Ngày 23 Tháng Giêng, 1963,
Kim Philby, gián điệp Anh (cộng
tác viên một thời cho Người Kinh Tế) chuồn qua Xô Viết. Chín
tháng sau,
“Điệp Viên Từ Miền Lạnh" ra lò. Giả
tưởng, tất nhiên, nhưng hình như nó còn thực hơn cả sự thực, phản
chiếu một
thực tại rộng lớn hơn, cái gọi là Cuộc Chiến Lạnh. Bảnh hơn
nữa, nó xuất hiện, và sau đó, tiểu thuyết điệp viên thay
đổi
hẳn, không còn như trước nữa. Cuốn tiểu thuyết mở
ra với cảnh Alec Leamas, điệp
viên Anh, phụ trách một đơn vị phản gián ở Bá Linh, chờ 1 đệ tử, biệt
kích ném qua Đông Đức, bị cháy, và phải bỏ chạy, qua Trạm kiểm soát
Charlie. Ngay từ câu “rất” đầu tiên, là cái viết của Le Carré,
như 1 con rắn độc, thò mỏ ra chơi 1 phát. Những xen, cảnh thì được
chiếu sáng theo
kiểu cà giựt, bằng “flashpoint” [điểm hỏa, tia loé]. Nhân vật thì được
phác họa
bằng những câu sắc, lẹ. Câu văn ngắn, điểm đúng huyệt. Tình tiết rắc
rối,
không dễ mò, nhưng không bao giờ lâm vô tình trạng quá tải, với những
nhân vật
phụ, những cú xoắn thừa thãi, hay khúc ngoặt không cần thiết. Không
giống
tiểu thuyết gián điệp “James Bond 007”, thế giới của le Carré gân guốc,
chai sạn,
và rặt một màu u tối. Leamas tự mình chuốc rượu mình, trong những căn
phòng tù
mù, bàn ghế không phải không bày mà gần như đếch có. Đờn bà thì câm,
nếu không muốn nói là nín khe, trầy trụa, không phải thứ lụa là gấm vóc
của
Ian Fleming. Xa vời cái thứ hoành tráng, say đắm, những điệp viên của
le Carré
thì, bằng những từ của Leamas, "tuồng ảo hóa đã bày ra đấy, toàn 1 lũ
khùng điên, ba trợn, phản bội, những tên sa đích, ghiền rượu,những kẻ thắp sáng cuộc đời thối rữa của
chúng, bằng cách chơi trò cao bồi vs mọi da đỏ”, “a squalid procession
of vain
fools, traitors…pansies, sadists and drunkards, people who play cowboys
and Indians
to brighten their rotten lives”. Cái sự
“trần
thùi lụi” này làm cho thế giới của những tên ma quỉ, gián điệp hai mang
của le
Carré, nếu không “xác thực”, thì “đáng tin”, như chính ông viết, trong
lời bạt,
50 năm sau khi nó được xb lần thứ nhất. Cái viết ông mắc nợ rất nhiều
từ 1 bậc
thầy khác, trong giới viết truyện điệp viên bảnh tỏng, Graham Greene,
và
tác phẩm
thần sầu của ông này, “Brighton Rock”, xb năm 1938. Nhưng cái vẻ gân
guốc, chai
sạn của “Tên Điệp Viên Từ Miền Lạnh” còn có thể tìm thấy ở trong 1 giả
tưởng khác,
cũng xuất hiện vào thời kỳ này. Năm năm trước đó, Allan Sillitoe viết
về cuộc sống
của giai cấp lao động ở Nottingham, trong “Saturday Night, Sunday
Morning”, đã
làm độc giả phát sốt với những miêu tả những vụ phá thai ở những con
phố sau,
những chiều tối trải qua trong những quán rượu, bằng tiền trợ cấp thất
nghiệp. Vào
năm 1956, John Osborne viết “Nhìn lại với Cáu Giận”, “Look Back in
Anger”, một
vở kịch hiện thực xoay quanh một anh chàng trẻ tuổi cáu giận, bất mãn.
Tiểu
thuyết của le Carré xoay quanh một chuyện khác, và nó phản chiếu một
vết nứt rạn
rộng hơn, về thời hậu chiến Anh, và mở ra 1 đường viết khác về cuộc
sống ở xứ sở
này. Chẳng
bao lâu
sau khi cuốn tiểu thuyết xb, le Carré nghỉ chơi với sở ngoại giao và
chỉ lo viết.
Chừng 20 cuốn tiếp theo, kể cả cuốn mới ra lò, đầu năm nay, 2013, “Một
Sự Thực
Thanh Nhã.” Tất cả đều có thứ văn phong căng thẳng, và xoáy vào chi
tiết. Nhưng
“Điệp viên từ Miền Lạnh” kể như bảnh nhất. Gần 30 năm sau khi Bức Tường
Bá Linh
sụp đổ, cuốn tiểu thuyết của le Carré vẫn làm độc giả nhức nhối với
Cuộc Chiến
Lạnh, sự bất lực và dối trá của nó. Cuốn tiểu thuyết nhắc nhở chúng ta,
1 giả
tưởng, thứ thật bảnh, có thể tra hỏi, về chuyện, nhà
nước làm ăn ra làm sao.
Prospero *
Lần kỷ niệm
lần thứ 100, năm sinh của Greene [1904-1991],
tác phẩm
của ông được xb toàn bộ [chắc thế], mỗi cuốn kèm 1 bài biết thật bảnh.
Coetzee,
trong tập tiểu luận của ông, chọn Brighton
Rock [Introduction, ấn
bản Penguin, New York, 2004] Theo ông, đây
là tác phẩm nghiêm trọng đầu tiên của
Greene, his first serious novel, theo nghĩa, viết với những ý nghĩ
nghiêm trọng.
GG rất mê mấy dòng thơ dưới đây:
Our
interest's on the dangerous edge of things.
The honest
thief, the tender murderer,
The
superstitious atheist.
[Nỗi quan
hoài của chúng ta, là vào sát na sợi tóc nguy hiểm, ở mép bờ.
Tên trộm
lương thiện, tên sát nhân dịu dàng. kẻ vô thần mê tín].
Robert
Browning,
« Bishop
Blougram's Apology »
[Lời xin lỗi
của Bishop Blougram]
Thầy của le
Carré, là Greene. Thầy của Greene, là Conrad.
Nếu phải chọn đề từ cho
toàn bộ tác phẩm, Greene chọn câu trên, theo Coetzee.
Thế giới của
Greene, 'Greeneland', là một miền đất trong đó, những con người bất
toàn,
imperfect, chia năm xẻ bảy, divided, như bất cứ một vẹn toàn,
integrity, trong khi niềm tin bị thử thách ở mức tới hạn, their
belief tested to the limit, và Thượng Đế,
nếu có,
thì đánh bài chuồn, nếu không muốn nói, đi trốn, ở ẩn, hidden.
*
Coetzee, có
thể nói, là 1 người dẫn GCC vô văn chương thế giới hiện đại, như là 1
phê bình
gia, nhà điểm sách, lương tâm của 1 thời, cùng với những đấng như
Steiner. Đọc ông rất thú,
vì thể nào
bạn cũng kiếm thấy 1 ý, 1 câu thần sầu của ông, chiếu rọi 1 tác giả.
Thí dụ,
khi ông viết về Walter Benjamin, và nhìn ra hai tác phẩm khổng lồ về
điêu tàn của
thế kỷ 20, ngó nhau:
Từ
một khoảng cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu
tàn lớn
lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của
Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách
theo kiểu
cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và
những
trích dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình
ảnh và
dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và đều nằm dưới sự chứng giám
của những
nhà kinh tế (một bên là Marx, và một bên là Gesell và Douglas).
Cả hai tác giả đều có đầu tư vào trong những ngành cổ học, và cả hai
đều đánh
giá quá cao sự thích nghi của chúng đối với thời đại của chính họ.
Chẳng người
nào biết, khi nào thì dừng. Và cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì con quái
vật là
chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin, là một kết cục bi đát. Với Pound, ô
nhục.
Ông
viết về Paul Celan, mà chẳng tuyệt sao:
Celan là thi
sĩ ngọn tháp Âu Châu ở những thập niên giữa thế kỷ 20, người mà,
thay vì chuyển hóa thời của mình – ông đếch có hứng đó – thì xử sự như
một cây
roi điện xả hết luồng điện cực kỳ khủng khiếp chứa chất trong nó, của
thời của mình.
Tuyệt!
Celan
is the towering European poet of the middle decades of the 20th
century,
one who, rather than transcending his times – he had no wish to
transcend them –
acted as a lightning rod for their most terrible discharges.
Đâu
có như phê bình gia Mít. Hoặc dởm, hoặc bịp.
Và đều đếch có tí lương tâm: Bỏ nước ra đi, tố cáo VC chán, lại mò về,
làm như
đếch có chuyện gì xẩy ra!
Nhà văn vào
thời này, Tây hay Đông, nếu đúng là thứ thiệt, gắn bó với viết lách,
nói chung,
đều thật rành cái thế giới của họ, không chỉ như nhà văn, mà còn như là
nhà phê
bình, điểm sách. Coetzee là 1 trong thứ đó. Trong bài giới thiệu tập
tiểu luận
thứ nhì của ông Inner Workings,
người viết, Dereck Attridge, đã đặt ra câu hỏi,
và trả lời, chúng ta cần gì đọc phê bình điểm sách của một tiểu thuyết
gia bậc
thầy đã đoạt Nobel? Điều gì khiến chúng ta tò mò muốn đọc thứ đó?
Gấu mê đọc
tiểu luận của Coetzee. Tiểu thuyết, mua gần như đủ cả, và thường là cả
hai, tiếng Anh và tiếng Tẩy, nhưng chỉ đọc "Ô Nhục", tính
đọc thêm cuốn, lấy khung cảnh St Petersburg, để vinh danh sư phụ của
ông, là Dostoiesky: The Master of St
Petersburg.
Tiểu thuyết
của Coetzee, sự thực, cũng pha tiểu luận. V/v Văn phong,
phải là
cái tay trên Intel, khi chỉ ra, tính hà tiện để chảy máu mắt, khi viết
của Coetzee.
Nhà văn Mít chưa ai hiểu ra được điều này. Chữ đầy ra đấy, tại
sao hà
tiện. Họ đâu có biết, viết, thừa 1 chữ, là hỏng 1 chữ đã được viết ra,
vì không
trân quí nó!
Aleksandr
Solzhenitsyn, tiểu thuyết gia chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20,
mất ngày 3 Tháng Tám 2008, thọ 89 tuổi.
Vài tuần sau khi chôn ông, nhà nước Nga của Putin làm 1 cú thật đểu
cáng, [a sly, even cynical gesture] đổi tên 1 cái phố lớn nhất của VC
Nga, ở Moscow, thành tên của Solz. Và còn làm 1 tấm plaque vinh danh
những thành tựu văn học của ông, kế ngay bảng tiệm McDomald, trên cùng
con phố!
Bà vợ góa của nhà văn, Natalia Solzhenitsyn kiên nhẫn ôm những trớ trêu
của lịch sử. Tuần lễ vừa rồi, bà tới Triển Lãm Sách Mẽo, ở trung tâm
Javits Center, vì một dự án tưởng niệm quan trọng hơn nhiều: Thành lập
một kho dự trữ hồ sơ văn học gồm tất cả những gì, từ tuổi thơ bị đóng
đinh thập tự của Solz, tới hàng ngàn trang bản thảo viết tay của ông,
trong có bản thảo Quần Đảo Gulag
mà bạn bè đã chôn giấu từ 20 năm ở vùng quê Estonia, bên ngoài tầm tay
của KGB.
Tin Văn: 1,242,390
Gió To: 1,475,097
Da Mùi: 1,874,281
Một mình một ngựa mà trùm
thiên hạ, thế mới ghê chứ!
Hà, hà!
Lâu lâu thì cũng phải cho GCC phởn 1 tí chứ! Cứ....
Lò Thiêu hoài, mệt quá!
TV có
nhiều cộng tác viên “thầm lặng”, chứ 1 mình GCC, sức mấy mà bảnh như
thế!
Tks all.
NQT
Ở Việt Nam, có một điều rất
chi thú vị: tôi
nhận ra là tuyệt đại đa số người ta rất hãi, rất dị ứng, rất nổi da gà
da vịt trước những gì không hiểu được ngay sau một lần đọc. Mọi thứ
phải thật là uốn éo dễ hiểu sáng quắc cơ. Thói này tôi gọi thẳng luôn
tên là chứng bạo dâm bệnh lý: một người đọc "trí thức" ở Việt Nam luôn
luôn có xu hướng đè bẹp tác giả, muốn đọc ai đó viết hay nhưng phải
thấp thấp một tí, ẻo ẻo một tí, để mình được ở hơn, ở trên. Thế cho nên
ngày nay chính là mảnh đất màu mỡ cho những người như Lê Hoàng hay
Nguyễn Quang Lập :d Cách thức này không giúp gì cho việc tiếp cận, đọc
thực sự những người như Coetzee. Hic, giải thích khó nhỉ, các bác cứ
thử bỏ khoảng mấy tháng để lần mò theo một cuốn sách nào đó của
Benjamin thì có thể lờ mờ hiểu tôi muốn nói gì. Blog
NL
Vẫn chuyện
phê bình, điểm sách, do nhà văn, tiểu thuyết gia viết.
Tờ NYRB, nhân kỷ niệm 50 năm, trình ra những bài viết cũ, của những tác
giả
đã từng cộng tác. Số 10.10.2013, trích đoạn bài của Hilary Mantel, viết
về
Naipaul, Oct 24, 2002. Tuyệt, nếu vừa đọc vừa nhìn về xứ Mít.
Trích đoạn thôi, đọc, đủ thú rồi.
TV sẽ dịch, như 1 cách đọc xứ Mít, nơi Naipaul gọi là,
những xã hội được
làm có 1 nửa, “half-made societies".
GCC đọc
Mantel mới đây thôi, sau khi bà đoạt liền tù tì hai Booker Prize, hai
cuốn tiểu
thuyết,
cùng đề tài, cùng 1 dạng, tiểu thuyết lịch sử.
Đọc bài viết về bà, 1 cách nào đó,
là biết khá rành về Naipaul - cái tinh tuý của ông, phải nói như vậy
mới đúng: Cuốn Sách của Thế Giới
của Naipaul.
ON JANUARY 23RD 1963 Kim
Philby, a British spy (and one-time contributor to The Economist)
disappeared following his defection to the Soviet Union. Nine months
later “The Spy Who Came in from the Cold” was published. It was the
third novel from John le Carré, the pseudonym for David John Moore
Cornwell, an unknown 30-year-old writer who was working as an
intelligence officer in Bonn. It was fiction, but the book seemed to
reflect the larger reality of the cold war. It also changed the face of
the thriller genre forever.
The novel starts with Alec Leamas, a British spy running the
counter-intelligence unit in Berlin, waiting for one of his agents to
cross the border into the West. From the very first sentence Mr le
Carré’s writing is startling. Scenes are illuminated as if by
flashpoint. Characters are sketched in sharp, quick phrases. Sentences
are short and to the point. The plot is complex, but never
over-burdened with secondary characters or unnecessary twists and turns.
Unlike the spy fiction of “James Bond”, Mr le Carré’s world was gritty
and distinctly dark. Leamas drinks whisky by himself in badly-lit,
barely-furnished rooms. Women are muted and downtrodden, rather unlike
the Technicolour fantasies in silk stockings created by Ian Fleming.
Far from being glamorous, Mr le Carré’s spies are, in the words of
Leamas, “a squalid procession of vain fools, traitors…pansies, sadists
and drunkards, people who play cowboys and Indians to brighten their
rotten lives”.
This starkness made Mr le Carré’s world of spooks and double-agents
seem, as he writes in a new afterword to the book, credible if not
authentic. His writing owes much to another master of the well-written
thriller, Graham Greene, and his 1938 masterpiece “Brighton Rock”. But
the grittiness of “The Spy Who Came in from the Cold” can be seen in
other fiction that emerged at the time. Five years earlier Allan
Sillitoe wrote about working-class life in Nottingham in “Saturday
Night, Sunday Morning”, shocking readers with descriptions of
back-street abortions and evenings spent drinking away dole money in
the pub. In 1956 John Osborne wrote “Look Back in Anger”, a realist
play revolving around an angry, disaffected young man. Mr Le Carré's
novel spun a rather different yarn, but it reflected a larger rift in
post-war Britain and tapped into a new way of writing about British
life.
Soon after the novel was published, Mr le Carré gave up his work with
the foreign office to concentrate on writing. Another 20 novels
followed, including “A Delicate Truth”, released earlier this year, and
“Tinker, Tailor, Soldier, Spy”, his dazzling 1974 novel which was made
into both a television series in 1979 and a film in
2011. All of these novels contain the same taut language and keen
eye for detail. But “The Spy Who Came in from the Cold” remains his
finest work. Nearly 30 years after the fall of the Berlin wall, Mr le
Carré’s novel still reverberates with frustration at the impotence and
deceit of the cold war. It is a reminder, if ever one was needed, of
how good fiction can question the way that governments work.
Read more:
Emma Hogan considers what makes John le Carré's voice
distinctive for Intelligent Life