*

Charles Simic

*

Hilary Mantel on the art of fiction: “I suppose if I have a maxim, it is that there isn’t any necessary conflict between good history and good drama.” Lydia Davis on the art of fiction: “ I find what happens in reality very interesting and I don’t find a great need to make up things, but I do like retelling stories that are told to me.”  Elena Ferrante on the art of fiction: “ The media simply can't discuss an artwork unless it can point to some protagonist behind it. And yet there is no work of literature that is not the fruit of tradition, of many skills, of a sort of collective intelligence.”

Poems

Three Poems

Charles Simic

January

Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.

An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.

[Note: Bài thơ này, trên báo giấy, có hai khúc, như trên.
Trên báo net, ba:

January

Children’s fingerprints
On a frozen window

Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,

Maintains itself through
The cruelty of its prisons.]

Tháng Giêng

Vân tay con nít trên cửa sổ giá lạnh
Của một ngôi trường nhỏ

Một đế quốc, Gấu Cà Chớn đọc đâu đó
Tự gìn giữ, chính nó
Bằng sự độc ác của những nhà tù của nó 

[Ui chao, đọc bài thơ này, thì GCC bèn THNM, mà ngộ ra rằng, nhờ cái thứ giáo dục, ngày hôm nay, em bắn rớt ba Thần Sấm, giết bốn tên Mẽo, chôn sống năm tên Ngụy, mà xứ Mít VC, không chỉ tự gìn giữ nó, mà còn đánh thắng được cả hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới]

A LIFE OF VICE BEGINS IN THE CRADLE

Grandpa loved crawling
Under the skirts of his mother's friends
As they sat on the porch
On warm summer afternoons
Sipping sweet tea and chatting
About neighbors and relatives,
Ignoring the toddler running
His small hands up their legs.

Một đời trụy lạc bắt đầu từ trong nôi

Ông nội mê xục xạo
Bên dưới váy mấy bà bạn của mẹ
Khi họ ngồi buôn chuyện
Ở bên dưới vòm cổng
Vào những chiều hè
Về lối xóm và bà con họ hàng
Lim dim chiêu ngụm chè tươi
Vờ ngón tay thằng bé lăn tăn, lăn tăn
Giữa những sợi lông chân
Tới tận háng!

MYSTERY THEATER

Bald man smoking in bed,
Naked lightbulb over his head,

The shadow of his cigar
Next to him on the wall,

Its long ash about to fall
Into a pitch-dark fishbowl.

Tuồng Bí Mật

Đầu trọc nằm hút thuốc lá trên giường
Cái bóng đèn trộc lốc trên đầu hắn ta

Cái bóng điếu xì gà
Kế hắn ta, trên tường

Mẩu tàn thuốc, dài ơi là dài
Hăm he rớt
Xuống cái chậu cá, đen ơi là đen.

Let Us Be Careful

More could be said
of a dead fly
in the window
of a small shed,
and of an iron typewriter
that hasn't
lifted a key in years
both in delight
and dark despair.

Merrymakers

A troop of late night revellers,
most likely shown the door
at some after-hours club
or a party in theneighbourhood,
still whooping it up
as they stagger down the street
with a girl in a wedding dress
walking pigeon-toed far behind them,
and calling out in distress:
'Hey, you! Where the fuck
do you think you're going?'

Passing Through

An unidentified,
inconspicuous someone,
smaller than a flea
snuck over my pillow last night,
unbothered by me,
in a big rush", I bet,
to get to his church
and thank his saints.

In Its Own Sweet Time

That one remaining, barely moving leaf
The wind couldn't get to fall
All winter long from a bare tree -
That's me! Thinks the old fellow,

The one they roll out in a wheelchair
So that he can watch the children
Play in the park, their mothers
Gossip all day about their neighbours

While pigeons take turns landing
And taking off from a newly arrived hearse
Parked in front of the parish church,
Dragging his gaze along as they do.

LRB [London Review of Books] May 9 2013


Charles Simic

*

*

Two Dogs

by Charles Simic
for Charles and Holly

An old dog afraid of his own shadow
In some Southern town.
The story told me by a woman going blind,
One fine summer evening
As shadows were creeping
Out of the New Hampshire woods,
A long street with just a worried dog
And a couple of dusty chickens,
And all that sun beating down
In that nameless Southern town. 

It made me remember the Germans marching
Past our house in 1944.
The way everybody stood on the sidewalk
Watching them out of the corner of the eye,
The earth trembling, death going by . . .

A little white dog ran into the street
And got entangled with the soldier’s feet.
A kick made him fly as if he had wings.
That’s what I keep seeing!
Night coming down. A dog with wings.

Hai Con Chó

Một con chó già sợ cái bóng của chính nó
Trong 1 thành phố Nam Kít nào đó
Chuyện này tôi nghe qua một bà sắp mù
Vào một buổi chiều tuyệt vời mùa hạ
Khi bóng tối
từ những cánh rừng Sát
Bò ra
Con phố dài Hồng Thập Tự
Với chú chó già rầu rĩ
Và cặp gà bụi bặm
Và cả mặt trời đổ xuống
Một thành phố mất tên Nam Kít

Nó làm tôi nhớ buổi 30 Tháng Tư 1975
Ðám VC Bắc Kít diễu hành qua căn nhà của tôi
Người dân đứng bên lề nhìn chúng bằng một góc con mắt
Mặt đất rung chuyển, và cái chết thì lờ vờ quanh đó..
Một con chó trắng nhỏ chạy ra đường
Làm quẩn chân đám nón cối
Và 1 cú đá làm con chó bay lên trời
Như thể nó có cánh
Ðó là điều mà tôi đã nhìn thấy, và vẫn còn nhìn thấy!
Ðêm xuống thành phố mất tên
Một con chó có cánh.

CHARLES SIMIC

Eternities

A child lifted in his mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs

To the pigeons crowding around his feet in the park,
Could they be the same person?

The blind woman who may know the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block

Glide one night all lit up past her kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.

Granta: Summer 2013: Travel

Vĩnh Cửu

Đứa bé níu tay mẹ, cố ngước nhìn đám rước ngày 30 Tháng Tư 1975
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay
Vui sao nước mắt lại trào.
Và cái tay già khằn, vừa lùn vừa lé, đang ném những mẩu bánh mì cho đàn bồ câu
quanh quẩn dưới chân anh già ở 1 công viên Toronto, Canada
Phải chăng là cùng 1 người?

Người đàn bà mù có thể có câu trả lời
Nhớ lại
Đã có 1 lần nhìn thấy 1 con tầu to bằng cả 1 góc biển Đông,
Chạy suốt mảnh đất hình chữ S
Đưa bà và hai đứa con đến bến cảng Xề Gòn
Trong 1 đêm tối thui, bão tố đầy trời.

CRAZY ABOUT HER SHRIMP

We don't even take time
To come up for air.
We keep our mouths full and busy
Eating bread and cheese
And smooching in between.

No sooner have we made love
Than we are back in the kitchen.
While I chop the hot peppers,
She wiggles her ass
And stirs the shrimp on the stove.

How good the wine tastes
That has run red
Out of a laughin mouth!
Down her chin
And onto her naked tits.

"I'm getting fat," she says,
Turning this way and that way
Before the mirror.
"I'm crazy about her shrimp!"
I shout to the gods above.

Charles Simic

Khùng vì tôm của em

Hai đứa đâu có thì giờ
Để mà thở
Hai cái mồm lúc nào cũng đầy và bận
Đợp bánh mì, phó mát
Không đợp thì hôn

Mần một phát, chưa kịp thở, là đã bò xuống bếp
Trong khi tớ lăng xăng chặt ớt
Thì em lắc mông
Cời cời mấy con tôm trên lò

Ui, rượu vang mới thơm làm sao
Chảy dài một đường đỏ từ cái mồm đang cười toét
Tới cằm,
Tới luôn hai vú trần của em

“Chắc là em mập quá mất”, em nói
Ngúng nguẩy trước gương
“Tớ khùng vì tôm của em rồi”,
Gấu la lên với Ông Giời,
Ở phía bên trên đang ngó xuống.

DESCRIPTION OF A LOST THING

It never had a name,
Nor do I remember how I found it.
I carried it in my pocket
Like a lost button
Except it wasn't a button.

Horror movies,
All-night cafeterias,
Dark barrooms
And pool halls,
On rain-slicked streets.

It led a quiet, unremarkable existence
Like a shadow in a dream,
An angel on a pin,
And then it vanished.
The years passed with their row

Of nameless stations,
Till somebody told me this is it!
And fool that I was,
I got off on an empty platform
With no town in sight.

Charles Simic

Miêu tả một món đồ mất

Nó chẳng hề có tên
Mà tớ thì cũng đếch nhớ bằng cách nào tìm thấy nó
Tớ bỏ nó vô túi
Như 1 cái nút áo bị mất
Chỉ có điều nó đếch phải cái nút áo 

Phim kinh dị
Quán cà phê mở suốt đêm
Xe cút kít u tối
Phòng bi da
Mưa cắt phố 

Nó sống 1 cuộc sống thầm lặng chẳng ai để ý tới
Như cái bóng trong một giấc mộng
Một thiên thần trên cây đinh ghim
Và rồi nó biến mất
Những năm qua đi với

Những nhà ga không tên
Cho tới khi một người nào đó biểu tớ, nó đó!
Không ai khùng như tớ
Ga vắng tênh vậy mà xuống tầu
Chẳng nhìn thấy một thành phố nào trước mặt.



*

Two Dogs

by Charles Simic
for Charles and Holly

An old dog afraid of his own shadow
In some Southern town.
The story told me by a woman going blind,
One fine summer evening
As shadows were creeping
Out of the New Hampshire woods,
A long street with just a worried dog
And a couple of dusty chickens,
And all that sun beating down
In that nameless Southern town. 

It made me remember the Germans marching
Past our house in 1944.
The way everybody stood on the sidewalk
Watching them out of the corner of the eye,
The earth trembling, death going by . . .

A little white dog ran into the street
And got entangled with the soldier’s feet.
A kick made him fly as if he had wings.
That’s what I keep seeing!
Night coming down. A dog with wings.

Hai Con Chó

Một con chó già sợ cái bóng của chính nó (1)
Trong 1 thành phố Nam Kít nào đó
Chuyện này tôi nghe qua một bà sắp mù
Vào một buổi chiều tuyệt vời mùa hạ
Khi bóng tối
từ những cánh rừng Sát
Bò ra
Con phố dài Hồng Thập Tự
Với chú chó già rầu rĩ
Và cặp gà bụi bặm
Và cả mặt trời đổ xuống
Một thành phố mất tên Nam Kít

Nó làm tôi nhớ buổi 30 Tháng Tư 1975
Ðám VC Bắc Kít diễu hành qua căn nhà của tôi
Người dân đứng bên lề nhìn chúng bằng một góc con mắt
Mặt đất rung chuyển, và cái chết thì lờ vờ quanh đó..
Một con chó trắng nhỏ chạy ra đường
Làm quẩn chân đám nón cối
Và 1 cú đá làm con chó bay lên trời
Như thể nó có cánh
Ðó là điều mà tôi đã nhìn thấy, và vẫn còn nhìn thấy!
Ðêm xuống thành phố mất tên
Một con chó có cánh.

(1)

Sau cùng phải cảm ơn cô bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình. Con chó dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo không còn sợ hãi cái bóng của chính nó. Những lần từ biệt cô trên đường trở về, thành phố những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích bất thần giáng xuống. Những ngã tư đường chằng chịt những vòng kẽm gai. Có những khoảng đường phải xuống xe dẫn bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường cấm phải đi ngược trở lại. Trong bóng đêm nhợt nhạt của những ngọn đèn đường, nhìn thấy những mũi súng đen sâu thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết mọi nỗi bi thương, nếu chẳng may sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu chẳng may bị cô hất hủi, nói không, nói không thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là gì. Nhiều lần tới nhà khi đã quá khuya, trong nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên ngủ từ lâu: Hoặc hết sức muốn gặp. Muốn nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng chân di động. Tiếng lách cách mở cửa. Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập cửa ầm ầm. Bắt buộc cô hốt hoảng trở dậy, vội vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải nghe, phải nói, phải gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để phân vân, cân nhắc...

Cõi Khác
Charles Simic    

SHELLEY

for M. Follain

Poet of the dead leaves driven like ghosts.
Driven like pestilence-stricken multitudes.
I read you first
One rainy evening in New York City.

In my atrocious Slavic accent.
Saying the mellifluous verses
From a battered. much-stained volume
I had bought earlier that day
In a secondhand bookstore on Fourth Avenue
Run by an initiate of the occult masters.

The little money I had being almost spent.
I walked the streets. my nose in the book.
I sat in a dingy coffee shop
With last summer's dead flies on the table.
The owner was an ex-sailor
Who had grown a huge hump on his back
While watching the rain. the empty street.
He was glad to have me sit and read.

He'd refill my cup with a liquid dark as river Styx.
Shelley spoke of a mad. blind. dying king;
Of rulers who neither see. nor feel. nor know;
Of graves from which a glorious Phantom may
Burst to illumine our tempestuous day.

I too felt like a glorious phantom
Going to have my dinner
In a Chinese restaurant I knew so well.
It had a three-fingered waiter
Who'd bring my soup and rice each night
Without ever saying a word. 

I never saw anyone else there.
The kitchen was separated by a curtain
Of glass beads which clicked faintly
Whenever the front door opened.
The front door opened that evening
To admit a pale little girl with glasses. 

The poet spoke of the everlasting universe
Of things.... of gleams of a remoter world
Which visit the soul in sleep....
Of a desert peopled by storms alone .... 

The streets were strewn with broken umbrellas
Which looked like funereal kites
This little Chinese girl might have made.
The bars on MacDougal Street were emptying.
There had been a fistfight.
A man leaned against a lamppost, arms extended as if aucified.
The rain washing the blood off his face.

In a dimly lit side street,
Where the sidewalk shone like a ballroom mirror
At closing time-
A well-dressed man without any shoes
Asked me for money.
His eyes shone, he looked triumphant
Like a fencing master
Who had just struck a mortal blow.

How strange it all was.... The world's raffle
That dark October night....
The yellowed volume of poetry
With its Splendors and Glooms
Which I studied by the light of storefronts:
Drugstores and barbershops,
Afraid of my small windowless room
Cold as a tomb of an infant emperor.

SHELLEY

Thi sĩ của người chết rời bỏ, bị xua đuổi như những con ma
Như đám người bị dịch bịnh
Tôi đọc bà lần đầu
Một buổi chiều mưa ở New York City.

Trong giọng Slavic tàn khốc
Tôi đọc những câu thơ ngọt ngào
Trong cuốn thơ tả tơi, nhem nhuốc
Tôi mua vào lúc đầu ngày
Tại một tiệm bán sách cũ ở Đại Lộ Thứ Tư
Chủ tiệm là 1 tay mới được kết nạp để trở thành một
trong những sư phụ của 1 thứ tôn giáo thần bí

Tí tiền còm mà tôi có, kể như xong
Tôi bước trên phố, dí mũi vô cuốn thơ.
Tôi ngồi trong 1 tiệm cà phê dơ dáy
Với những con ruồi chết
của mùa hè sau cùng, trên mặt bàn.
Người chủ tiệm là 1 tay cựu thủy thủ
Lưng ông ta có 1 cái bướu tổ chảng
Lớn dần theo những giờ ngắm mưa,
ngắm con phố trống rỗng.
Ông ta mừng ơi là mừng khi thấy tôi ngồi, và đọc thơ
Và châm thêm ly cà phê với thứ nước
đen như nước kênh cầu Thị Nghè!

Shelley nói về 1 vì vua khùng, mù, hấp hối;
Những tên cai trị hết còn nhìn, cảm, biết;
Những ngôi mồ, từ đó, một Bóng Ma có thể
Đột ngột xuất hiện để chiếu sáng cái ngày dông bão của chúng ta

Tôi cũng cảm thấy mình như 1 bóng ma huy hoàng
Đi dự bữa ăn tối của mình
Tại một nhà hàng Tẫu mà tôi quá rành.
Ở đó có một người bồi chỉ ba ngón tay
Mang món xúp cho tôi mỗi đêm
Đếch bao giờ mở miệng lèm bèm dù chỉ 1 lời 

Tôi đếch thấy ai nữa ở đó
Nhà bếp thì chia cách bởi một bức rèm
Làm bằng những chuỗi hạt thuỷ tinh
Chúng leng keng nhè nhẹ khi cửa trước mở
Bữa tối hôm đó, cửa trước mở
Cho vô một cô gái nhỏ xanh xao với những cái ly.

Nhà thơ nói về một vũ trụ hằng hằng
Về những sự vật… về những tia sáng yếu ớt đến từ một thế giới xa hơn
Viếng thăm linh hồn khi ngủ…
Về một sa mạc cư dân là bão tố không thôi…

Những con phố lốm đốm những cái ô, dù bể, gãy, thủng, rách…
Trông chẳng khác gì những cánh diều đám ma
Có thể cô bé con người Tầu làm
Những quầy rượu ở con phố MacDougal vắng hoe.
Có 1 trận đấm đá, so găng.
Một người đàn ông tựa người vô cái trụ đèn, tay duỗi dài ra, như bị đóng đinh trên cây thập tự
Nước mưa rửa sạch máu trên mặt anh ta.

Trong một con phố nhỏ, ánh đèn lù tù mù
Hè đường sáng lên như tấm gương ở phòng khiêu vũ
Vào lúc đóng cửa –
Một người đàn ông, ăn mặc thật là bảnh, đếch mang giày
Hỏi xin tiền tôi
Mắt anh ta sáng rực lên, vẻ chiến thắng
Như một tổ sư kiếm,
Vừa trúng 1 đòn chí tử.

Kỳ lạ làm sao tất cả… cặn bã của thế giới
Đêm tháng Muời u tối…
Cuốn thơ màu vàng
Với những Huy hoàng và Âm u của nó
Tôi đọc dưới anh đèn đằng trước cửa tiệm: Tiệm thuốc, tiệm cắt tóc
Sợ căn phòng nhỏ, đếch cửa sổ của tôi
Lạnh như nấm mồ của một ông vua con nít.

Cặn bã, dơ dáy, cuốn thơ màu vàng...  Gấu bỗng nhớ tới nhóm Mở Miệng và đòn VC đang đánh tới tấp lên con “dê tế thần" là em NT kiều diễm [?]
Hà, hà!
"Dê tế thần", theo nghĩa của Kafka. Không phải cú NVGP, quy hồi vĩnh cửu, theo GCC.
NVGP dính tới chính trị. Cú này, cú CVD trước đó, văn chương.
Nhà văn là 1 thứ dê tế thần. Nhờ họ mà VC an tâm gây tội chẳng cần hối lỗi! 

Helen Vendler, chuyên gia về thơ, nổi tiếng, trong bài Totemic Sifting, điểm mấy cuốn của Simic [Cuốn sách của Thần và của Quỉ, The Book of Gods and Devils, Khách sạn Mất ngủ, Hotel Insomnia, và Dime-Store Alchemy], lôi bài thơ Shelley ra lèm bèm về hai chi tiết thật quái, là "cặn bã thế giới", và cái "mồ của tên hoàng đế trẻ con", GCC post ở đây:

The two books of poems under scrutiny here, while preserving Simic's coercive style, vary in content. The Book of Gods and Devils is often autobiographical, sometimes covertly (as is Simic's wont) but at other times overtly so. There is, for example, a touching glimpse of Simic's first reading of Shelley in a "dingy coffee shop" in New York: The poem alternates between urban wreckage- drunks, the homeless, broken umbrellas-and the visionary reaches of Shelley's social prophecies:

How strange it all was…. The world's raffle
That dark October night…..
The yellowed volume of poetry
With its Splendors and Glooms
Which I studied by the light of storefronts:
Drugstores and barbershops,
Afraid of my small windowless room
Cold as a tomb of an infant emperor.
("Shelley")

What distinguishes this excerpt, and makes it something more than a reminiscence of adolescent idealization juxtaposed with urban banality, is the presence of two startling phrases- "the world's raffle," and the "tomb of an infant emperor." Neither of these is at all expectable, and one halts in coming to them as before a surrealist effect. Neither is strictly speaking surreal; both can be pressed into sense. But the essential lawless nature of Simic's imagination, darting against his coercive structures, is continually escaping the very prisons he has himself built.

Hồi nhỏ, biết bố mất tích, và nghe kể, bố bị dìm sống, dưới sông, Gấu, mỗi lần tắm sông, tắm ao, là bèn lặn sâu, cố nhịn thở, để như cùng chịu cái chết vì nghẹt thở như bố.
Simic cũng có kinh nghiệm về 1 ông bố bị Gestapo bắt [được thả sau đó], nhưng cái cảm tưởng của ông, khi còn là con nít, cũng chẳng khác gì của Gấu. Ông có 1 bài thơ tả cảnh cả gia đình đợi suốt đêm coi bố có được trở về hay không.

Against Winter

Winter coming. Like the last heroic soldier
Of a defeated army, you’ll stay at your post,
Head bared to the first snow flake.
Till a neighbor comes to yell at you,
You’re crazier than the weather, Charlie.

Đông đến, anh hùng như người lính
Thất trận thủ đồn ở trạm canh
Tuyết rơi rét lạnh đầu không mũ
Hàng xóm thương tình la thất thanh
Ông đã điên rồi sao, Charlie. (1)

Tình cờ đọc trên Da Màu, bản dịch của thi sĩ Ngu Yên.
Còn đây là bản dịch của Tin Văn.
Sự khác biệt giữa hai bản dịch, một phần là còn do THNM:
Nhìn đâu cũng thấy VC, cũng đau cái đau thất trận!

Against Winter

Winter coming. Like the last heroic soldier
Of a defeated army, you'll stay at your post,
Head bared to the first snowflake.
Till a neighbor comes to yell at you,
You're crazier than the weather, Charlie.

Charles Simic: The Paris Review, Winter 1995
Note: 1995. Đây chắc là số The Paris Review đầu tiên của Gấu!
Mua vì bài phỏng vấn Steiner.

Chống Đông

Mùa Đông tới. Như tên lính anh dũng cuối cùng
Của một đạo quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng hơn cả thời tiết, Charlie. (2)