hai miền
của một
đất nước bị chia cắt, cho Christa Wolf, và tôi? Và, "hàng năm cứ vào
cuối
thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng
bạc…",
khi mấy ông Hàn Thụy điển đóng kín cửa phòng lo tranh cãi, bàn bạc,
Guenter
Grass bảo cô thư ký, họ lại ỳ ra thôi, và chúng ta sẽ có một mùa thu
tuyệt vời!
Khi nghe tin được giải, ông nhắc lại
đề nghị, nhưng mấy ông
Hàn lắc đầu.
Và ông kết luận: may mắn thay, cả hai
chúng tôi đều sống
sót.
Grass cho rằng, cũng như ông, Wolf,
bằng tác phẩm đã cố gắng
ngăn chặn một sự "chia cắt vĩnh viễn" nước Đức. Tình bạn và sự kính
mến giữa hai người, đã có từ nhiều năm. Nhân dịp sinh nhật thứ 70 của
ông, Wolf
đã viết thư chúc mừng, kể kỷ niệm, về cảm giác lúc nào cũng thấy ông
hiện diện,
nhưng không đâu bằng, ở Dantzig-Gdansk. "Bạn đã 70 tuổi rồi. Không có
bạn,
tôi không thể nào tưởng tượng ra được phong cảnh văn hóa Đức. Hãy cứ
khỏe mạnh.
Và hãy lấy cái ống vố ra khỏi miệng nhé!"
Theo Grass, sau chiến tranh và suốt
chiến tranh lạnh, nước
Đức bị tuyệt đối chia cắt về kinh tế, ý thức hệ, quân sự, nhưng hai nền
văn
chương, không bao giờ bị đứt đoạn. Trong bài phỏng vấn trên tờ Magazine
Littéraire, sau khi được Nobel, ông nhớ lại những chuyến vượt bức tường
qua
Đông Bá Linh gặp bạn văn, trong những căn hộ ấm cúng, khi ra về trời đã
khuya,
vui như Tết, hồn thoáng chút hơi men, và tội nghiệp cho mấy tay mật vụ
suốt
buổi ở bên ngoài trời lạnh!
Người viết cứ luẩn quẩn với những điều
Grass viết, nhân
chuyến gặp gỡ ông bạn cũ Huỳnh Phan Anh, ở nơi xứ người. Bên chai rượu
đỏ, tại
sao chúng tôi không có quyền đi một đường cảm khái: may mắn thay, cả
hai vẫn
còn sống!
Nhưng gặp ở đâu, chứ ở Paris
thì còn ca cẩm gì nữa!
Thầy Thanh Tuệ & Hai Lúa
@
Chùa Khánh Anh [cũ], Paris.
Huỳnh Phan Anh, sau 1975, có vẻ như
không gặp rắc rối gì
nhiều với chế độ mới. Nhưng có lẽ đó chỉ là bề mặt của câu chuyện. Lần
đầu
tiên, anh cho biết, vợ và hai con gặp tai nạn khi vượt biển. Tôi đã
được nghe,
cũng chỉ có vậy, và anh cũng không nói thêm chi tiết, như chỉ muốn xác
nhận một
chuyện mà bất cứ một người dân Miền Nam nào cũng biết, cũng
hiểu. Như
chỉ muốn xác nhận, tao vẫn vậy, vẫn "dur" (cứng rắn), như ngày nào.
Và anh quyết định cho cháu gái may mắn, không có mặt vào giờ chót ở
chuyến
trước, đi chuyến liền sau đó. Bà chị lớn hiện ở Mỹ, nhân dịp này đi
cùng cháu
gái qua Paris
thăm anh. Tôi hỏi về cô em gái, tên Như, trong nhà gọi Bé. "Nó ở Đức.
Cả
nhà tao vẫn mến mày như ngày nào." Cô em, bây giờ đã có gia đình, vậy
mà
vẫn chưa quên, cái cảm giác sững sờ, khi nhờ bạn ông anh giải giùm một
bài toán
hắc búa. "Nó nói, chưa bao giờ gặp một người giỏi toán như vậy!"
Kiệt Tấn & Hai Lúa
Thảo Trần & Hai
Lúa @ Cà-phe Les Deux Magots
Cô Bé này, học cùng lớp với "cô bé"
của tôi, những
năm đầu trung học. Anh bạn chắc vì thương tình, không nhắc chuyện, khi
em anh
đọc truyện tôi, về cái cảnh thất thểu chạy theo "cô bé" nơi cổng
trường Đại Học Khoa Học...
"Nó đọc và khóc vùi! Đúng là cải
lương!", anh kết
luận, về văn chương của tôi!
Bạn cứ thử tưởng
tượng, hai thằng bạn văn, người Việt, sau
cuộc chiến 30 năm vui sao nước mắt lại trào, sau thống nhất 29 năm (lúc
này
trên tháp Eiffeil, là dòng chữ tiếng Pháp 59 ngày trước năm 2000), vậy
mà muốn
gặp nhau phải... hẹn hò ở Paris!
Nhờ hên thôi, anh
nói. Qua mấy ngày gặp, anh vẫn còn
"nắc nỏm", tao không thể tưởng tượng, có ngày lang thang ở Paris!
Anh cho biết, chỉ
riêng năm vừa qua, có 10 đầu sách xuất
bản, toàn là sách dịch. Tôi hỏi về tin, anh được nhà thơ Pháp Yves
Bonnefoy,
với tư cách cá nhân, bỏ tiền túi ra mời anh qua thăm Paris. (Anh có
dịch một
tuyển tập thơ của ông Tây này, xuất bản dưới dạng song ngữ). Anh nói,
"lúy" có viết thư, gợi ý hai lần, nhưng tao không ưng (thấy ngại
quá!). Chuyến đi này, là do một tay Tùy Viên Sách (Attaché du Livre)
của Tòa
Đại Sứ Pháp. Đề nghị lâu rồi, không đi được, không phải nhà nước ngăn
cấm, mà
vì không đào đâu ra tiền giấy máy bay. Cuối cùng người tùy viên tốt
bụïng lại
phải lo giùm thêm khoản này.
Huỳnh Phan Anh được
học bổng đi Pháp ba tháng, nghiên cứu về
"trường" (champ) dịch thuật. Nghe nói, giới dịch thuật "chính
thức" trong nước có vẻ "bực" (hay nực?) vì chuyện này. Nhưng đây
là tại "thằng Tây" nó muốn cho ai thì cho chứ mắc mớ gì tới chuyện
Nam Bắc kỳ, chia để trị, (văn sĩ) chính thống hay tề ngụy!
Lớp học trò chúng tôi, đa số biết
Paris qua... Thanh Tịnh.
Con đường tới Paris bắt đầu bằng cảnh: mẹ tôi âu yếm dẫn tay tôi trên
con đường
làng, tôi vẫn quen đi lại nhiều lần, nhưng lần này tôi thấy lạ. Con
đường làng
Việt Nam dẫn hai đứa chúng tôi tới những lối đi nơi vườn Lục Xâm Bảo,
và bầu
trời hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không
có
những đám mây bàng bạc của Thanh Tịnh, bỗng lẫn vào bầu trời chập chùng
Mùa Thu
Paris, những chiếc lá vàng rơi trên những pho tượng trần, những bữa cơm
tối ăn
dưới ánh đèn... ôi chao, tôi lại thấy cảnh này, ở nơi vườn Bờ Rô Sài
Gòn, những
ngày quen cô bé...
Thanh Tịnh, là của thời con nít. Gần
gụi hơn, là những câu
thơ, thí dụ như "hãy cho anh một tí Paris, để anh làm thi sĩ...", (mô
phỏng thơ Thanh Tâm Tuyền), hoặc "ga Lyon đèn vàng..." của Cung Trầm
Tưởng.... hay là những trang nhật ký của Roquentin, mùi củi ướt tại một
xưởng
thợ, và câu văn khép lại cuốn Buồn
Nôn của Sartre: Ngày mai trời sẽ mưa
trên
thành phố Bouville. Chúng đã khiến cho những chiếc lá của Anatole
France trên
một con đường làng Việt Nam đột ngột sống lại, cùng với thời mới lớn
của lũ
chúng tôi.
Không biết Thanh Tâm Tuyền đã làm một
chuyến ngao du
"Về Miền Tây" nào chưa, nhưng thay vì một tí Paris, là những dòng Thơ
ở giữa chiến tranh và trại tù. Còn nhớ, những ngày đài phát thanh
Sài
Gòn, bằng
một cái giọng thật ư là đều đều, đọc danh sách những người phải trình
diện, tôi
bảo ông, bữa trước có nghe tên một người bạn của anh..., ông vỗ đùi
đánh đét,
thế là sắp tới tao rồi! Thanh Tâm Tuyền trước đó đã mất hai năm lính,
vừa được
giải ngũ ít lâu thì xẩy ra vụ Mậu Thân, và sau đó là lệnh Tổng Động
Viên. Hồi
còn la cà ở Quán Cái Chùa, đường Tự Do Sài Gòn, tôi và Huỳnh Phan Anh
hay được
dịp ngồi chung bàn với ông. Huỳnh Phan Anh cho biết, sau khi ông đi cải
tạo về,
có gặp, và một lần có kéo ông tới một "căng-tin", làm vài hơi bia.
Trong số những cô gái phục vụ, có một cô rất mê thơ Thanh Tâm Tuyền.
Bài hát tủ
của cô: Lệ Đá Xanh. Cô
bé thật tình muốn trổ tài trước nhà thơ, nhưng
ông lắc
đầu. Tôi nghĩ thầm: sau một trận tù dài như thế, vừa mới về nhà gặp vợ
gặp con
chưa hoàn hồn làm sao mà Giang Châu Tư Mã đầm đìa áo xanh cho được!
Chưa hoàn hồn... tôi
lại nhớ tới một "tục lệ" của
người dân ngoài Bắc, mà tôi đã được trải qua. Lần đó, mê chơi bi, hòn
bi lăn
mãi tít vô gầm chiếc rương lớn chứa thóc. Lui cui bò vô, hai chiếc mễ
gỗ quá
mục, sụp xuống, chiếc rương thóc đè lên thằng nhỏ. Người lớn lôi ra,
thằng bé
ngơ ngác, mắt lé [lác] xệch. Mấy người lớn tuổi nói: nắm cho nó mấy nắm
cơm, để
chuộc lại ba hồn bẩy vía.
Lại nói chuyện dịch. Huỳnh Phan Anh "khoe", nếu
mày về Sài Gòn, vào tiệm sách, là thấy sách của tao bầy la liệt...
Anh dịch khủng khiếp thật! Trước 1975,
cuốn "đắc
ý" của anh, có lẽ là "Ca Ngợi
Triết Học", dịch Merleau-Ponty,
một trong hai người chủ trương tờ Thời Mới. Sartre đã từng ca
ngợi bạn, trong
khi ông
còn mê mải với hiện sinh, Merleau-Ponty đã bước qua hiện tượng luận.
Ông [Merleau-Ponty] còn là
một trong những chuyên gia "nghiêm túc" về chủ nghĩa Cộng Sản, và đã
tìm ra những mắt xích dễ gẫy của nó. Không hiểu vào những năm 1960,
trước bóng
ma của một chiến thắng của Miền Bắc, anh bạn tôi khi dịch Ca Ngợi Triết
Học, có
nghĩ tới những dòng của Merleau-Ponty, trong cuốn Ký Hiệu (Signes,
1960):
"Chủ nghĩa Mác-xít tìm thấy trong lịch sử, những thảm kịch trừu tượng
về
Hữu thể và Hư vô và đặt vào đó, một gánh nặng siêu hình lớn lao; điều
này đúng,
vì nó nghĩ tới bộ khung, tới kiến trúc tính của lịch sử, tới sự xen
lấn, bổ
sung, giữa vật chất và tinh thần, giữa con người và thiên nhiên, giữa
hiện hữu
và ý thức, trong khi triết học chỉ đưa ra một bài toán đại số, và bản
thiết kế.
Thu tóm toàn bộ nguồn gốc nhân loại, chính trị cách mạng đi qua trung
tâm siêu
hình này. Nhưng trong thời kỳ gần đây, chính trị chỉ là thủ đoạn, một
chuỗi đứt
đoạn những hành động, những giai đoạn không có ngày mai, và người ta
'buộc' vào
đó tất cả những hình thức của tinh thần và cuộc sống. Thay vì nối kết
những đức
hạnh, triết học và chính trị chỉ trao đổi cho nhau những cái xấu: người
ta có,
một thực hành quỉ quyệt và một tư tưởng mê tín".
Là một người ở trong
nước, chắc chắn là anh có thẩm quyền hơn tôi, để nói về quỉ quyệt và mê
tín.
(Anh than, về chuyện giới viết lách ở
trong nước coi anh là
một trong những người sống bằng ngòi bút: cần tiền quá!).
Trong một bài viết cho tờ Việt ở Úc,
người viết có đưa đề
nghị, cái dịch là cái mới, và cái mới nằm trong cách người viết, người
đọc trân
trọng một bản văn, khi nó được chuyển dịch ra khỏi nơi chốn, thời gian
"thực" của nó, thí dụ như dòng văn chương hải ngoại chẳng hạn, vốn
được viết bởi những người Việt phải từ bỏ quê hương, ở khắp nơi trên
mặt đất,
tụ lại với nhau qua "bản văn tiếng Việt".
Nhìn theo viễn tượng đó,
với riêng tôi, dịch thuật là... cánh cửa mở vào thiên niên kỷ đối với
chúng ta.
Gerald. L. Bruns, trong bài viết "On
Difficulty:
Steiner, Heidegger, and Paul Celan", [in trong cuốn "Đọc Steiner"] -
kinh nghiệm của cả ba ông này đều
liên
quan tới Nazi, tới Lò Thiêu - cho rằng chỉ những kẻ bị tống xuất, bị
ruồng bỏ
(outcasts), những kẻ lang thang vất vưởng (wanderers), nếu không muốn
nói, chỉ
những thi sĩ, mới có thể trở thành những dịch giả số một. Tại sao vậy?
Tác giả đặt câu hỏi: Điều gì làm cho
một bản văn (hay bất cứ
một cái gì khác) cưỡng lại mọi cố gắng nhằm hiểu nó? Theo ông, đây là
kinh
nghiệm cơ bản đối với người dịch. Và là một kinh nghiệm vừa mang tính
đạo hạnh,
vừa bỏ ngỏ: "Anh này (one) cố gắng lột trần anh kia (the other), bằng
một
ngôn ngữ, ở bên trong khung văn hóa riêng, nhưng anh kia không thể nào
bị biến
thành đối vật theo kiểu này, bởi vì anh (cũng lại) thuộc về thế giới
riêng, và
không thể bị bứng lên mà không phải dùng tới vũ lực."
Cổ đại La-tinh
hiểu điều
này, khi gắn dịch với chiến thắng những thành phố, bắt nô lệ, và cướp
bóc của
cải."
"Nói ngắn gọn, đây là
sự thành lập đế quốc."
Nhưng dịch có những
hậu quả không thể kiểm soát được. Gần
mực thì đen, chơi dao có ngày đứt tay: người dịch phải đối đầu với một
điều
vượt ra ngoài căn cước, bản sắc riêng. Hậu quả là, theo Steiner, "Cái
kia" (the otherness) chui vào bên trong chúng ta, làm cho chúng ta
thành
kẻ khác.... Chẳng thể có dịch thuật, ngoại trừ dưới điều kiện khủng
hoảng tri
thức luận (There can be no translation except under conditions of
epistemological crisis).
Nhìn như thế mới thấy một sự thực cay đắng
chua chát:
chỉ mấy anh/mấy chị xẩy nhà ra thất thổ, mất quê hương, sống đầu đường
xó chợ,
mất mẹ căn cước mẹ đẻ, mới hiểu thế nào là dịch thuật: chiếm tiếng
người làm
tiếng mình!
Trường hợp dịch của ông bạn tôi, có
thể giải thích, bằng
nhận định của G. Grass. Phản ứng trước hiện tượng "không giờ" của văn
chương (hãy chui vào tháp ngà, hãy nói chuyện cái mỹ, cái đẹp, vờ đi
chính trị, hãy làm đao phủ...
"thiền"), ông tuyên bố: Kẻ nào muốn thống nhất nước Đức, kẻ ấy phải
ôm riết
lấy Lò Thiêu Auschwitz.
Điều này giải thích tại sao, trong
cuốn sách vừa mới xuất
bản tại Việt Nam ("Tao đi đây, phải nhắn họ mang tiền nhuận bút tới cho
bà
xã ở nhà"), "Không gian,
Khoảnh khắc Văn chương" (Tiểu luận-Phê
bình, người biên tập Lại Nguyên Ân, nhà xb Hội Nhà Văn, 1999), không
nói tới
những tác giả đã qua đời như Tản Đà, Nhất Linh, Đinh Hùng, giữa những
tên tuổi
như J.M.G. Clezio, Claude Simon, Heinrich Boll... bạn tôi đặt vào, chỉ
một tác
giả Việt Nam, "mới": Phan Thị Vàng Anh.
Đây là một cuốn sách thâu gom những
bài viết phê bình, tiểu
luận, rải rác trước và sau 1975. Huỳnh Phan Anh cho biết, cũng phải nhờ
một nhà
phê bình thuộc diện nhà nước, cuốn sách mới ra được:
"Mày thấy không,
một
tác giả chuyên về 'hư vô' như tao, sống giữa một xã hội 'không hư vô'
một chút
nào, với sự xuất hiện của những bài viết từ trước 1975, đấy không phải
là một dấu hiệu
đáng mừng
của 'văn chương' hay sao?"
Một dấu hiệu đáng mừng, liệu người ta
có thể nhận ra nó, khi
đọc Phan Thị Vàng Anh?
Một trùng hợp khá thú vị: Đọc Vàng
Anh, tôi cũng liên tưởng
tới Francoise Sagan, nhưng không hẳn như Huỳnh Phan Anh nhận xét: "Họ
(những nhân vật trẻ tuổi của Phan thị Vàng Anh) đáng yêu hơn những nhân
vật của
Sagan mà người đọc có thể liên tưởng tới khi đọc Vàng Anh bởi sự buồn
nản; sự
nổi loạn không đẩy họ tới những buông thả, phá phách, suồng sã, mù
quáng một
cách vô duyên cớ, đặc trưng của một tuổi trẻ nào khác, ở một nơi nào
khác."
Phan Thị Vàng Anh, theo tôi, cũng nằm
trong hiện tượng
"không giờ" của văn chương. Ở đây, còn có sự nuông chiều (một trong
những hậu duệ, của "con cưng" chế độ). Có sự õng ẹo, với văn chương
chữ nghĩa. Với tuổi trẻ. Với cái nhìn xuống, khi bóng gió xa xôi, về
nỗi cơ cực
của những con người quanh "cô bé". Cô bé đôi lúc cũng đăm chiêu về
phận người, theo kiểu "Buồn
Ơi, Chào mi!" của Sagan.
Khi "Buồn ơi…" xuất hiện tại Pháp,
người ta chào
đón nó như một loài chim quí. Với Vàng Anh, một loài chim quí, để nuôi
trong
lồng, như một dấu hiệu đẹp đẽ về một chế độ không đẹp đẽ. Giới phê bình
Tây
Phương cũng nhận ra điều này với bao nhiêu tác phẩm của Sagan: Trong
bao
nhiêu năm, người Pháp đã giữ riêng cho họ, một người tình.
Nhưng xã hội Tây Phương (nước Pháp),
khi Sagan mô tả, là
những năm kinh tế khá ổn định, và giới tính đang được mùa.
Có còn hơn không. Khi Sagan được đón
nhận, "như một con
chim hiếm", người ta biết, cái khí hậu văn chương hiện sinh cần một
thái
độ đạo đức-phi đạo đức như vậy.
Cũng cần phải phân biệt, phi đạo đức
khác với
vô đạo đức. Phi đạo đức, một cách nào đó, là treo lửng đạo đức bên trên
ngòi
bút.
Với Vàng Anh, độc giả trong nước có một cô bé õng ẹo, giữa một đám
đao phủ
đang ngồi thiền là thế hệ cha chú của cô. Vậy cũng là dấu hiệu đáng
mừng rồi!
Huỳnh Phan Anh đã nhận ra điều này, nhưng ông nói, với một sự châm
chước, của
một người đã lớn tuổi: "Có lẽ họ nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc
sống".
[Vàng Anh là con gái nhà thơ Chế Lan
Viên. Nghe nói, những
bản viết đầu tay của cô là do bố sửa sang, đánh bóng lại. Một anh bạn
cho biết,
trong một truyện ngắn viết về người bố, sau khi mất được hỏa thiêu,
nhìn hũ tro
cốt, "cái còn lại" của một đời người cúc cung với chế độ, cô cay đắng
hỏi chủ nghĩa, hỏi chế độ, hỏi đời, hỏi chính mình, "Chỉ có thế thôi
à?"]
NQT