|
1.10.2013
Đà Lạt 1969
Đà Lạt
[Viết bên lề MCNK]
1
Thanh Tâm
Tuyền, ngoài Một Chủ Nhật Khác, còn
một truyện dài bỏ dở, lấy bối cảnh là Đà Lạt,
hồi đó đăng từng kỳ, hình như là trên tờ Thời Tập của Viên Linh.
Giấu Mặt.
Tuy mới được
đâu mấy kỳ báo, nhưng, một trong những nhân vật chính của nó, là một cô
bé đã
gây ấn tượng nơi người đọc.
Gấu cũng có
vài kỷ niệm về Đà Lạt. Toàn những kỷ niệm để đời!
Đúng ra phải nói, ba thành phố làm thành
"tam giác tình" của Gấu, là Hà Nội - Sài Gòn - Đà Lạt.
Gấu lên Đà Lạt
lần đầu, thăm ông bạn Huỳnh Phan Anh đang học sư phạm triết. Gấu tốt
nghiệp trường
Bưu Điện, đang chờ đi làm. Đám công chức làm từ thời Tây gọi là chờ
"nominer" [gọi tên đi làm].
Đi cùng ông
anh BHD, cũng bạn HPA.
Đó là vào một
dịp Giáng Sinh. Cả bọn uống rượu, say bí tỉ, ngất nga nngất ngư lên
xuống những
con dốc, la hét, văng tục, y hệt mấy tay lính lê dương, Hà Nội, và
những ngày
trước 1954.
Nhưng sau, Gấu
hiểu. Tại lạnh. Nhờ đọc Faulkner và chợt
bật ra nỗi nhớ lạnh.
Con người là
tổng số những kinh nghiệm về thời tiết. Ông viết.
Nhưng, liệu
nó còn là dấu báo, tiên đoán tâm trạng 'lê dương', lưu vong, làm thuê
đánh muớn,
ăn nhờ ở đậu, mãi sau này, khi đã đi ra nước ngoài?
Lần đi Đà Lạt ngay sau khi lấy vợ. Một
mình. Lên ở
nhà anh bạn trưởng đài vô tuyến điện Đà Lạt. Đi chơi với bạn của thằng
em đã tử
trận, lúc đó là sĩ quan dù đóng tại Đà Lạt. Thằng em này quen ca sĩ,
lúc đó tuy
chưa nổi tiếng như sau này, nhưng cũng đã nổi tiếng lắm rồi, ở thành
phố Đà Lạt.
Đó là Mai, còn gọi là Mai Đen. Sau này, hình như thời gian phòng trà bị
cháy,
cô bỏ Đà Lạt, về Sài Gòn, đi hát du ca, và trở thành Khánh Ly.
Gấu có ghé
nhà cô Mai, uống rượu. Nhà đẹp lắm, ở trên một ngọn đồi.
*
Lần đi Đà Lạt
ngay sau khi lấy vợ. Một mình.
Gấu Cái, khi
về già, nhớ lại, kể, lần đó, ngay sau đám cưới, mi bỏ đi Đà Lạt, ta về
Cai Lậy,
chỉ muốn tự tử, nhưng nghĩ đến cái thai trong bụng, không đành, lại cố
sống…
Harper's April 2013
Vô đề
Tất cả những gì tớ muốn
Là nhậu với bà xã của tớ
Một ly rượu đỏ không bao
giờ cạn
Cả hai trên sàn nhà
Những tên cà chớn sẽ nghĩ
thế nào?
Khi nhìn hai đứa tớ?
Đời của hai đứa mi mới thê
thảm làm sao
Chán chường và lầm lạc
Khi bà xã tớ phải đi ra phố
Và tớ ở nhà
Tớ chỉ muốn khóc
Trăng kia, trên tàng cây
Sao ánh trăng chua xót đến như thế
Chẳng có cuốn sách nào
Hôn tớ được như bà xã tớ hôn tớ.
Bài này mà tặng "Ngày Của
Vợ", giống như “Ngày Của Mẹ", nhỉ?
*
Trong bài thơ Vô Đề,
Theo K cái câu có chữ "squares" có nghĩa là :
"Kệ cha mấy tên cà chớn chê cười tụi mình . Đời tụi nó trông mà chán
chết ."
Hà hà
Tks a lot.
Take care, both of U
En
attendant
Nobel 2013
Trong khi chờ Nobel 2013
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
Woolf vs
Duras
abt Death
Note: Woolf,
GCC cực mê. Còn Duras, chỉ mê “Đập ngăn TBD”.
Tuy nhiên Duras Sadec làm nhớ tới
Cô Tư Camau.
Và "bấn loạn [vấn nạn]", liệu hai nữ văn sĩ này đều là đặc sản Nam Bộ,
hoặc, có gì mắc mớ?
Một
bà là
sex và chế độ thực dân thuộc địa.
Một bà là “Cánh
đồng bất tận”, bướm nhiều hơn muỗi rừng U Minh!
Đây là 1
khiá cạnh khác nữa, của "vấn nạn" “Oẳn Tà Roằn": Sắc dân và Sex,
vào cái thời còn mẫu quốc.
Cả hai cuốn
trên được tờ Obs coi là tuyệt tác thế giới
Sách mới về
điệp viên bậc thầy
Hai cuốn về
PXA, The Spy Who Loved Us, và
cuốn The Perfect Spy, mỗi
cuốn có một ‘ẩn
dụ’ của
riêng nó, chỉ ở nội cái tên, chưa nói đến nội dung tác phẩm.
The Spy Who Loved Us phỏng theo một
cái tít của một trong những phim
James
Bond, và đây là câu chuyện về anh chàng 007 làm thịt một điệp viên KGB,
và em
KGB, người tình của tay bị giết, thề sẽ giết 007 để trả thù, sau cùng
lại mê
007.
Us ở đây, vừa là Mẽo, vừa là
đô la Mẽo, bởi vì PXA đã từng viết thư xin
tiền
cựu đồng nghiệp, tức đám ký giả Mẽo ngày xưa, để lo cho con trai đi du
học Mẽo.
Còn cuốn kia, The Perfect
Spy, sử dụng đúng cái tít của một
cuốn tiểu thuyết của Le Carré, và cuốn này cũng có vấn đề, anh chàng
điệp viên
tuyệt hảo, bậc thầy này rất thù ông bố, người đã đẩy anh vào cái nghề
khốn nạn,
ông bố ở đây cũng là một bố kép, chỉ nước Anh, và chỉ ông bố ruột của
Le Carré,
một tay lường đảo bậc thầy.
Riêng cuốn The Spy Who Loved Us, khi còn là
một bài báo, đăng trên The
New
Yorker, vì Gấu thường xuyên đọc tờ này, nên thấy nó trước tiên,
và lôi
về đăng
trên Tin Văn, tính vừa dịch, vừa kèm vài chi tiết, kỷ niệm về PXA mà
Gấu biết
qua cái tên Cao Bồi, nhưng vì là tin sốt rẻo, báo chí đua nhau dịch,
thế là Gấu
chán, bỏ ngang.
Tuy nhiên, khi bài đăng trên
The New Yorker, số báo liền sau đó, có
phản ứng từ
bạn cũ của PXA, và độc giả tờ báo. Gấu có scan sau đây.
Bạn cũ và độc giả trách đám
ký giả Mẽo đã góp tiền gửi cho PXA, nhưng
Gấu nghĩ
khác!
Đó là cách tạ tội bảnh nhất,
một điệp viên bậc thầy mới nghĩ ra được!
Đừng nghĩ đến chuyện tiền
bạc ở đây, dù mấy chục ngàn đô.
PXA lừa bè bạn, tháng tháng
lãnh tiền Time, tối tối lén
coi tài liệu
mật chuyển
cho VC, báo trước những chiến dịch di chuyển lính Mẽo, để VC làm thịt
họ.
Vậy mà khi công thành danh
toại, PXA lại nhục nhã viết thư xin tiền bạn
cũ, bởi
vì ông nghĩ, chỉ còn mỗi cách đó, hạ nhục mình để tạ lỗi ngày nào.
Đám bạn hiểu ra, nên mới gom
tiền cho PXA.
Gấu nghĩ
ra điều trên là do đọc Le Carré.
Trong Gọi
Người Đã Chết, bà vợ của Smiley bỏ chồng theo trai,
và khi
trai bỏ, viết thư năn nỉ chồng cho mình trở về lại.
Smiley lắc đầu
chịu thua.
PXA chính là
cái bà vợ bỏ chồng theo trai, [làm cho Mẽo, lãnh lương
Mẽo, lừa
Mẽo, đưa tin cho VC làm thịt Mẽo], và cái đám bạn cũ của PXA, là
Smiley, gật
đầu tha thứ cho PXA.
Thư
độc giả, bạn cũ của PXA, The New
Yorker
1 2
3
THE SAIGON
SPY
Thomas A.
Bass's profile of Pham Xuan An, the Time journalist who also spied for
North
Vietnam, includes an interview with Frank McCulloc, An’s boss at Time's Saigon bureau ("The Spy Who Loved
Us," May 23rd). Bass writes, "McCulloch remembers An with tremendous
fondness and respect, and he says it was a 'great pleasure,' in 1990,
to
organize a subscription fund, which raised thirty-two thousand dollars,
to send
An's eldest son .... to journalism school at the University of North
Carolina,
The list of subscribers to the fund reads like a Who's Who of Vietnam
War
reporters." It's easy to imagine the reaction this provokes among those
of
us who served in Vietnam and lost comrades there, friends whose
families often faced
serious financial difficulties after their deaths. Anyone who wonders
why active-duty
military personnel and veterans distrust the mainstream media need only
read
those two sentences.
David Clayton Carrad
Augusta, Ga.
I was a
correspondent for Time in Vietnam, and I knew Pham Xuan An for nearly
ten
years. While spying for the North Vietnamese, An transformed 'Time's
correspondents into an inadvertent worldwide network of spies for
Hanoi. Time
had high-level sources who often provided classified information on the
condition that it would be kept secret and used only as background, The
content
of these confidential briefings was circulated internally in the weekly
"Time memo," which was considered so sensitive that copies were
numbered
and returned after a reading by the editors. The memo contained much
useless
gossip, but also solid-gold insider reports from the White House, the
State
Department, and the Pentagon. The memo was also circulated to Time
bureaus
around the world, which were supposed to take equal precautions, An, as
a Time
reporter, had access to it. I often saw him taking notes from the
Saigon bureau
chief's confidential reports. These would have included briefings by
Generals
William Westmoreland and Creighton Abrams and Ambassadors Henry Cabot
Lodge and
Ellsworth Bunker, which often covered operations and strategy scheduled
for weeks
in the future. Then An would suddenly disappear without a word,
presumably to
brief his comrades in the tunnels of Cu Chi. I have always questioned
the
American journalists who insist on romanticizing An. It is one thing to
have
been against the Vietnam War-many of us were-but quite another to
express
unconditional admiration for a man who spent a large part of his life
pretending to be a journalist while helping to kill Americans.
Zalin Grant
Paris, France
“The New
Yorker”
Ghi
chú
trong ngày
War in peace
James
Campbell
Dân Xề Gòn
ngày nào rành cuốn này lắm, qua cuốn phim thần sầu, với cái tên thần
sầu, Khi vưỡn
còn đực rựa trên thế gian này:
Tant qu'il y aura des hommes
GCC coi phim
này, đúng lúc mới lớn, với cuộc chiến ở trước mặt, và không làm sao
quên được
tiếng kèn khóc bạn ở trong phim.
Cuốn tiểu thuyết, ngay khi
được in ra, là đã bị
cắt bỏ rất nhiều. Và theo như tay điểm sách trên TLS, thì nhờ cắt bỏ
nên mới
hay! Chúng ta gặp trường hợp của Raymond Carver ở đây, và câu hỏi,
không có tay
biên tập, liệu Carver trở thành nhà văn thần sầu của thứ truyện cực
ngắn?
Normail
Mailer phán về James Jones, và những người cùng thời với ông, “tài năng
ở trong
phòng” hiện thời:
In
"Evaluations", an infamous essay written in 1959, Norman Mailer
dispatched the current "talent in the room" in a sequence of
pugnacious deliveries: Saul Bellow "knows words but writes in a style I
find self-willed .... I cannot take him seriously"; Truman Capote
"has given no evidence that he is serious about the deep resources of
the
novel"; J. D. Salinger was "the greatest mind ever to stay in prep
school" [nhà văn lớn lao nhất của… prep
school]; James Baldwin was "too charming
a writer to be major ... the best of his paragraphs are sprayed with
perfume". Gore Vidal, William Styron and a dozen other contenders were
left seeing stars. The essay, published in Advertisements
for Myself, is remembered for its belligerence - though many of
Mailer's
verdicts endure - but it extended the occasional embrace as well, none
more
bearish than in its opening sentence: "The only one of my
contemporaries
who I felt had more talent than myself was James Jones". Jones was,
moreover, "the one writer of my time for whom I felt any love". From Here to Eternity, the first of
Jones's (by then) three novels was not only the best book about the
experience
of being a soldier in the Second World War, but seemed to Mailer to be
"the best American novel since the war ... it has the force of few
novels
one could name". America had farmed a home-grown War and Peace, it
seemed.
Jones himself was not above marking his achievement at a high value,
even
before the novel appeared in print.
"I, personally,
believe it will stack up with Stendhal's Waterloo or Tolstoy's
Austerlitz", he advised his editor at Scribner's, Burroughs Mitchell,
on
submitting the final chapter - a "tour de force" - in 1949.
"That was what I was aiming at, and wanted to do, and I think it does
it." At the very least - not that the debutant would be satisfied with
that - From Here to Eternity was a
satisfactory response by a member of the younger generation to the
writers who
had seen action in the First World War, Hemingway foremost among them
in
readers' minds. "We must remember people will be reading this book a
couple hundred years after I'm dead."
Bảnh hơn cả
Nguyễn Du, tác giả chắc nịch, vài trăm năm sau, sau khi tớ chết rồi,
thiên hạ
vưỡn tìm đọc “Từ Đây Tới Vĩnh Cửu”, và nó được đặt kế bên Stendhal's
Waterloo,
hay Tolstoy's Austerlitz".
The fiction
of John le Carré
ON JANUARY
23RD 1963 Kim Philby, a British spy (and one-time contributor to The
Economist)
disappeared following his defection to the Soviet Union. Nine months
later “The
Spy Who Came in from the Cold” was published. It was the third novel
from John
le Carré, the pseudonym for David John Moore Cornwell, an unknown
30-year-old
writer who was working as an intelligence officer in Bonn. It was
fiction, but
the book seemed to reflect the larger reality of the cold war. It also
changed
the face of the thriller genre forever.
Prospero
Ngày 23
Tháng Giêng, 1963, Kim Philby, gián điệp
Anh (cộng tác viên một thời cho Người
Kinh Tế) chuồn qua Xô Viết. Chín tháng sau, “Điệp Viên Từ Miền
Lạnh"
ra lò.
Giả tưởng, tất nhiên, nhưng hình như nó còn thực hơn cả sự thực, phản
chiếu một thực tại rộng lớn hơn, cái gọi là Cuộc Chiến Lạnh.
Bảnh hơn nữa,
nó xuất hiện, và sau đó, tiểu thuyết điệp viên thay đổi hẳn,
không
còn như trước nữa.
John le
Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh, sinh năm 1931, làm Bộ
Ngoại
giao (công tác gián điệp), do vậy, không được dùng tên thực. Cuốn The
Spy Who
Came in From The Cold là cuốn đưa ông lên đài danh vọng. Đã được quay
thành
phim, với tài tử Richard Burton. Đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng thú
vị nhất,
đã được nhà văn chuyên viết truyện trinh thám nổi tiếng, Người Thứ Tám,
phóng
tác, với nhân vật "thần sầu quỉ khốc" Tống Văn Bình, bí số Z.28. Nội
ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu Lâm vào hàng thượng thừa, Văn
Bình được
Ông Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam phái ra Bắc (Hà Nội), để cứu một
điệp
viên Miền Nam nằm vùng, một cán bộ cao cấp CS. Anh được cung cấp đầy đủ
tài liệu:
nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt cách mạng" ở một ngân hàng Thụy
Sĩ; ngày giờ, địa điểm những lần nhận tiền…
Trong
nguyên tác của Le Carré, câu chuyện xẩy
ra tại nước Đức, bên này và bên kia Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc
ăn, ông
đã để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản gián cho về vườn, sau
khi thất
bại trong một điệp vụ, thân tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô gái
thương
tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và sau đó được móc nối với "cách
mạng"
(Đông Đức).
Mọi
việc diễn tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn,
Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức bắt cóc cô gái, người yêu
của anh
chàng điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.
Bí
mật bật mí: tất cả những tài liệu tố cáo đều
là dởm. Người mà anh điệp viên tin là phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ
địch này là
một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa Cộng
Sản sẽ đưa
thiên hạ tới "thái bường"! Còn
cái người mà anh điệp viên "tởm"
nhất, và tin rằng là kẻ địch, lại chính là phe ta!
1
Checkpoint
The American
handed Leamas another cup of coffee and said, "Why don't you go back
and sleep?
We can ring you if he shows up."
Leamas said nothing, just stared through
the window of the checkpoint, along the empty street.
"You can't wait
forever, sir. Maybe he'll come some other time. We can have the Polizei contact
the Agency: you can be back here in twenty minutes."
"No," said
Leamas, "it's nearly dark now."
"But
you can't wait forever; he's nine hours over schedule.
"
"If you
want to go, go. You've been very good," Leamas
added. "I'll tell Kramer you've been damn good."
"But
how long will you wait?"
"Until
he comes." Leamas walked to the observation window and stood between
the
two motionless policemen. Their binoculars were trained on the Eastern
checkpoint.
"He's
waiting for the dark," Leamas muttered, "I know he
is."
"This morning you said he'd come across with the workmen."
Leamas
turned on him.
"Agents
aren't airplanes. They don't have schedules. He's blown,
he's on the run, he's frightened. Mundt's....
[Trang đầu
cuốn The Spy]
Giới tuyến
Anh chàng
người Mỹ đưa cho Leamas một tách cà phê và nói:
- Sao ông
không về ngủ đi? Chúng tôi có thể điện thoại cho ông biết nếu thấy hắn
xuất hiện.
Leamas không
nói gì cả, chỉ nhìn chăm chăm qua khung cửa sổ của trạm gác, dọc theo
con đường
vắng tanh.
- Ông không
thể đợi mãi. Có thể hắn sẽ tới vào một lúc khác. Chúng tôi có thể cho
Poliezei
liên lạc với cơ quan và ông có thể trở lại đây trong vòng hai mươi phút.
Leamas trả lời
- Không, gần
tối rồi
- Nhưng ông
không thể đợi mãi, hắn đã trễ hẹn chín tiếng đồng hồ rồi.
- Nếu anh muố
đi, thì cứ đi. Anh đã làm việc chu tất.
Leamas nói
thêm :
- Tôi sẽ cho
Kramer biết là anh đã tỏ ra rất giỏi
- Nhưng ông
sẽ đợi bao lâu?
- Đến khi hắn
tới.
Leamas bước
đến cửa sổ và đứng giữa hai viên cảnh sát bất động. Ống nhòm của họ
đang hướng
về phía nút chặn phía Đông
Leamas khẽ bảo
:
- Anh ta
đang đợi trời tối. Tôi biết thế.
- Sáng nay
ông nói với anh ta sẽ tới với bọn thợ.
Leamas quay
lại:
- Điệp viên
không phải là máy bay. Họ không có thời biểu. Anh ta bị lộ, đang chạy
trốn, đang
sợ hãi. Mundt đang bám theo anh ta, ngay lúc này. Anh ta chỉ có một cơ
hội. Hãy
để anh ta chọn lựa giờ giấc. (a)
Đoạn trên Bồ Giang dịch,
post trên VN thư quán. “Checkpoint” ở đây là “Charlie
Checkpoint”, giữa Đông Bá Linh và Tây Bá Linh, nổi tiếng 1 thời. NQT
GCC đọc The
Spy, lần đầu, bản tiếng Tây, nhà sách Xuân Thu, đường Tự Do ngày
nào, kế bên Quán Chùa. Bản nrf,
bìa trắng. Cầm lên, đọc 1 phát, là bèn từ từ đến quầy, thò tay ra
phía sau, móc bóp.
Lúc đó cày hai jobs, UPI & Bưu Điện, chưa dính Cô Ba, tiền chỉ để
bao cà phê bạn
quí, và
mua sách, nếu không cháy túi trong 1 trận xì, tại ngay chính nhà mình!
*
"Nous ne lui demandons pas de devenir un
traître. Nous lui proposons une nouvelle définition du mot loyauté."
Chúng ta đâu có đòi hắn ta phải trở thành một tên phản bội. Chúng ta
chỉ đề nghị với hắn ta một định nghĩa mới về lòng trung thành.
Le Carré,
le grand réveil
Un homme très
recherché
JOHN LE CARRÉ
Với
cuốn mới nhất này, Kẻ bị truy
nã tới chỉ, Le Carré trở lại mảnh đất của những
tác phẩm đầu tay của ông, nhưng đây là một sự tỉnh thức lớn, như Le Magazine Littéraire nhận xét.
Gấu này
thú thực, cũng chỉ mê những tác phẩm thời kỳ đầu của ông, và nếu phải
chọn, thì nhất, vẫn là cuốn Điện
thoại dành cho người chết, Call for the Dead, và
tiếp theo là Gián điệp về từ miền lạnh, The
Spy who
came in
from the
cold,
bộ ba, trilogy, về Smiley…
Trong
cuốn Điện thoại dành cho người
chết có hai xen thật là tuyệt vời. Xen Smiley ghé tiệm
giặt ủi lấy quần áo mang về nhà, và khi đứng trước cửa nhà mình, linh
tính xui bảo, thay vì mở, ông giơ tay gõ cửa, và khi kẻ sát nhân đang
chờ ông ở trong nhà ra mở cửa, ông nói, ông là người đi trao quần áo
giặt ủi.
Xen thứ hai, là khi Smiley đánh lừa được trùm gián điệp Đông Đức gặp nữ
gián điệp nhân viên, tại một rạp hát, và khi nhân viên của Smiley xin
lệnh bắt, ông lắc đầu...
Cuốn Call for the
Dead, Gấu đã dịch được một, hai chương, rồi bỏ ngang,
tiếc quá!
Call For The
Dead đọc như thơ, thế mới sướng!
Sau này, có thể do viết nhiều, cái chất thơ của văn Le Carré ngày càng
bớt dần.
*
Ngược lại, hắn buồn rầu chứng kiến khoái lạc tự nhiên cứ chết dần trong
hắn. Bản chất luôn khép kín, hắn thấy mình lúc này co rúm lại trước
những cám dỗ của tình bạn và lòng chung thủy của con người; hắn cảnh
giác hết mức, chính hắn, trước những phản ứng bộc phát. Bằng sức mạnh
lý trí, hắn ép mình quan sát nhân gian với sự khách quan lâm sàng, và,
bởi vì hắn không bất tử, và chắc không khỏi lỗi lầm, hắn thù ghét và
ghê sợ sự giả trá của đời mình.
Nhưng Smiley là con người tình cảm, và nỗi xa xứ ngày càng làm mạnh
thêm tình yêu sâu thẳm của hắn với nước Anh. Hắn ngấu nghiến những hồi
ký về Oxford, vẻ
đẹp, sự phóng khoáng trí tuệ, tính chậm chạp chín mùi trong những phán
đoán của nó. Hắn mơ về những ngày nghỉ lộng gió mùa thu ở bến Hartland,
những chuyến tản bộ dài trên những vách đá ở Cornall, mặt trơn láng,
nóng bỏng trước gió biển. Đây là một cuộc sống thầm kín khác của hắn,
và hắn càng ngày càng thù ghét sự xâm nhập tục tằn của nước Đức mới,
những bước dậm chân và la hét của đám sinh viên đồng phục, những khuôn
mặt sẹo, kiêu căng và những câu trả lời hạ cấp của họ. Hắn cũng căm tức
cái lối Phân khoa xía vô môn dạy của hắn - nền văn học Đức yêu dấu của
hắn. Và rồi một đêm, cái đêm khủng khiếp của mùa đông l937 khi Smiley
đứng ở cửa sổ phòng mình ngắm một đám lửa trại lớn nơi sân trường Đại
học: Vây quanh ngọn lửa, hàng trăm sinh viên mặt hồ hởi bóng nhẫy dưới
ánh lửa bập bùng. Và họ ném hàng trăm cuốn sách của họ vào ngọn lửa
ngoại đạo. Hắn biết tác giả của những cuốn sách: Thomas Mann, Heine,
Lessing, và hàng loạt những người khác, và Smiley bàn tay ẩm ướt khum
khum quanh đầu điếu thuốc, ngắm nhìn và thù hận, hả hê trong nỗi chiến
thắng vì đã nhận diện ra kẻ thù của mình.
l939, hắn có mặt ở Thuỵ Điển, nhân viên
được bảo chứng của một hãng chế tạo vũ khí nhẹ nổi tiếng của Thụy Sĩ;
mối làm ăn được ghi lùi lại ngày cho thuận tiện. Cũng để cho thuận
tiện, tướng mạo của hắn đã phần nào biến cải, bởi vì Smiley khám phá ra
hắn có tài nhập vai hơn hẳn cái trò thô thiển về thay đổi mái tóc hoặc
thêm hàng ria mép nho nhỏ. Trong bốn năm hắn đóng vai đi đi lại lại
giữa Thụy Sĩ, Thụy Điển và Đức, hắn không ngờ mình bị hoảng sợ lâu đến
như thế. Hắn mắc cơn kích giật nơi mắt trái, mười lăm năm sau vẫn còn,
sự căng thẳng vạch những đường hằn trên đôi má phính, trên trán. Hắn
học được, làm sao để có thể không bao giờ ngủ, không bao giờ xả hơi,
làm sao cảm thấy nhịp đập hoài hoài của trái tim của chính mình bất kể
ngày và đêm, làm sao với tới những cực điểm của nỗi cô đơn và sự thương
thân, làm sao nhận ra niềm dục vọng bất thần không đắn đo về một người
đàn bà, một ly rượu, một vận động, và thuốc, bất kể thứ thuốc gì bứng
đi sự căng thẳng của đời mình.
Call for the Dead
John Le Carré là bút hiệu
của David Cornwell, người Anh. Sinh năm 1931. Học Đại học Berne, Oxford. Dạy học tại Eton. Sau làm Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông không được
phép dùng tên thật khi viết. Bút hiệu Le Carré, tiếng Pháp có nghĩa là
hình vuông, do ông tình cờ nhìn thấy trên kính một cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã mô tả ông:
Người viết truyện gián điệp số một của thời đại ông ta hiện đang sống.
Và có lẽ của mọi thời.
Gọi Người Đã Chết,
tác phẩm đầu tay trong đó gói ghém tất cả ước vọng của tác giả, muốn sử
dụng thể loại gián điệp, một hình thức phổ cập, đại chúng, dể giải
quyết những vấn đề lớn lao, như văn chương, chính trị, thời đại... Ông
còn muốn tìm lại cội rễ của nó, vốn bắt nguồn từ bi hùng kịch Hy Lạp. —
Màn Cuối (The Last Act) trong Gọi Người Đã Chết, độc giả, và có
thể, chính tác giả cũng không tiên đoán được kẻ thù sẽ phản ứng như thế
nào: Chúng sẽ làm một điều gì đó. Chắc chắn như vậy. Chúng ta còn có cơ
hội...
Đối những độc giả quá quen thuộc với Smiley, nhân vật chính của Le
Carré qua những tác phẩm The
Spy who
came in
from the
cold, The Smiley People... cơ hội đó là sự sụp đổ của chủ
nghĩa Cộng sản, chấm dứt Chiến Tranh Lạnh. (1)
Gọi Người
Đã Chết
Gọi
người đã chết
Đánh máy: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Nguồn: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Được bạn: Ct. Ly đưa lên
vào ngày: 4 tháng 9 năm 2006
Note: "Cái này", của
Gấu mà!
Đâu phải của Mõ Hà Nội?
Mới có hai chương, Gấu tính dịch tiếp nhưng bận quá!
Mấy đấng hảo hán giang hồ bên Việt Nam Thư Quán ẩu quá!
NQT
Gọi Người Đã Chết
Trên VN thư quán còn
thấy cuốn The
spy who came in from the cold, cũng của Le Carré.
Gấu
mê cuốn này lắm, mỗi lần đọc nó, là nhớ đến cảnh, lần đầu gặp nó, bản
tiếng Tây, ở nhà sách Xuân Thu, cầm lên một cái là thấy cái lạnh của
Đất Bắc ùa tới.
Khủng
khiếp thật.
Tác
giả Z. 28, biết đâu đấy, cũng cảm thấy lạnh như Gấu, bèn phóng tác, và
cho Tống Văn Bình, thay vì vượt Bức Tường Bá Linh qua Đông Đức, thì
vượt Bến Hải, về Hà Nội....
Love and
squalor
Kẻ Xa Lạ
IT DISGUSTED
him, really, how people loved "The Catcher in the Rye". It was not that
Jerome David Salinger did not crave literary recognition. Growing up on
Park Avenue
in Manhattan, he was 15 when he first longed to be published in the New
Yorker.
Over beers in his 20S, when he was churning out little yams for
middlebrow "slicks"
such as the Saturday Evening Post, he would brag that he was better
than all the
greats, from Dreiser to Hemingway (though he allowed that Melville was
pretty good).
Tall, suave and handsome - "like a candlestick, a Giacometti statue,"
recalled one admirer-he swarmed about, declaring that he would one day
write
the great American novel. The problem was what happened when he did.
Salinger
spent ten years writing "The Catcher in the Rye" and "the rest
of his life regretting it," observe David Shields and Shane Salerno in
a
new biography and related documentary. Since it was first published in
1951,
the book has sold more than 65m copies. With Holden Caulfield, its
vulnerable,
jaded, teenage anti-hero, Salinger touched countless readers who were
startled
to discover an author who knew just how they felt. Like pilgrims, many
sought him
out, craving time, answers, friendship and approval. They stalked his
remote
cabin in Cornish, New Hampshire, where he struggled to lead a private
life
until he died in 2010, aged 91. "I'm a fiction writer!" he once
complained to a needy fan. "If I'd have known this was going to happen,
I don't
think I would have started writing."
But he loved
to write. As a child he scribbled by flashlight under the covers at
boarding
school. As an adult he referred to his creations-not just Holden but
also the sad
and precocious Glass family children, Franny, Zooey, Seymour and
Buddy-as if they
were real people. He seemed to prefer them to his own, according to his
daughter Margaret (who aired her grievances in a bruised memoir). And
they kept
him company long after he published his last story in the New Yorker in
1965.
Apparently Salinger kept writing nearly every day until he died. To the
delight
of his fans, Messrs Shields and Salerno reveal that in 2015 the
author's estate
will begin releasing the manuscripts he left behind.
Arranged
like an oral history (awkwardly without an index), "Salinger" draws
on some previously inaccessible letters and interviews with more than
200 people.
Those seeking serious scholarship will be disappointed. This is an
inelegant, prurient
and often fascinating smorgasbord of insight and anecdotes from
historians,
friends and random talking heads.
From the
"Rashomon"-like chorus of voices, readers learn that Salinger could
be seductively charming and ruthlessly petty. He punished editors over
commas
and reprimanded dates for using clichés. He also apparently had a
penchant for
wooing "girls at the edge of their bloom". He troublingly befriended
and sometimes seduced teenage women decades his junior, only to
unceremoniously
abandon them on a dime. The authors un convincingly ascribe this
pattern to
Salinger's unconsummated first love, arguing that he was moved to
revisit the
terrain of that lost romance again and again.
Salinger clearly pined for
innocence. The intelligent adolescents of his stories of- ten struggled
to find
meaning in a world filled with "phoneys"-a struggle that mirrored his
own. Spiritually hungry, he sought fulfillment in Vedanta Hinduism, and
often
neglected his own family (he would ultimately marry three times and
have two
children).
Messrs Shields and Salerno argue that Salinger's
fiction and retreat
from society were largely informed by his traumatic experiences during
the
second world war. As a staff sergeant he fought in some of Europe's
bloodiest
campaigns, and pounded away at his novel in foxholes. He helped
liberate a
German concentration camp in 1945, which left a mark ("You never really
get
the smell of burning flesh out of your nose entirely," he once told his
daughter). During the
war he also met and admired Ernest Hemingway, who praised Salinger's
ability to
"write tenderly and lovingly without getting wet."
Full of color
and intrigue, "Salinger" can be gripping. It is also exactly the kind
of messy, unsubtle, intrusive and speculative work the man himself
understandably
shunned. +
Đi tìm phê
bình gia Mít
Câu phán của
ông tiên chỉ VP, Mít đếch có phê bình gia, xem ra ngày càng gây ấn
tượng, và tỏ
ra sức mạnh “tiên tri” của nó, ở trong giới phê bình hải ngoại.
Trong nước
khỏi nói.
Thầy Kuốc
ngày càng tỏ ra 1 thứ dởm, và hình như Người cũng đã nhận ra sự thực
cay đắng
này, và hết còn khoe những tác giả ông chưa hề đọc, nhưng có nghe tên,
như
Roland Barthes, như Bloom, thí dụ.
Thầy Phúc thì có đọc, khi ngồi ghế nhà trường
tụi mũi lõ, hẳn thế, nhưng không làm sao quên được họ.
Nói rõ hơn, bài viết nào
của ông thì cũng giống như 1 bài luận, để nộp cho Thầy!
Cả 1 cuốn
phê bình dầy cộm của Thầy, GCC không đọc được 1 phát hiện mới mẻ nào,
về bất cứ
1 tác giả được Thầy xoa đầu cả!
Một tay đọc
sách, rất cẩn trọng, và trân trọng, với nghề đọc sách, có, và theo GCC,
là DNV.
Nhưng chưa làm
sao tới được 1 phê bình gia.
Khó, cực khó, để trở thành phê bình gia.
Đó là sự
thực.
Steiner coi
phê bình gia là 1 tên hoạn. Không làm sao sáng tạo được, nên đành
làm phê
bình gia. Ông mở ra, “cả 1 cuốn” thần sầu của ông, Ngôn Ngữ và Câm
Lặng, bằng hình ảnh nhà phê bình, nhìn ngoái lại, và thấy cái
bóng
“không chim”
[nhìn cái
bóng không thôi, mà biết ngay là thằng bị thiến, thế mới ghê!] của
chính
mình:
Khi ngoái lại,
nhà phê bình thấy cái bóng viên quan hoạn ở sau lưng.
Ai chịu làm phê
bình gia,
nếu có thể làm nhà văn? (1)
Note: GCC viết
bài này, theo yêu cầu của quí vị độc giả TV.
Bởi là vì, 2, trong 474 "different key
phrases", theo server, là, "điểm sách là gì", "phê bình là gì"….
Ui chao, giả
như GCC mất súng trong vụ Mỹ Cảnh, thì nhà phê binh số 1 Mít, ngoài ai
ra, nếu
không là… GCC?
[Mi hiền đi
một chút, để mà chết!]
Hà, hà!
Cả 1 cuốn
sách dày gần ngàn trang, GCC không đọc nổi 1 dòng!
Lý do là, nhà phê bình chỉ
thích khen - gần như chẳng chê 1 ai - mọi nhà văn nhà thơ được ông xoa
đầu.
Cách viết thì theo kiểu trường lớp, theo kiểu trả bài. Tệ hại hơn nữa,
quàng 1
ông mũi lõ với 1 ông mũi tẹt, thí dụ, để ông Vũ Khắc Khoan với 1 ông
Beckett đứng
bên nhau, tội cho cả hai ông.
Do chỉ khen, nên không tiên đoán ra hậu vận của 1
số nhà văn.
Thí dụ NMG, người được BVP coi là lương tâm của nhà văn Mít
lưu
vong, thì bò về, xin nhà nước kiểm duyệt sách, và coi mình là nhà văn
“di dân”,
đếch lưu vong cái con mẹ gì hết!
NMT, người
phỏng vấn, ở cuối cuốn sách, nhận xét về BVP:
Tôi nghĩ anh
là 1 con người hạnh phúc…
Có lẽ cái hỏng
của cả cuốn sách, là như thế!
Đúng như GCC phán về nhà thơ NS, nhà văn hạnh phúc.
Hạnh phúc thì viết
làm cái chó gì!
Kafka
viết cho bạn là Oskar
Pollak, vào năm 1904: "Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách
ngoạm,
hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta đọc không lay động chúng
ta tỉnh hẳn
người, giống như bị ai đó giáng một cú vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc
nó? Sách
làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao
nếu chẳng
sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự
viết lấy.
Sách mà chúng ta cần, chúng đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất
hạnh đau
đớn nhất, như cái chết của một người thật thân thiết mà chúng ta yêu
hơn cả yêu
chúng ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng
rậm, hẻo
lánh, xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái
rìu phá
cái biển đóng băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto
Manguel trích dẫn, trong cuốn A History of Reading, nhà xb
Alfred A. Knopf Canada, 1996)
September
27, 2013
Claude
Lanzmann’s “The Last of the Unjust”
Posted by
Richard Brody
There are
some terrific films on view in this year’s New York Film Festival,
which starts
tonight. Of those I’ve seen so far, one is historic: Claude Lanzmann’s
“The
Last of the Unjust” (screening this Sunday). It’s not just because of
the
subject, as there are plenty of banal, insignificant documentaries
about
aspects of the Holocaust. Lanzmann is a director whose art and
aesthetic
imagination have marked the age no less than his historical
investigations.
Note: Cái
tít nhại tên 1 cuốn tiểu thuyết, “Người Công Chính Cuối Cùng, Le
Dernier Des
Justes”, TV đã giới thiệu. Một phim về Lò Thiêu phải mất 40 năm mới
hoàn thành.
THE
MAN WITH
THE GOLDEN CANON
Tiểu
thuyết
LIFE DURING
WARTIME
“Vẫn là nó. Nhưng không phải là
nó!”
Câu trên là của ông Tổng Giám
Đốc Bưu Điện - và còn là một trong những ông Thầy
dạy Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện - phán về sếp trực tiếp của
GCC, sau
khi ông ra khỏi bịnh viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu súng, trong vụ mìn Mỹ Cảnh, GCC đã lèm bèm nhiều lần
rồi.
Sở dĩ
nhắc lại,
là vì trong cái “memoir” viết về cuộc vây hãm Sarajevo, có 1 anh chàng
phóng viên,
trở về lại Berlin, trở về lại căn phòng của mình, và, xỏ vô quần, và,
cái
quần tuột ra khỏi anh ta.
Thoạt đầu, anh ta nghĩ,
đếch phải quần của mình, nhưng
nhìn lại thì đúng là quần của mình. Và anh ngộ ra, mình thì vẫn là
mình, đếch mất
cái chó gì cả - tất nhiên, súng vưỡn còn – nhưng, một cách nào đó, về
thể chất
lẫn tinh thần, anh ta đếch còn như xưa!
Đúng là tình
cảnh của Gấu. Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn nguyên, nhưng có 1 cái
gì đã mất
đi, theo nó.
Khe Sanh,1968
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Kiệt, [MCNK],
và kết cục bi thảm của anh, làm Hai Lúa nhớ đến F. Scott Fitzgerald và
cuốn
Tender is the night của ông.
Hai Lúa đọc
qua bản tiếng Pháp, Tendre est la nuit. Trước khi Mặc Đỗ dịch ra tiếng
Việt. Với
cái tít thật tuyệt: Cuộc Tình Bỏ Đi.
Tít này,
theo Hai Lúa, là từ Thế Hệ Bỏ Đi, của Hemingway. Đúng ra, từ Gertrude
Stein.
Đúng hơn nữa, từ một tay chủ gara, nơi Gertrude Stein hay sửa xe.
Hemingway kể
lại nguồn gốc của từ này, trong Paris là một ngày hội.
Cuộc Tình Bỏ
Đi, Thế Hệ Bỏ Đi, Thế Hệ Mất Mát. Thế Hệ Chó Gậm... tất cả đều đúng cho
đám
thanh thiếu niên thiếu nữ miền nam, trổ mã, lớn lên, đúng vào lúc cuộc
chiến trở
nên khốc liệt.
"Cả lũ
mi là một thế hệ bỏ đi."
"You
are all a lost generation".
Nhưng giá mà
làm được như Kiệt làm, đối với cuộc chiến đó, và luôn cả với cuộc đời
này, thì
thích, nhỉ?
"Anh
làm mặt lạ với mọi người quen. Anh nghênh ngang như giữa nơi ghé tạt ít
ngày rồi
mai mốt đi không bao giờ trở lại."
*
Duy muốn hỏi
Kiệt: Hiền đâu? Hiền ra sao?
Độc giả cũng
muốn hỏi Kiệt câu đó.
"Nàng
đã đi rồi, không bao giờ trở lại. Không bao giờ, thật như thế… Nàng đã
trả anh
về cho em. Nàng giữ anh cho em, nếu không anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy
anh trở
về, còn nàng ở lại, nàng ở lại một mình… Anh chỉ đưa nàng đến đó, còn
anh trở về
với em, trở về mãi mãi với em. Anh hy vọng em hiểu…."
Bố bà vợ nào
hiểu nổi, đừng nói chuyện tha thứ, cho nổi, bớ ông Kiệt ơi!
*
Từ giờ đến
ngày Kiệt đi, Duy sẽ phải nói nhiều. Có lẽ rồi sẽ mang cả đời mình ra
kể.
MCNK
Đọc câu
trên, thật kỳ lạ, bởi vì chẳng một chút liên quan, Hai Lúa bỗng nhiên
nhớ đến một
câu, của mình, trong Lần Cuối Sài Gòn.
Một thành phố
mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó.
Có thể, câu
của Hai Lúa, thực sự là như thế này:
Kể từ ngày bỏ
thành phố ra đi, có lẽ sẽ phải mang cả đời mình ra kể, thế vào chỗ của
nó.
Và như thế,
Tin Văn có nghĩa là.... Sài Gòn?
*
Kiệt gù
lưng, co đầu gối, chống khuỷu tay lên đùi, bụm tay ôm kín chiếc
harmonica hình
vành cung, thổi thì thầm. Duy chột dạ: điên thật. Kiệt say sưa như
không còn biết
mình ở đâu. Mắt lim dim, tóc xõa rũ trên trán. Hai bàn tay ôm kèn lúc
ấp lúc mở,
ngón tay rung lắc. Tiếng kèn ập òa, nhịp đệm lưỡi, tiếng ngân rung.
Đồi vắng. Những
người khác đều ở xa chỗ xe đậu. Gió có thể đưa tiếng kèn bay lan, nhưng
người
ta chẳng để ý hoặc nghĩ tai mình ù.
Qua những
giây bối rối mất tự nhiên, Duy ngớ dần theo tiếng đàn.
*
Đây chắc
là
chiếc kèn Oanh tặng, lần gặp chót, ở Sài Gòn.
Chàng, thay
vì nhớ Oanh, bèn thổi kèn.
Điên thật.
Sướng thật.
*
Hồi nhỏ, học
Hà Nội, Hai Lúa cũng có một thú vui, là chơi đàn măng đô lin. Ông thầy
dậy HL,
là chú Trực, con ông giáo Giực, ông giáo làng Hai Lúa. Ông đã từng dậy
ông cụ của
Hai Lúa, rồi tới Hai Lúa. Chắc là một ông đồ miền Trung, lưu lạc ra đất
Bắc, tới
làng Thanh Trì, gặp bà cô của Hai Lúa, cảm nặng, bèn ở lại luôn.
Ông là người
tài hoa, chắc thế, vì chú Trực tài hoa lắm, nghề ảnh, nghề đàn, nghề
cờ, nghề
gì cũng rành. Sau, vì ông bố ghiền, ông làm thêm nghề mật thám cho Tây.
Ông truyền
cho Lúa [từ nay gọi vậy cho tiện], thú chơi cờ tướng và chơi đàn măng
đô lin.
Người khám
phá và mê Lúa đàn, là Ông Tây, chồng Cô Dung, người nuôi Lúa những ngày
học Hà
Nội.
Bao nhiêu
năm nhớ lại, Ông Tây thật đúng là tri âm tri kỷ của thằng bé Bắc Kỳ mắt
lác
ngày nào.
Hồi ở nhà Cô
Dung, một villa trên đường Nguyễn Du, nhìn ra hồ Thuyền Quang, Lúa còn
có một
cái thú ơi là thú, là, vào những ngày thu hoặc đông, buổi sáng sớm,
hoặc lúc chập
tối, thằng bé bèn ra đứng, hai tay ôm chặt mấy song sắt chiếc cổng lớn,
mắt đăm
đăm nhìn lớp sương mù phủ kín mặt hồ.
Lúa cứ nghĩ
chẳng ai để ý. Cho đến một bữa, quay vô, nhìn lên trên cửa sổ phòng bà
cô, thấy
Ông Tây nhìn xuống thằng bé, như thông cảm.
Rồi một bữa
buổi tối, hình như là tối Thứ Bẩy, bà cô Me Tây, và ông chồng già Tây
Thuộc Địa,
kỹ sư sở Hỏa Xa Đông Dương đi shopping Tràng Tiền, Godard từ hồi chiều,
nhà
không có ai, Lúa lôi cây đàn măng đô lin ra chơi mê mải, mắt nhắm tít,
tới một
lúc, chợt giật mình, mở mắt nhìn ra, thấy Ông Tây đang ngạc nhiên, đứng
sững
nhìn thằng bé, từ phía bên ngoài sân.
Sau đó, bà
cô nói, Ông Tây đứng có đến gần nửa tiếng đồng hồ, chỉ để nghe thằng
cháu của
Cô đàn! (1)
Cali 2012 With H/A
Bỗng nhớ… Sad
Seagull và những ngày tá túc ở nhà ông bạn
Bạn, ở Tiểu Xề Gòn, và lời dặn dò của ông:
Ông về chuyến
này, phải viết về kịch. Hoặc tệ lắm, dịch Kịch!
Bỗng nhớ đến Bao Lơn, và những buổi sáng chỉ có
hai anh em, là Ông Số 1, “Đông Phương Bất Bại”
– nick nhà thơ kẹo mứt ban cho ông, và thằng em, tên “sa đích
văn nghệ” –cũng NS
ban cho - ở Quán Chùa, Xề Gòn.
Ông phán, Kịch
mới đứng đầu cõi giang hồ gió tanh mưa máu.
Và “Bao Lơn”, và 1 trong những đỉnh
của nó.
Bi giờ, đọc
lại, thì mới hiểu, tại sao TTT mê Le
Balcon:
Nó là/ làm nhớ đến, cái không khí bị vây hãm của Xề Gòn, hồi
đó.
Trong Bao Lơn,
cũng có 1 ông HPNT, sát thủ số
1 của Mậu Thân Huế ngày nào.
"Rotten
with genius", thối rữa với thiên tài. Céline phán, về “Thánh Jean
Genet" [chữ của Sartre]
Evil Axis
Sự kiện, báo Người Việt
chửi cả lũ VNCH hải ngoại, và lũ này vẫn tiếp tục mua báo của băng đảng
Cờ Lăng của chúng, và sự kiện, dân thủ đô VC xếp hàng chờ tới lượt
“được” chửi, có khi được đá, được đạp, nếu đông khách quá, rồi mới cho
ăn cháo, ăn phở, tưởng chẳng mắc mớ gì với nhau, hay chỉ là 1 sự kiện
văn hóa sa đọa - theo Gấu Cà Chớn, có lẽ không phải.
Không phải tự nhiên mà Sến
“ngứa miệng”. Phải có lý do hoặc tiềm ẩn hoặc đen tối nào đó. Có khi
chính Sến cũng không biết, và có thể nó liên can đến cái chuyện "Tôn
Phu Nhân qui Thục"!
Bắc Kít đâu còn là quê hương của Sến?
Gấu nghĩ hoài, và cuối
cùng ngộ ra, khi nhớ tới vở kịch Le Balcon của Jean Genet.
Gấu biết đến cái tên vở kịch cũng như tên tác giả, là qua ông anh nhà
thơ. Một lần ngồi Quán Chùa, lèm bèm về kịch - Ông anh phán, kịch mới
đứng đầu thiên hạ, Thơ là đàn em, là “Ông Số 2”, so với nó - và nhân
đó, ông nhắc tới Le Balcon, và cho biết, ông mê kịch này lắm;
và bây giờ, ông đi xa rồi, Gấu tự hỏi, hay là, sự kiện ông mê kịch, có
liên can tới sự kiện Sến “ngứa miệng”, và có thể còn liên quan đến cả
Gấu nữa, liên can đến Cái Ác Bắc Kít!
Liên can đến “Tội Tổ Tông”, từ đó, đẻ ra cú ăn cướp Miền Nam!
Hà, hà!
Nhưng gì thì gì, phải đi
một đường “Le Balcon” trước đã.
*
Trùng hợp
làm sao, trên talawas thấy có link, một
bài viết về mấy quán ăn của đất Hà Thành ngàn năm văn vật.
Khách đến, để ăn, lẽ dĩ nhiên, nhưng còn để được nghe chửi.
Gấu bỗng nhớ đến kịch nổi tiếng của ông "Thánh" Jean Genet, La
Balcon.
Và nhớ... Đỗ Hoàng Diệu, tuy chưa từng gặp.
The Balcony, [Ban công, Bao Lơn],
kịch nổi tiếng của "Thánh" Genet.
Thánh, là do Sartre phong cho ông.
Genet viết
kịch này, ấn bản thứ nhất, vào năm 1955. Kịch xẩy ra tại Bao Lơn Lớn,
Le Grand Balcon, một nhà bướm, khách của nó, tầng lớp tinh anh của
thành phố, của chế độ, của tôn giáo... Họ tới để được bướm hành hạ,
chửi mắng, xỉa xói, đánh đập. Sau khi được hành, cả phần xác lẫn phần
hồn, tới chỉ như thế, họ thảnh thơi ra về, được thanh hoá, và phạm tội
tiếp. Mắm mì, chủ nhà bướm - căn nhà của những ảo tưởng, the house of
illusions - tên là Irma. Những nhân vật khi xuất hiện, thường lập đi
lập lại những "ẩn dụ" liên quan tới cuộc cách mạng đang diễn ra dưới
phố. Một trong những bướm, Chantal, trốn nhà bướm tham gia cách mạng và
trở thành biểu tượng của Tự Do.
Cách mạng thành công, làm thịt Vua và Hoàng Hậu, trùm Công An bèn thay
thế Hoàng Hậu bằng mắm mì Irma....
Gấu tui không hiểu, Đỗ Hoàng Diệu đã từng đọc "The Balcony"?
Thiên hạ khen Bóng Đè um lên,
bởi là vì ĐHD đã "viết giùm" những ẩn ức, những ẩn dụ cho họ?
Đọc Bóng Đè, theo một nghĩa
nào đó, là trở thành khách hàng của
Bóng Đè [của The Balcony]?
Được đến The Balcony, được
hành xác, và sau đó, được thanh hoá?
Những đao phủ, thay vì ngồi thiền, thì đọc... Bóng Đè?
Gấu sợ rằng, những quán chửi ở Hà Thành, là đã nắm đúng huyệt của thời
đại, đi đúng giòng văn học tự kiểm, tự vấn với những NHT chẳng hạn.
Ông này chẳng phải chửi um lên, mà gạt đi không hết độc giả?
*
Le mauvais gout mène au crime [Stendhal].
Thưởng ngoạn dởm đưa đến tội ác.
Trong nhiều
năm Genet mơ tưởng viết một vở kịch về Tây Ban Nha, và Bao Lơn
bật ra từ ao ước đó:
"Điểm xuất phát Bao Lơn được ấn định là Tây Ban Nha. Một Tây Ban
Nha của Franco, và cuộc cách mạng tự thiến chính nó, là của tất cả đám
Cộng Hoà, khi họ chấp nhận thua trận."
"Nhưng sau đó, vở kịch cứ thế triển nở, mặc xác, chẳng thèm để ý đến
Tây Ban Nha: Kịch đi đằng kịch, Tây Ban Nha đi đằng Tây Bán Nhà! [And
then my play continued to grow in its own direction and Spain in
another]."
Rõ ràng là Trùm Công An có thể coi như Franco, nhà độc tài, Roger,
những anh em cách mạng, Chantal, cô bướm bỏ nhà điếm đi theo cách mạng:
cuộc đời ngắn ngủi của nền Cộng Hòa.
Và mắm mì Irma: Tây Ban Nha đích thị đất nước thân yêu của chúng ta!
Nhìn như thế, có thể giải thích, con đường từ NHT đến ĐHD, và liệu có
thể đây là lý do thầm kín tại sao vẫn lại là NN làm bà đỡ cho tài năng
mới mẻ này: Thất bại của một Tướng Về Hưu phát sinh một Bóng
Đè? Hay nói theo kiểu "bỗ bã" đặc biệt NHT: Tướng Về Hưu bị
thiến biến thành Bóng Đè, hay ngược lại, Bóng Đè
là một trường hợp "quá cái biến thành đực", "âm thịnh dương suy"?
Trong những kỳ tới Tin Văn sẽ giới thiệu bài phỏng vấn Genet, và trường
hợp Bao Lơn được dàn dựng, phản ứng của chính tác giả với đứa
con của mình, khi qua tay đạo diễn, và của khán thính giả. Có vẻ như,
nó sẽ đưa ra thêm một ý kiến cho cuộc tranh luận chung quanh vấn đề tác
giả có nên bảo vệ tác phẩm của mình, hay là kệ mẹ nó, ai muốn hiểu thế
nào thì hiểu!
Quá cái biến
thành đực?
Ai vậy cà?
Đè
Bắc Kít đâu còn là quê
hương của Sến?
Câu này, thực sự GCC không tính viết về Sến, mà là về Gấu. Và về cuộc
tình thê lương, ngay những ngày đầu ra hải ngoại, của 1 anh già không
làm sao quên được cái chuồng giam giữ tuổi thơ của nó, là xứ Bắc Kít.
Bạn có nhớ Mai Thảo, đang nằm ốm, chờ đi xa, có 1 em Bắc Kít 100 phần
dầu, Hà Nội cũng 100 phần dầu, ghé thăm, ông nhỏm phắt dậy, thảng thốt
hỏi, ai đó, lâu quá mới được nghe giọng Hà Nội.
Cuộc tình khi sắp đi xa, của Gấu cũng thê lương, cũng thảng thốt như
thế đó!
Hà, hà!
Cuộc tình chót đời, vào lúc sắp
xuống lỗ, đơn phương, của Gấu, là... tưởng tượng ra 1 em Bắc Kít, lấy
chồng ngoại, và khi được hỏi, tại sao không lấy Mít, và, tại sao không
lấy 1 tên Bắc Kít, Em trả lời, tụi khốn đó đâu có biết trọng đàn bà,
nhất là đàn bà đã có 1 đời chồng mất đi vì cuộc chiến!
Thế là Gấu bèn tưởng tượng tiếp, ta sẽ là tên Mít đó, tên Bắc Kít đó,
và ta nói, ta yêu Em, và chắc chắn em sẽ tin.
Nói tiếng Vịt, tất nhiên:
Anh "thươn" EM!
[Em gốc “rau muốn”, thành “giá sống”, từ 1954]
Ui chao, Em tin thiệt!
Gấu nhận được cái mail sau cùng
của Em, chắc là trong mơ, mới tuyệt vời làm sao:
Tui bận lắm, đâu có thì giờ
rảnh mà trả lời mail của anh.
Nào chồng, nào con, nào công việc chùa chiền, nào.. ‘viết’ nữa.
Nhưng cũng ráng viết vài dòng…
Ui chao GNV lại nhớ đến nhân
vật của Camus, lo hết cuộc đời trần tục này, rồi nếu có tí dư, thì dành
cho… trăng sao, và cho Gấu!
Tks. Take Care. Plse Take Care.
NQT
Ui chao,
đúng cái cảm giác của MT, khi nghe giọng Bắc Kít, Hà Nội của em, bữa
đó….
Còn 1 cú
nữa, cũng xẩy ra vào thời kỳ mới tới Xứ Lạnh, cũng 1 em Bắc Kít, phôn
cho Gấu, khi đang làm 1 tên bán bảo hiểm nhân thọ, nhưng em này còn trẻ
măng, giọng nũng nịu không thể nào mà không mê cho được... Gấu
hình như cũng đã lèm bèm rồi, chính vì thế mà Gấu nghi là cái
miền đất khốn kiếp đó trả thù Gấu, khi Gấu lấy 1 em miệt vườn, để chống
lại nó!
Lại còn cái
mẩu chuyện, lần trở về mái nhà xưa [Người xa vắng biết đâu nấm nhà
buồn] đi tham quan bướm Hà Nội, gặp1 bướm, khi nghe giọng Gấu, bèn cau
mặt, mi là 1 tên Nam Kít, bày đặt học tiếng Bắc Kít. Cái thứ tiếng Bắt
[Bắc, em chọc quê Gấu], chua như dấm, the thé như 1 con động kinh, hay
gì mà bắc [bắt] chước? (1)
|
|